Từ 21-10 đến 15-11, tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XIII, Quốc hội đã tập trung làm việc tại Hội trường và thảo luân ở tổ cho ý kiến đối với 18 luật và 14 dự án luật. Các luật gồm: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật Tổ chức Quốc hội (sửa đổi), Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi), Luật Nhà ở (sửa đổi), Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi), Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân (sửa đổi), Luật Hộ tịch, Luật Căn cước công dân, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dạy nghề, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam, Luật Công an (sửa đổi), Luật Đầu tư (sửa đổi), Luật Doanh nghiệp (sửa đổi), Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư và sản xuất, kinh doanh.
Các dự án luật gồm: Dự án Luật Ngân sách nhà nước (sửa đổi), dự án Luật Ngân sách nhà nước (sửa đổi), dự án Luật Kiểm toán nhà nước (sửa đổi), dự án Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, dự án Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (sửa đổi) dự án Bộ luật Dân sự (sửa đổi), dự án Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, dự án Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi), dự án Luật Tổ chức chính quyền địa phương, dự án Luật Nghĩa vụ quân sự (sửa đổi), dự án Luật Thú y, dự án Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân, dự án Luật An toàn vệ sinh lao động, dự án Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (sửa đổi).
Về Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, theo tờ trình của Chính phủ về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, qua rà soát, tổng kết, đánh giá và dự báo tình hình phát triển kinh tế - xã hội cho thấy, chính sách điều tiết của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành mức điều tiết đối với 13 nhóm trong tổng số 16 nhóm hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiếp tục phù hợp với sự phát triển của kinh tế, xã hội trong những năm tới. Còn đối với 3 nhóm hàng hóa là thuốc lá, bia và rượu, cần điều chỉnh tăng thuế suất để nâng cao tác dụng hạn chế tiêu dùng. Tại phiên thảo luận tại tổ về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt ngày 4-11, các đại biểu Quốc hội đã thống nhất với quan điểm tăng thuế Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng thuốc lá vì so với mặt bằng thế giới, giá thuốc lá Việt Nam rẻ hơn thuốc ngoại bán trên thị trường. Tuy nhiên, lộ trình tăng thuế lần này cần gắn chặt với giải pháp chống buôn lậu và không khuyến khích sản xuất thì mới mang lại hiệu quả cao. Đối với mặt hàng thuốc lá, Chính phủ đề xuất phương án lộ trình tăng thuế suất thuế Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng này như sau: từ ngày 1-1-2016 tăng từ 65% lên 70%; từ ngày 1-1-2019 tăng từ 70% lên 75%. Đối với mặt hàng bia, từ ngày 1-7-2015 tăng từ 50% lên 55%; từ ngày 1-1-2017 tăng lên 60%; và từ ngày 1-1-2018 tăng lên 65%; với mặt hàng rượu, rượu từ 20 độ trở lên tăng từ mức thuế suất 50% lên thuế suất 65% (áp dụng thuế suất như rượu từ 40 độ trở lên đã thực hiện trước ngày 1-1-2010); rượu dưới 20 độ áp dụng thuế suất 35% (tăng 10%).
Về Luật Tổ chức Quốc hội (sửa đổi), đa số ý kiến của các đại biểu Quốc hội tán thành với nhiều nội dung đã được thể hiện trong Báo cáo tiếp thu giải trình, chỉnh lý dự thảo Luật Tổ chức Quốc hội (sửa đổi) của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội (Điều 1), tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị chỉnh lý các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội thành 16 điều tương ứng với 3 chức năng của Quốc hội là lập pháp, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, đã được ghi nhận tại Điều 69 và Điều 70 của Hiến pháp. Khoản 4, Điều 4 quy định: Hiến pháp được Quốc hội thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.
