10 dự án luật gồm: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giao thông đường thuỷ nội địa; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm Y tế: Luật nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam; Luật Xây dựng (sửa đổi); Luật Đầu tư công; Luật Phá sản; Luật Hôn nhân và gia đình (sửa đổi); Luật Công chứng (sửa đổi); Luật Hải quan (sửa đổi); và Luật Bảo vệ môi trường.
Thảo luận về Luật giao thông đường thuỷ nội địa, các đại biểu Quốc hội nhất trí cần có các quy định pháp luật đối với một số hoạt động giao thông đường thủy nội địa tại các vùng nước không phải “đường thủy nội địa.” Các đại biểu phân tích về đặc điểm điều kiện tự nhiên của Việt Nam, thực tế hoạt động giao thông đường thủy nội địa vẫn đang diễn ra trên các vùng nước từ “mép luồng vào mép bờ tự nhiên và trên các sông, kênh, rạch chưa được công bố khai thác giao thông vận tải” (vùng nước chưa được quản lý, khai thác giao thông vận tải).Các đại biểu Quốc hội cũng đã thảo luận, cho ý kiến cụ thể về các nội dung quy hoạch phát triển đường thủy nội địa; quản lý luồng, tuyến; đăng ký phương tiện thủy nội địa; đăng kiểm phương tiện thủy nội địa.
Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bảo hiểm y tế đã được các đại biểu Quốc hội thảo luận tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII được thông qua tại kỳ họp thứ 7 này. Quốc hội đồng tình chính sách bảo hiểm y tế bắt buộc. Bên cạnh tính pháp lý bắt buộc tham gia BHYT mang ý nghĩa nhân văn vì lợi ích chăm sóc sức khỏe cho người dân, chia sẻ trách nhiệm với cộng đồng, như các quy định bắt buộc tiêm chủng với phụ nữ có thai và trẻ em trong Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm; quy định về bắt buộc chữa bệnh đối với người mắc bệnh tâm thần thể nặng, bệnh lao, phong đang thời kỳ lây truyền, bệnh lây truyền qua đường sinh dục và một số bệnh truyền nhiễm khác có thể gây nguy hại cho xã hội trong Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân; hay quy định đóng góp bắt buộc của cơ sở sản xuất, nhập khẩu thuốc lá đối với quỹ phòng, chống tác hại của thuốc lá trong Luật phòng, chống tác hại của thuốc lá...
Về Dự án Luật nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam, thảo luận tại buổi làm việc, một số ý kiến bày tỏ quan tâm đến quy định tạm trú tại khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu kinh tế cửa khẩu, đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt và khu vực biên giới. Các đại biểu cho rằng, khu vực biên giới là địa bàn có tính đặc thù, cần quy định rõ hơn việc khai báo tạm trú, trách nghiệm của cơ quan quản lý, chính quyền địa phương ở khu vực này.
Thảo luận dự thảo Luật Đầu tư công, nhiều ý kiến đại biểu Quốc hội nhất trí với quy định về phạm vi điều chỉnh như dự thảo Luật. Theo đó, Luật Đầu tư công điều chỉnh về quản lý, sử dụng vốn đầu tư công và cùng với các luật chuyên ngành khác tạo nên một khuôn khổ pháp lý đồng bộ, thống nhất điều chỉnh toàn bộ hoạt động đầu tư công. Dự thảo Luật đã quy định theo hướng nâng cao kỷ cương, kỷ luật trong quản lý đầu tư công, từ khâu phê duyệt chủ trương, thẩm định nguồn vốn nhằm hạn chế tình trạng đầu tư dàn trải gây lãng phí, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công.
