Với mục tiêu đặt quyền lợi của người tham gia, thụ hưởng chính sách làm trọng tâm, thời gian qua, BHXH Việt Nam đã quyết liệt chỉ đạo BHXH các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (BHXH các tỉnh) tổ chức, thực hiện hiệu quả chính sách BHYT. Theo đó, thực hiện Chỉ thị số 38, công tác thực hiện chính sách BHYT trong giai đoạn 2009-2024 đã đạt được nhiều thành tựu, kết quả quan trọng, như: độ bao phủ BHYT tăng đều qua từng năm và tiệm cận với mục tiêu BHYT toàn dân; quyền lợi người tham gia BHYT được đảm bảo kịp thời với thủ tục ngày càng cải cách theo hướng tạo thuận lợi, tăng sự hài lòng cho người thụ hưởng...
Tỷ lệ bao phủ phát triển bền vững, tiệm cận mục tiêu BHYT toàn dân
Với vai trò là một trong những trụ cột chính của hệ thống ASXH, cả hệ thống chính trị từ Trung ương tới địa phương đã vào cuộc mạnh mẽ thực hiện hiệu quả chính sách BHYT. Đến nay, các tỉnh đã thành lập ban chỉ đạo thực hiện chính sách BHYT, trong đó đồng chí chủ tịch UBND tỉnh làm trưởng ban. Hệ thống tổ chức dịch vụ thu BHXH, BHYT tiếp tục được mở rộng, bố trí các điểm thu, nhân viên thu đến từng thôn, bản, tổ dân phố.
Là cơ quan tổ chức, thực hiện chính sách BHYT, toàn ngành BHXH Việt Nam đã bám sát thực tiễn, tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; chủ động phối với các bộ, ban, ngành, cấp ủy, chính quyền địa phương kịp thời đưa ra những giải pháp đồng bộ, đúng hướng, quyết liệt.
Kết quả, số người tham gia BHYT năm sau luôn cao hơn năm trước, đặc biệt tỷ lệ người tham gia BHYT tăng trưởng bền vững trong bối cảnh nền kinh tế gặp khó khăn, thách thức nhiều hơn là thuận lợi. Cụ thể như sau:
- Năm 2008: Toàn quốc có 39,7 triệu người tham gia BHYT, tỷ lệ bao phủ đạt 46,1% dân số.
- Năm 2009: Sau khi Chỉ thị 38 được ban hành, toàn quốc có trên 50 triệu người tham gia BHYT (tăng trên 10 triệu người so với năm 2008), tỷ lệ bao phủ BHYT đạt 58,2% dân số.
- Năm 2023: có trên 93,6 triệu người tham gia BHYT, tăng gấp 2,3 lần so với năm 2008, thời điểm chưa có Chỉ thị số 38, tỷ lệ bao phủ BHYT đạt 93,35% dân số, vượt 0,15% so với Nghị quyết 01/NQ-CP của Chính phủ.
Đặc biệt, kết quả phát triển người tham gia BHYT hộ gia đình có sự tăng trưởng rất ấn tượng: từ 3,76 triệu người tham gia (năm 2009) tăng lên thành 24,89 triệu người (năm 2023), gấp 6,6 lần so với năm 2009.
Việc giữ vững tốc độ phát triển BHYT trong khi đời sống người dân còn khó khăn một lần nữa đã khẳng định sự kiên định, quyết liệt của toàn hệ thống chính trị nói chung và ngành BHXH Việt Nam nói riêng trong việc thực hiện hiệu quả lộ trình BHYT toàn dân. Đây vừa là nhiệm vụ chính trị vừa thể hiện trách nhiệm của Ngành trong đảm bảo ASXH, chăm sóc sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.
Công tác truyền thông, tư vấn chính sách BHYT đổi mới linh hoạt, sáng tạo
Tỷ lệ bao phủ BHYT ở nước ta đã tiệm cận mục tiêu BHYT toàn dân. Đây không chỉ là minh chứng thể hiện sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân mà còn cho thấy vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, sự nhận thức, hiểu biết của người dân, doanh nghiệp, người lao động về ý nghĩa, giá trị, lợi ích của chính sách BHYT và nghĩa vụ tuân thủ pháp luật BHYT đã nâng cao rõ rệt.
Để tạo nên kết quả tích cực đó, công tác truyền thông, tư vấn BHYT đóng vai trò quan trọng là cầu nối để lan tỏa chính sách BHYT đến với nhân dân. “Công tác truyền thông phải luôn đi trước một bước” là quan điểm nhất quán của toàn ngành BHXH Việt Nam từ chỉ đạo, điều hành cho đến hành động. Ngày 24-8-2017, Ban Cán sự đảng BHXH Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 96-NQ/BCS về đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác truyền thông BHXH, BHYT trong tình hình mới tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác thông tin, truyền thông về chính sách pháp luật BHYT.