Về vị trí, vai trò của đại biểu Quốc hội (Điều 21), dự thảo luật đã có các quy định để thể hiện rõ hơn trách nhiệm của đại biểu Quốc hội trong việc tham gia hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội; trách nhiệm với cử tri và tiếp công dân, tiếp nhận và xử lý các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân; thể hiện rõ các quyền của đại biểu Quốc hội đã được Hiến pháp ghi nhận như quyền trình dự án luật, pháp lệnh, kiến nghị về luật, pháp lệnh, quyền tham gia làm thành viên và tham gia các hoạt động của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội; quy định cụ thể chế độ lương, phụ cấp cho đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách và các điều kiện bảo đảm cho đại biểu Quốc hội... Đại biểu Quốc hội phải là người nói được tiếng nói của cử tri, của nhân dân. Đại biểu đề nghị cần quy định cụ thể, chặt chẽ tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội để xứng đáng là người đại diện cho nhân dân trong Quốc hội.
Về Đoàn đại biểu Quốc hội (Điều 43), trên cơ sở ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, dự thảo Luật đã thể hiện rõ hơn vị trí của Đoàn đại biểu Quốc hội là tổ chức của các đại biểu Quốc hội được bầu tại một tỉnh hoặc thành phố trực thuộc trung ương hoặc được chuyển đến địa phương công tác.
Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi), báo cáo tiếp thu, giải trình và chỉnh lý dự án Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) của Ủy ban thường vụ Quốc hội cho thấy, việc đưa nhóm lao động làm việc theo hợp đồng lao động mùa vụ hoặc một công việc nhất định có thời hạn từ 1 tháng đến dưới 3 tháng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là cần thiết nhằm tiếp tục mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo đảm an sinh xã hội cho người lao động khi không còn khả năng lao động.
Đồng tình cao với việc điều chỉnh mức hưởng lương hưu hàng tháng (Điều 56) để khắc phục tình trạng mất cân đối trong đóng - hưởng bảo hiểm xã hội, song cũng còn có những ý kiến khác nhau về các phương án đưa ra. Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng trong điều kiện tuổi nghỉ hưu được thực hiện theo quy định của Bộ luật Lao động thì cần giảm thiểu tác động bất lợi đối với người lao động nghỉ hưu, đặc biệt là lao động nữ. Việc thực hiện quy định này phải đồng bộ với lộ trình điều chỉnh mức đóng bảo hiểm xã hội (theo Điều 90 Bộ luật Lao động) để đảm bảo tiền lương hưu người lao động thực nhận không bị sụt giảm nhiều so với trước.
Bên cạnh đó, do tuổi nghỉ hưu của nam, nữ chênh lệch 5 năm nên cần phải bảo đảm bình đẳng giới khi điều chỉnh chính sách này thông qua việc xây dựng lộ trình nâng số năm đóng bảo hiểm xã hội của nam giới từ 15 năm lên 20 năm để đạt 45% mức bình quân tiền lương tháng tính lương hưu (cụ thể: năm 2018 là 16 năm; năm 2019 là 17 năm; năm 2020 là 18 năm; năm 2021 là 19 năm và từ năm 2022 trở đi là 20 năm).
Về Luật Nhà ở (sửa đổi), đa số các ý kiến phát biểu tại phiên thảo luận thể hiện sự đồng tình cao với nhiều nội dung đã được tiếp thu, chỉnh lý thể hiện trong Báo cáo Giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Nhà ở (sửa đổi) của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Xung quanh nội dung về quyền sở hữu nhà ở của tổ chức, cá nhân nước ngoài (Chương IX), qua thảo luận, đa số ý kiến đại biểu Quốc hội thống nhất với quy định của dự thảo Luật về việc mở rộng đối tượng và điều kiện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam của tổ chức, cá nhân nước ngoài. Quy định cho phép người nước ngoài mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam trong dự thảo Luật đã được xây dựng trên cơ sở tổng kết, đánh giá việc thi hành Nghị quyết số 19/2008/QH12 của Quốc hội về thí điểm cho tổ chức, cá nhân nước ngoài mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam. Quy định như dự thảo Luật không chỉ nhằm thu hút vốn của nước ngoài vào Việt Nam mà còn góp phần thúc đẩy thị trường bất động sản trong nước phát triển. Với quy định chặt chẽ về điều kiện được mua nhà ở như hạn chế về số lượng căn hộ trong một tòa nhà chung cư cũng như số lượng nhà ở riêng lẻ trong một khu vực dân cư, không mua nhà ở những khu vực cần bảo đảm quốc phòng an ninh... sẽ không làm ảnh hưởng đến chính sách về nhà ở trong nước và vấn đề quốc phòng, an ninh vẫn được bảo đảm.
Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi): Về điều kiện của tổ chức, cá nhân hoạt động kinh doanh bất động sản, các đại biểu Hoàng Thanh Tùng (Sóc Trăng), Đinh Thị Phương Lan (Quảng Ngãi)... đề nghị ban soạn thảo cần cân nhắc quy định “Tổ chức, cá nhân hoạt động kinh doanh bất động sản phải thành lập doanh nghiệp hoặc hợp tác xã và có vốn pháp định do Chính phủ quy định nhưng không được thấp hơn 20 tỷ đồng. Đại biểu Hoàng Thanh Tùng phân tích: Theo Luật Kinh doanh bất động sản và Nghị định số 153/2007/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Kinh doanh bất động sản quy định: hợp tác xã, doanh nghiệp kinh doanh bất động sản thành lập doanh nghiệp có vốn pháp định là 6 tỷ đồng. Đến thời điểm ngày 1-7-2015, Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi) có hiệu lực, việc bổ sung vốn pháp định lên tới 20 tỷ đồng chỉ trong vòng 15 năm nữa sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp nhất là trong điều kiện thị trường bất động sản đang găp nhiều khó khăn hiện nay.
Thảo luận dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi), nhiều đại biểu đồng tình với việc ghi nhận quyền này cho Tòa án vì phù hợp với nhiệm vụ xét xử, thực hiện quyền tư pháp mà Hiến pháp năm 2013 đã giao cho Tòa án. Tuy nhiên, để phù hợp với tinh thần Kết luận số 92-KL/TW của Bộ Chính trị, đó là “Xây dựng cơ chế kiểm soát chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện các hoạt động tư pháp”, đại biểu cho rằng quy định tại điểm c khoản 3 Điều 2 của dự thảo Luật cần phải tăng cường hơn nữa trách nhiệm của Viện Kiểm sát khi thực hiện yêu cầu của Tòa án.
Có như vậy mới tạo điều kiện để Tòa án đưa ra phán quyết đúng pháp luật, tránh oan sai và bỏ lọt tội phạm; chủ động thực hiện nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; không bị phụ thuộc vào kết quả điều tra trước đó do Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát thực hiện.
Cho ý kiến vào nhiệm kỳ của thẩm phán (Điều 69), đại biểu Đặng Công Lý (Bình Định) cho rằng nội dung điều khoản này đã được chỉnh lý thì nhiệm kỳ đầu của thẩm phán là 5 năm, nếu được bổ nhiệm tiếp thì nhiệm kỳ là 10 năm. Đại biểu nhận xét quy định này không phân biệt thẩm phán tối cao với các thẩm phán khác.
Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân (sửa đổi), đa số các đại biểu đánh giá cao ban soạn thảo đã tiếp thu nghiêm túc và bổ sung các ý kiến đóng góp của đại biểu tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIII và cho rằng dự án Luật sẽ khắc phục cơ bản những khó khăn vướng mắc, bất cập của luật hiện hành; tạo điều kiện cho Viện Kiểm sát Nhân dân thực hiện tốt nhiệm vụ, chức năng theo quy định tại Hiến pháp 2013. Về thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra của Viện Kiểm sát quân sự Trung ương, các đại biểu Phạm Văn Gòn (Thành phố Hồ Chí Minh), Nguyễn Thị Bích Nhiệm (Yên Bái), Hà Công Long (Gia Lai)... cơ bản thống nhất với quy định giao cho cơ quan điều tra Viện Kiểm sát Nhân dân thẩm quyền điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp và tội phạm tham nhũng xảy ra trong hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, các đại biểu cho rằng cần bổ sung thêm quy định giao cơ quan điều tra của Viện Kiểm sát nhân dân về điều tra các tội phạm khác, phù hợp với chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện Kiểm sát Nhân dân. Nhiều đại biểu Quốc hội còn thể hiện sự băn khoăn đối với quy định về chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp.