Đánh giá cao và tán thành với nhiều nội dung đã được tiếp thu, chỉnh lý trong dự thảo Luật phá sản (sửa đổi), các đại biểu đồng tình với quy định phạm vi điều chỉnh, cũng như đối tượng áp dụng của Luật là doanh nghiệp và hợp tác xã. Các đại biểu nhận định rằng Luật phá sản (sửa đổi) kế thừa Luật hiện hành, tiếp tục quy định thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh là hướng đi phù hợp với chủ trương chung về tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng. Việc phục hồi hoạt động kinh doanh nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp, hợp tác xã thanh toán được các khoản nợ, thoát khỏi tình trạng phá sản và tiếp tục hoạt động kinh doanh. Song nhiều đại biểu cho rằng cần quy định rõ vấn đề người có quyền, nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Dự án Luật hôn nhân và gia đình (sửa đổi), Quốc hội đa số thành với việc bổ sung quy định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo trong dự án Luật, bởi thực tế hiện nay, nhiều vợ chồng không có khả năng sinh con mong muốn được thực hiện quyền làm cha, làm mẹ. Đối với việc áp dụng tập quán trong hôn nhân và gia đình, nhiều đại biểu tán thành với quy định của dự án luật bởi quy định này thể hiện được sự bảo tồn phong tục tập quán của các dân tộc Việt Nam; giải quyết được những vấn đề phát sinh trong thực tiễn liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình trong cộng đồng các dân tộc thiểu số.
16 dự án luật là: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006; Luật Tổ chức Toà án nhân dân (sửa đổi); Luật Tổ chức Viện kiểm soát nhân dân (sửa đổi); Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh; Luật Nhà ở (sửa đổi); Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi); Luật Doanh nghiệp (sửa đổi); Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi); Luật Dạy nghề; Luật Tổ chức Quốc hội (sửa đổi); Luật Đầu tư (sửa đổi); Luật Căn cước công dân; Luật Hộ tịch; Luật Quốc tịch Việt Nam và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự.
Về Luật Hàng không dân dụng, các ý kiến của đại biểu tập trung thảo luận xung quanh việc Nâng cao hiệu quả kinh doanh hàng không dân dụng. Bên cạnh những kết quả đạt được từ khi có Luật hàng không dân dụng năm 2006, Luật đã phát sinh một số hạn chế, bất cập cần được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, cụ thể về vị trí, chức năng nhiệm vụ của nhà chức trách hàng không; hoạt động thanh tra chuyên ngành hàng không; quản lý giá các dịch vụ chuyên ngành hàng không; quản lý, cấp phép bay cho tàu bay không người lái và phương tiện bay siêu nhẹ; sử dụng thương hiệu, nhượng quyền thương mại trong kinh doanh vận chuyển hàng không và kinh doanh hàng không chung... Ủy ban Pháp luật đề nghị cơ quan soạn thảo cần tiếp tục rà soát các quy định trong văn bản dưới luật đã được áp dụng ổn định và phù hợp với thực tiễn để quy định trong Luật, nhất là về các quy trình, thủ tục nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính, bảo đảm công khai, minh bạch và tính khả thi để công dân thực hiện quyền đã được Hiến pháp quy định; nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số nội dung nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước...
Về Luật Toà án Nhân dân (sửa đổi), các đại biểu cho ý kiến tập trung xung quanh vấn đề đảm tính độc lập của hoạt động xét xử. Tờ trình dự án Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) nhận định thực tiễn thi hành Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002, Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự năm 2002 cho thấy tổ chức và hoạt động của các Tòa án nhân dân ở Việt Nam đang bộc lộ những khiếm khuyết và bất cập. Chất lượng xét xử của các tòa án chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của xã hội... Dự án Luật được xây dựng trên cơ sở thể chế hóa các chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp, đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW, Kết luận số 79-KL/TW và Kết luận số 92-KL/TW của Bộ Chính trị và Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI. Việc xây dựng dự án Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) phải bảo đảm cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013; bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật; bảo đảm tính khả thi và không làm cản trở việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên...
Thảo luận về Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi), nhiều ý kiến tán thành với sự cần thiết sửa đổi Luật hiện hành xuất phát từ việc Hiến pháp năm 2013 đã có những nội dung mới, quan trọng về chế định viện kiểm sát nhân dân; dự thảo Luật cần quy định, làm rõ những nguyên tắc mới, tiến bộ của tố tụng tư pháp liên quan trực tiếp đến hoạt động của viện kiểm sát nhân dân. Các ý kiến cho rằng việc sửa đổi Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp nhằm tạo cơ sở pháp lý đổi mới toàn diện về hệ thống tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, các nguyên tắc hoạt động, chuẩn hóa các chức danh tư pháp và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng...
Tờ trình của Chính phủ, nêu rõ điểm hiện nay, pháp luật về quản lý Nhà nước nói chung, và quản lý hoạt động tài chính doanh nghiệp Nhà nước nói riêng đang gồm nhiều Nghị định, Quyết định và chưa có một cơ sở Luật để điều chỉnh. Các quy định pháp luật hiện hành mặc dù đã trao quyền cho doanh nghiệp chủ động tìm kiếm cơ hội kinh doanh, mở rộng quy mô sản xuất, tìm kiếm thị trường; song, các quy định pháp lý điều chỉnh các nhóm nội dung liên quan đến doanh nghiệp Nhà nước chưa được luật hóa kể từ thời điểm Luật doanh nghiệp Nhà nước năm 2003 hết hiệu lực. Việc ban hành luật cũng nhằm đáp ứng các yêu cầu quản lý của nhà nước đối với doanh nghiệp Nhà nước trong việc định hướng, tổ chức lại, nâng cao và phân định rõ vai trò quản lý nhà nước. Tờ trình của Chính phủ đề xuất thay đổi tên của dự án luật thành “Luật Đầu tư và quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp” nhằm bảo đảm tập trung điều chỉnh việc đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp, quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (bao gồm cả việc doanh nghiệp sử dụng vốn, tài sản của doanh nghiệp để đầu tư ra ngoài doanh nghiệp), quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp khác, cơ cấu lại vốn nhà nước tại doanh nghiệp và giám sát các hoạt động này.
Về Luật Nhà ở (sửa đổi), Quốc hội thảo luận theo hướng minh bạch hoá hơn nữa thị trường nhà ở. Sau khi nghe tờ trình của Chính phủ về dự án Luật Nhà ở (sửa đổi), Quốc hội nghe Báo cáo thẩm tra Dự án Luật nhà ở (sửa đổi) do Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Phan Trung Lý trình bày, nêu rõ: Nhìn chung dự thảo Luật đã tập trung giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và người dân về trách nhiệm tạo lập nhà ở, theo đó, việc tạo lập nhà ở trước hết là trách nhiệm của người dân, còn trách nhiệm của Nhà nước là có chính sách phát triển nhà ở phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ, tạo điều kiện cho mọi người có nơi ở, khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư phát triển nhà ở. Về nội dung góp ý vào dự thảo Luật Xây dựng (sửa đổi), đa số đại biểu đánh giá, dự thảo luật trình Quốc hội xem xét, thông qua lần này đã được chỉnh sửa hoàn thiện với chất lượng cao hơn trên cơ sở tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ 6, cũng như tiếp thu ý kiến của các chuyên gia. Bên cạnh đó các đại biểu cũng góp ý vào một số nội dung còn ý kiến khác nhau.
Luật Kinh doanh bất động sản hiện hành chưa quy định đủ các chế tài để tạo lập một thị trường bất động sản phát triển đồng bộ và lành mạnh; chưa có quy định để bảo đảm thị trường bất động sản phát triển có kế hoạch, để Nhà nước có thể kiểm soát, điều tiết được cung-cầu của thị trường. Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi) có 5 Chương, 74 Điều; giảm 1 Chương và 7 Điều so với Luật Kinh doanh bất động sản 2006. Trên cơ sở nhất trí với sự cần thiết sửa đổi Luật Kinh doanh bất động sản 2006, thẩm tra dự án Luật, Ủy ban Kinh tế đã nêu quan điểm về các nội dung: các loại bất động sản đưa vào kinh doanh; phạm vi kinh doanh bất động sản của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài; điều kiện đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản; chính sách đầu tư kinh doanh bất động sản; quy định cho phép các chủ đầu tư kinh doanh bất động sản được bán, cho thuê, cho thuê mua bất động sản hình thành trong tương lai…
Việc sửa đổi toàn diện Luật Doanh nghiệp lần này, các ĐBQH hy vọng sẽ tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho DN hoạt động. Dự án Luật doanh nghiệp (sửa đổi) bao gồm 10 chương và 220 điều. Dự thảo lần này cũng bổ sung khái niệm doanh nghiệp vì mục tiêu xã hội (gọi tắt là doanh nghiệp xã hội) để luật hóa, thừa nhận sự tồn về mặt pháp lý nhằm tạo điều kiện thuận lợi, thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp xã hội như một phương thức mới và góp phần cùng với Nhà nước trong giải quyết vấn đề xã hội và môi trường. Đánh giá tác động của Luật Doanh nghiệp sửa đổi, Bộ Kế hoạch-Đầu tư cho rằng, doanh nghiệp sẽ giảm đáng kể chi phí tuân thủ thủ tục hành chính trong gia nhập thị trường, quản lý kinh doanh, tổ chức lại và giải thể doanh nghiệp. Giảm đáng kể rủi ro thương mại và rủi ro pháp lý cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nâng cao quyền tự chủ, tính linh hoạt và mức độ an toàn trong hoạt động kinh doanh; qua đó, giúp doanh nghiệp tận dụng tối đa năng lực, tiềm năng và cơ hội kinh doanh để phát triển.
Thảo luận về Dự án Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi), Bộ trưởng Lao động, Thương binh và Xã hội Phạm Thị Hải Chuyền cho biết, sau sáu năm thực hiện, Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH) và các văn bản hướng dẫn thi hành đã đi vào cuộc sống, phát huy tích cực trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động, góp phần thực hiện mục tiêu chính sách an sinh xã hội của nhà nước. Luật lần này cần quan tâm hai mục tiêu quan trọng: bảo đảm an sinh xã hội cho người dân thông qua việc bổ sung, điều chỉnh chính sách để mở rộng nhanh hơn diện bao phủ BHXH. Đồng thời, Nhà nước có chính sách để khuyến khích, hỗ trợ lao động trong khu vực phi chính thức tham gia BHXH tự nguyện, hướng tới mục tiêu năm 2020 có khoảng 50% lực lượng lao động tham gia BHXH . Song song với đó, cần bảo đảm an toàn, cân đối quỹ BHXH thông qua việc xây dựng lộ trình hợp lý nhằm điều chỉnh công thức tính lương hưu theo nguyên tắc mức hưởng phải dựa trên cơ sở mức đóng và tăng thời gian đóng BHXH để bảo đảm cân đối với thời gian hưởng BHXH của người lao động.
Quốc hội nhận định, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật dạy nghề là hết sức cần thiết và cấp bách nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới dạy nghề theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; giải quyết những bất cập hạn chế, tạo tiền đề cho dạy nghề phát triển mạnh; đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực về dạy nghề…
Một trong những dự án Luật đặc biệt quan trọng về hệ thống tổ chức được ưu tiên cho ý kiến sửa đổi tại Kỳ họp lần này là Luật Tổ chức Quốc hội - một trong, nhằm triển khai Nghị quyết của Quốc hội về thi hành Hiến pháp. Mối quan tâm chính của nhiều đại biểu là những vấn đề liên quan đến việc phát huy hiệu quả hoạt động của đại biểu Quốc hội như số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách; chế độ phục vụ, giúp việc và đãi ngộ đối với đại biểu Quốc hội và vị trí, vai trò cũng như quyền hạn, trách nhiệm của đại biểu Quốc hội ở Trung ương và địa phương.
Các dự án luật liên quan đến quyền công dân được Quốc hội thảo luận kỳ này là Luật căn cước công dân, Luật hộ tịch, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quốc tịch Việt Nam. Việc xây dựng dự án Luật căn cước công dân là cần thiết để luật hóa những quy phạm pháp luật đã thực hiện ổn định, có hiệu quả và thể chế hóa quy định mới của Hiến pháp về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tạo sự đổi mới căn bản về tổ chức hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Tờ trình của Chính phủ về dự án Luật hộ tịch nêu rõ việc ban hành Luật Hộ tịch là rất cần thiết nhằm tạo cơ sở pháp lý lâu dài, ổn định và thống nhất cho công tác đăng ký và quản lý hộ tịch. Đặc biệt trong bối cảnh triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 với nhiều quy định mới đề cao quyền con người, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân. Chính phủ khẳng định việc ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 là rất cần thiết và cấp bách. Đến nay nhiều người trong số những người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã có quốc tịch nước sở tại, ổn định cuộc sống, công ăn việc làm và cư trú ở nước ngoài, nên việc lựa chọn giữ quốc tịch Việt Nam bên cạnh quốc tịch nước sở tại của họ, là vấn đề khó khăn, vì lo ngại ảnh hưởng đến quyền lợi, công ăn việc làm, cư trú của họ...
Sau thời gian dành cho chất vấn và trả lời chất vấn, Quốc hội sẽ dành thời gian biểu quyết các nội dung và thông qua các Dự thảo Luật.
Lê Thuỷ (tổng hợp)