Thời gian qua, công tác truyền thông chính sách BHYT đã được triển khai đồng bộ, tăng cường, đổi mới theo hướng chuyên nghiệp cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Nội dung, hình thức, phương pháp truyền thông ngày càng đa dạng, phong phú, phù hợp với đặc thù từng nhóm chủ đề, đặc điểm văn hóa vùng miền, đảm bảo truyền tải thông tin tới người dân, người lao động dễ nghe, dễ hiểu, dễ thực hiện.
Bên cạnh phối hợp chặt chẽ với các bộ, ban, ngành, đoàn thể, các cơ quan thông tấn, báo chí cả Trung ương và địa phương đã tổ chức thành công trên 1.000 hội nghị, hội thảo…, hơn 170.000 tin, bài, phóng sự…, phát hành hàng chục triệu ấn phẩm các loại, BHXH Việt Nam còn phát huy thế mạnh của truyền thông số, truyền thông hiện đại, như: xây dựng, vận hành các kênh truyền thông mạng xã hội (Fanpage, Zalo OA) của BHXH Việt Nam; phát huy hiệu quả tư vấn, giải đáp thông tin cho Nhân dân qua hệ thống chăm sóc khách hàng, ứng dụng VssID- Bảo hiểm xã hội số và ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trên các kênh hotline và Cổng thông tin điện tử của Ngành. Trong đó, Hệ thống chăm sóc khách hàng (Call Center), đảm bảo hoạt động 24/7, đã tiếp nhận hỗ trợ, tư vấn, giải đáp vấn đề có liên quan đến chế độ BHYT cho 18.851 lượt cuộc gọi, góp phần giúp ngành BHXH Việt Nam đẩy mạnh việc chuyển đổi từ hình thức giao dịch trực tiếp sang hình thức sử dụng dịch vụ công trực tuyến. Đặc biệt, BHXH Việt Nam đã ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để xây dựng ngân hàng 3.000 câu hỏi/trả lời với hơn 110.000 dữ liệu huấn luyện và sớm vận hành Hệ thống trả lời tự động với mục tiêu nâng cao khả năng hỗ trợ người dân và tổ chức khi tương tác với cơ quan BHXH.
|
Tổng Giám đốc Nguyễn Thế Mạnh phát biểu ý kiến chỉ đạo tại Hội nghị tổng kết 15 năm thực hiện Chỉ thị số 38.
|
Số người thụ hưởng ngày càng lớn, quyền lợi của người thụ hưởng được đảm bảo đầy đủ, kịp thời
Với quan điểm xuyên suốt "Lấy người dân, doanh nghiệp làm chủ thể, trung tâm phục vụ", ngành BHXH Việt Nam luôn nỗ lực đảm bảo đầy đủ, kịp thời, đúng quy định các quyền lợi của người tham gia, thụ hưởng chính sách BHYT. Số lượt người có thẻ BHYT đi KCB tăng nhanh qua từng năm. Cụ thể như sau:
- Năm 2009: có 88,64 triệu lượt KCB BHYT với tổng chi KCB BHYT là 15.396 tỷ đồng
- Năm 2015: có 130,17 triệu lượt KCB BHYT (tăng 46,8% so với năm 2009).
- Năm 2020: có 167,34 triệu lượt KCB BHYT (tăng 28,6% so với năm 2015).
- Năm 2023: có 174 triệu lượt KCB BHYT (tăng 4% so với năm 2020).
Từ năm 2009 đến năm 2023, bình quân lượt KCB BHYT mỗi năm là trên 141 triệu lượt/năm (tăng 59,5% so với năm 2009), với tổng chi phí KCB bình quân 66,2 nghìn tỷ đồng/năm (tăng 330% so với năm 2009).
Đặc biệt, trong giai đoạn cả nước bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19, vai trò trụ cột của chính sách BHYT trong hệ thống ASXH càng được phát huy, góp phần chăm sóc sức khỏe, ổn định đời sống nhân dân, tạo thêm niềm tin vững chắc vào chính sách ASXH giàu tính nhân văn của Đảng và Nhà nước.
Chất lượng phục vụ ngày càng cao, người dân ngày càng tin tưởng, hài lòng
Bên cạnh việc giải quyết, chi trả chế độ, chính sách BHYT đầy đủ, kịp thời, đúng quy định, BHXH Việt Nam còn tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp để tạo ra nhiều tiện ích, lợi ích cho người tham gia, thụ hưởng và cơ quan quản lý Nhà nước trong việc phát hiện, phòng chống lạm dụng, trục lợi quỹ BHYT.