Luật Hộ tịch, thảo luận về việc cấp Giấy khai sinh và Thẻ căn cước công dân, đa số ý kiến đại biểu Quốc hội tán thành với đề nghị của Chính phủ tiếp tục cấp Giấy khai sinh cho trẻ em khi đăng ký khai sinh như quy định hiện hành, bởi vì đây là nhu cầu và là quyền của người dân được sử dụng thuận lợi từ nhiều năm nay để bảo vệ lợi ích của mình. Các ý kiến cho rằng đăng ký khai sinh là việc Nhà nước chính thức thừa nhận việc một cá nhân ra đời và bắt đầu được hưởng quyền con người, quyền công dân. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì trẻ em sinh ra được Nhà nước cấp Giấy khai sinh trong đó có ghi những thông tin cơ bản của trẻ em, Giấy khai sinh có giá trị pháp lý làm căn cứ cho việc cấp các loại giấy tờ khác trong quản lý nhà nước có giá trị sử dụng trong nước và ở nước ngoài, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Luật Căn cước công dân: Thảo luận về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Căn cước công dân, nhiều đại biểu không khỏi băn khoăn về tính phù hợp trong việc cấp thẻ căn cước công dân đối với người dưới 14 tuổi; các thông tin thể hiện trên thẻ căn cước công dân; các nội dung thông tin thu thập trong cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư có đảm bảo cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân. Nhiều đại biểu tán thành với tên gọi “Luật Căn cước công dân” theo Tờ trình của Chính phủ và quan điểm của Ủy ban Thường vụ Quốc hội bởi tên gọi này phù hợp với nội hàm chủ yếu của dự thảo Luật quy định về căn cước công dân, cơ sở dữ liệu căn cước công dân, việc quản lý, sử dụng thẻ Căn cước công dân, quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Về tuổi được cấp thẻ Căn cước công dân, hiện vẫn tồn tại hai luồng ý kiến trái ngược nhau. Có ý kiến nhất trí với quy định của dự thảo Luật về việc cấp thẻ Căn cước công dân ngay từ khi sinh ra và không cần cấp giấy khai sinh. Song, cũng có một số ý kiến đề nghị quy định cấp thẻ Căn cước công dân cho công dân từ đủ 14 tuổi trở lên để bảo đảm ổn định các thông tin nhân dạng của công dân đã được quy định trong Luật căn cước công dân; trẻ em chưa đủ 14 tuổi thì cấp giấy khai sinh như hiện nay và quy định trong Luật hộ tịch.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hàng không dân dụng Việt Nam: Thảo luận về Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, đa số ý kiến tán thành dự thảo Luật quy định Cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành hàng không dân dụng trực thuộc Bộ Giao thông Vận tải là Nhà chức trách hàng không. Các đại biểu cho rằng: Hàng không dân dụng là lĩnh vực đặc thù vừa chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc gia vừa chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc tế. Do đó, quy định Cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành hàng không dân dụng là Nhà chức trách hàng không là hợp lý. Giá dịch vụ hàng không hiện nay là vấn đề đang được xã hội quan tâm, đặc biệt đối với giá dịch vụ hàng không tại các sân bay hiện nay quá cao, gây bức xúc và làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Vấn đề được nhiều đại biểu tập trung thảo luận và cho ý kiến là việc khắc phục tình trạng chậm chuyến, hủy chuyến trong vận chuyển hàng không dân dụng. Theo các đại biểu, Luật Hàng không dân dụng hiện hành đã quy định về quyền và nghĩa vụ của người vận chuyển, của hành khách; bồi thường thiệt hại, chăm lo hành khách trong trường hợp chậm chuyến, hủy chuyến... Tuy nhiên, Luật thiếu quy định ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp về các điều kiện vận chuyển, duy trì chất lượng tối thiểu của dịch vụ mà doanh nghiệp phải bảo đảm cho hành khách. Do đó, các ý kiến đề nghị cần quy định cụ thể các biện pháp khắc phục tình trạng chậm chuyến, hủy chuyến trong vận chuyển hàng không dân dụng.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự: các đại biểu QH đã thảo luận một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự. