Kính thưa các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Kính thưa các đồng chí lão thành cách mạng, các Mẹ Việt Nam Anh hùng, các vị đại biểu khách quý,
Thưa đồng bào, đồng chí và chiến sỹ cả nước,
Hôm nay, trong không khí cả nước phấn khởi đón mừng năm mới, mừng đất nước đổi mới, mừng Đảng ta tròn 83 tuổi, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức trọng thể Lễ kỷ niệm 40 năm ngày ký Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam - một sự kiện có ý nghĩa lịch sử trọng đại trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang của nhân dân ta và nền ngoại giao Việt Nam.
Thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước, tôi nhiệt liệt chào mừng và xin gửi tới các đồng chí, các vị đại biểu, các vị khách quốc tế, các thành viên phái đoàn đàm phán Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, các cán bộ, chiến sỹ đã tham gia phục vụ Hội nghị Pa-ri tới dự Lễ kỷ niệm trọng thể này, cùng toàn thể đồng bào, đồng chí, chiến sỹ cả nước, đồng bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế lời chúc mừng tốt đẹp nhất.
Thưa đồng bào, đồng chí và các bạn,
Cách đây 40 năm, ngày 27-1-1973, Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết, kết thúc thắng lợi cuộc đấu tranh ngoại giao dài nhất, khó khăn nhất trong lịch sử ngoại giao nước ta ở thế kỷ XX; đánh dấu thắng lợi lịch sử của nhân dân ta sau hơn 19 năm đấu tranh kiên cường, bất khuất trên các mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao chống Mỹ xâm lược.
Cuộc chiến đấu trường kỳ, gian khổ của quân, dân ta trên chiến trường và cuộc đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Pa-ri đều nhằm mục tiêu là buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh, cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Biết bao đồng bào, đồng chí và chiến sỹ, những người con ưu tú của Tổ quốc đã hy sinh xương máu vì mục tiêu thiêng liêng ấy.
Ký kết Hiệp định Pa-ri, Mỹ đã phải công nhận nền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, phải chấm dứt ném bom miền Bắc, rút toàn bộ quân Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam; nhân dân ta đã thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược “đánh cho Mỹ cút” mà Bác Hồ kính yêu đã chỉ ra trước lúc Người đi xa. Hiệp định đã mở ra một cục diện mới với thế mạnh áp đảo của ta trên chiến trường, tạo tiền đề vững chắc cho quân và dân ta tiến lên “đánh cho ngụy nhào” với đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Hiệp định Pa-ri cũng là niềm cổ vũ lớn lao đối với nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới, những người đã đồng hành ủng hộ, giúp đỡ nhân dân ta trong suốt cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ, dõi theo từng diễn biến trên chiến trường cũng như trên bàn đàm phán tại Pa-ri. Hiệp định Pa-ri là sự minh chứng hùng hồn cho chân lý “đại nghĩa thắng hung tàn, chí nhân thay cường bạo”, củng cố niềm tin của nhân dân yêu chuộng hòa bình và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới vào sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa. Vì vậy, Hiệp định Pa-ri đã đi vào lịch sử của cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì độc lập, tự do, vì hòa bình và công lý. Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam cũng mở ra một giai đoạn mới ở khu vực Đông Nam Á, giai đoạn các nước Đông Nam Á hòa bình, ổn định, khép lại quá khứ thù địch, xích lại gần nhau để sum họp trong cộng đồng ASEAN ngày nay.
Thưa đồng bào, đồng chí và các bạn,
Hiệp định Pa-ri là đỉnh cao thắng lợi của mặt trận ngoại giao nước ta thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, là mốc son trong trang sử vàng của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam. Thắng lợi đó, trước hết bắt nguồn từ thắng lợi của cuộc kháng chiến vĩ đại của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng với những nỗ lực phi thường, quyết tâm chiến đấu, sẵn sàng hy sinh vì độc lập tự do, thống nhất đất nước của quân và dân ta trên các chiến trường, buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán, phải xuống thang và cuối cùng phải ký Hiệp định Pa-ri. Thắng lợi này mang đậm dấu ấn và phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh; có sự đóng góp từ những nỗ lực hết mình của các cán bộ, chiến sỹ trên mặt trận ngoại giao thời kỳ chống Mỹ, cứu nước mà trực tiếp là cuộc đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Pa-ri, cuộc đấu trí thể hiện bản lĩnh kiên cường, thông minh, sáng tạo của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam với một nền ngoại giao nhà nghề, sừng sỏ. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ta, mặt trận ngoại giao tại Hội nghị Pa-ri đã phối hợp nhịp nhàng với các mặt trận chính trị, quân sự; phát huy thắng lợi trên các chiến trường, giữ vững thế chủ động trong đàm phán, liên tục tiến công.
Song song với đấu tranh trên bàn đàm phán, các hoạt động tranh thủ dư luận quốc tế tại Hội nghị Pa-ri làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ chính nghĩa sáng ngời của cuộc chiến tranh giải phóng và thiện chí hòa bình của nhân dân Việt Nam; vạch trần những thủ đoạn, mưu đồ đen tối, tính chất phi nghĩa, tàn bạo của cuộc chiến tranh xâm lược của địch, đã góp phần quan trọng tạo nên phong trào nhân dân thế giới rộng lớn chống Mỹ, ủng hộ Việt Nam - một phong trào mang tính lịch sử và thời đại, tiêu biểu cho lương tri của loài người, đã tác động rất lớn tới dư luận tiến bộ Mỹ, thúc đẩy sự lớn mạnh của phong trào phản chiến ngay trong lòng nước Mỹ.
Kỷ niệm 40 năm ngày ký kết Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, chúng ta bồi hồi xúc động, ghi lòng tạc dạ công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, người đã đặt nền móng cho nền ngoại giao cách mạng Việt Nam; chúng ta ghi nhớ công lao của biết bao đồng bào, đồng chí, chiến sỹ đã anh dũng chiến đấu, hy sinh để làm nên những chiến công chói lọi; ghi nhận và đánh giá cao sự đóng góp của các thành viên: Đoàn đàm phán Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do đồng chí Xuân Thủy làm Trưởng đoàn và Đoàn đàm phán Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam do đồng chí Nguyễn Thị Bình làm Trưởng đoàn, đặc biệt là vai trò và những cống hiến to lớn của đồng chí Cố vấn Lê Đức Thọ. Chúng ta bày tỏ lòng biết ơn chân thành các nước xã hội chủ nghĩa anh em, bạn bè quốc tế, trong đó có nhân dân tiến bộ Mỹ, đã ủng hộ, cổ vũ cho cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân ta vì độc lập, tự do, hòa bình và công lý. Sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế đã trở thành một phần của lịch sử kháng chiến chống xâm lược của nhân dân Việt Nam vì độc lập tự do của Tổ quốc và cũng vì lẽ phải và công lý trên thế giới. Chúng tôi tin tưởng rằng, trái tim và khối óc của các bạn vẫn mãi mãi đồng hành với nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay.
Thưa đồng bào, đồng chí và các bạn,
Hội nghị Pa-ri và Hiệp định Pa-ri để lại cho chúng ta nhiều bài học sâu sắc, có ý nghĩa lớn trong tình hình hiện nay.
Trước hết, là bài học về sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ta mở ra mặt trận ngoại giao, phát huy thế mạnh của ngoại giao, phối hợp với các mặt trận chính trị, quân sự; lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, thống nhất các mặt trận, “vừa đánh, vừa đàm”, tạo ra sức mạnh tổng hợp, giành toàn thắng.
Thứ hai, là bài học về kiên định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, vì lợi ích quốc gia dân tộc; vận dụng đúng đắn phương châm ngoại giao Hồ Chí Minh “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, tạo thời cơ, kéo địch vào đàm phán, chủ động tấn công ngoại giao và kết thúc đàm phán khi điều kiện chín muồi; xử lý hài hòa quan hệ với các nước lớn, đồng thời tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế rộng rãi đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta để làm nên thắng lợi của Hội nghị Pa-ri.
Thứ ba, là bài học về tầm quan trọng của thực lực. Bác Hồ dạy: “Thực lực là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng. Cái chiêng có to, tiếng mới lớn”(1). Thắng lợi của Hội nghị Pa-ri bắt nguồn từ những thắng lợi trên chiến trường, từ sự lớn mạnh không ngừng về thế và lực của ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đó là sức mạnh của chính nghĩa, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế; sức mạnh từ sự kết hợp tài tình giữa các mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao; giữa đánh và đàm, giữa chiến trường và bàn đàm phán.
Thứ tư, là bài học về đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế. Để vượt qua những thách thức lớn, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là phương cách cực kỳ quan trọng, bảo đảm thắng lợi. Cuộc chiến đấu vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân ta thắng lợi vì đã phát huy được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, sự ủng hộ và giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, thực hiện đúng lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
Thứ năm, là bài học về xây dựng lực lượng. Từ Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 đến Hội nghị Pa-ri, đội ngũ cán bộ ngoại giao đã trưởng thành vượt bậc, được chuẩn bị và trang bị kỹ cả về kiến thức đối ngoại và nghệ thuật đàm phán. Cùng với sự chỉ đạo sát sao, Đảng và Nhà nước ta đã chọn lựa, tin tưởng giao trách nhiệm cho những cán bộ đối ngoại bản lĩnh nhất, xuất sắc nhất tham gia hai đoàn đàm phán, góp phần rất quan trọng làm nên thắng lợi của Hội nghị Pa-ri.
Thưa đồng bào, đồng chí và các bạn,
Ôn lại bài học lịch sử là để sống xứng đáng với các thế hệ cha anh, để hành động có trách nhiệm hơn trước Đảng, Tổ quốc và nhân dân. Các bài học của Hội nghị Pa-ri là hành trang quý giá để chúng ta vững bước tiến vào giai đoạn hội nhập quốc tế, đưa quan hệ hữu nghị và hợp tác với tất cả các đối tác đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững, củng cố, nâng cao thế và lực của đất nước. Trong kháng chiến chống xâm lược, thống nhất nước nhà, mặt trận ngoại giao đã có những đóng góp to lớn. Trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đối ngoại phải tiếp tục là mặt trận quan trọng góp phần phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc. Phát huy truyền thống tốt đẹp của ngoại giao Việt Nam và những bài học quý giá của Hội nghị Pa-ri, công tác đối ngoại cần quát triệt, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ Đại hội XI của Đảng đã đề ra, trong đó cần tập trung làm tốt những công việc sau đây:
Một là, tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại; phối hợp chặt chẽ các hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân; giữa ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa; giữa đối ngoại với kinh tế, quốc phòng và an ninh.
Hai là, kiên định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ; là bạn, là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, vì lợi ích quốc gia dân tộc, vì một nước Việt Nam giàu mạnh; nỗ lực triển khai định hướng chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.
Ba là, nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác đối ngoại phục vụ sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước. Vận dụng sáng tạo bài học “kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại” trong bối cảnh mới, giữ vững môi trường hòa bình, tạo thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế của đất nước ở khu vực và thế giới; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ đối ngoại tuyệt đối trung thành, suốt đời phấn đấu vì lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ ngang tầm với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn tin tưởng và kỳ vọng rằng, phát huy tinh thần Hội nghị Pa-ri, công tác đối ngoại nhất định sẽ tiếp tục đạt được nhiều thành tựu to lớn hơn nữa; ghi tiếp các mốc son mới trong sự nghiệp xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thân yêu của chúng ta.
Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm.
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam muôn năm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta.
Chúc sức khỏe và cảm ơn đồng bào, đồng chí và các bạn./.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang
---------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4, tr 126.