Theo đó, toàn Ngành đã đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính (TTHC) cắt giảm từ 115 thủ tục (năm 2015) xuống còn 25 thủ tục; ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong công tác nghiệp vụ, như: tin học hóa hầu hết các thủ tục tham gia BHYT và cấp thẻ BHYT; triển khai giao dịch điện tử đối với các tổ chức và cá nhân; triển khai 100% dịch vụ công (DVC) mức độ 4 cho các TTHC của ngành BHXH Việt Nam; tích hợp, cung cấp trên cổng DVC BHXH Việt Nam, Cổng DVC quốc gia và ứng dụng VssID-BHXH số trên nền tảng thiết bị di động... Kết quả, các năm qua, Hệ thống của BHXH Việt Nam đã tiếp nhận và xử lý gần 300 triệu lượt hồ sơ giao dịch trực tuyến, trong đó mỗi năm có hơn 170 triệu lượt đề nghị thanh toán chi phí KCB BHYT trên Hệ thống thông tin giám định BHYT.
Hệ thống Thông tin giám định BHYT được BHXH Việt Nam xây dựng và vận hành chính thức từ tháng 7/2016, đã kết nối liên thông dữ liệu giữa cơ quan BHXH với gần 13 nghìn cơ sở KCB BHYT trên toàn quốc. Hệ thống thông tin giám định BHYT liên thông với các phần mềm nghiệp vụ để cập nhật, theo dõi người tham gia đăng ký KCB ban đầu tại các tuyến, liên thông dữ liệu với phần mềm kế toán tập trung để quản lý tạm ứng, thanh toán chi KCB BHYT tại từng cơ sở KCB, để chống trục lợi giải quyết hưởng chế độ ốm đau, thai sản.
Đặc biệt, BHXH Việt Nam là một trong những đơn vị đi đầu trong triển khai các nhiệm vụ được giao tại Đề án 06 và Quyết định số 422/QĐ-TTg ngày 4-4-2022 của Thủ tướng Chính phủ, trong đó nổi bật là:
- Phối hợp với Bộ Công an chia sẻ thử nghiệm thông tin sổ BHXH, thông tin KCB BHYT để đưa lên ứng dụng VNeID. Chia sẻ thông tin thẻ BHYT để phục vụ KCB BHYT bằng căn cước công dân (CCCD) gắn chíp hoặc bằng ứng dụng VneID.
- Triển khai sử dụng đa nền tảng khi đi KCB bằng CCCD, VssID - BHXH số, ứng dụng định danh điện tử VNeID. Đến nay, 100% cơ sở KCB BHYT đã triển khai KCB BHYT bằng CCCD gắn chip (đáp ứng yêu cầu tra cứu thông tin thẻ BHYT bằng số định danh cá nhân/CCCD), với hơn 55,7 triệu lượt tra cứu thông tin thẻ BHYT bằng số định danh cá nhân/CCCD thành công phục vụ làm thủ tục KCB BHYT…
- Ứng dụng thí điểm xác thực thông tin sinh trắc học trên CCCD gắn chip trong KCB BHYT. Qua đó giúp thuận lợi cho người bệnh, thủ tục KCB nhanh chóng, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về công tác KCB BHYT.
- Phối hợp, hỗ trợ Bộ Y tế liên thông dữ liệu khám sức khỏe lái xe, giấy chúng sinh, giấy báo tử: Tính đến nay, trên toàn quốc có 1.216 cơ sở KCB đã gửi dữ liệu giấy khám sức khỏe lái xe, với 2.058.654 dữ liệu được gửi; có 1.582 cơ sở KCB gửi dữ liệu giấy chứng sinh, với 852.542 dữ liệu được gửi; 596 cơ sở KCB gửi dữ liệu giấy báo tử, với 8.575 dữ liệu được gửi.
Đặt quyền lợi của người tham gia BHYT làm trọng tâm, trong quá trình thực hiện giải quyết, chi trả chế độ, chính sách BHYT, BHXH Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Y tế và các bộ, ngành liên quan giải quyết khó khăn, vướng mắc trong tổ chức, thực hiện chính sách BHYT. Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở KCB tổ chức cung ứng dịch vụ y tế, đảm bảo tốt nhất quyền lợi cho người tham gia BHYT và cùng thực hiện trách nhiệm nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng quỹ BHYT.
Những thành tựu đạt được trong 15 năm thực hiện Chỉ thị số 38 của Ban Bí thư về công tác BHYT là nỗ lực của cả hệ thống chính trị, đặc biệt là của ngành BHXH Việt Nam, Bộ Y tế. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, chính sách BHYT không chỉ gia tăng tỷ lệ người tham gia BHYT, tiệm cận mục tiêu BHYT toàn dân mà còn đảm bảo tốt quyền lợi BHYT của người thụ hưởng; mở rộng về phạm vi, chất lượng dịch vụ, KCB BHYT. Do đó, người dân ngày càng nhận thức sâu sắc hơn về vai trò, ý nghĩa, tính ưu việt của chính sách BHYT và tin tưởng, tích cực tham gia vào hệ thống ASXH của Đảng và Nhà nước ta. |
P.V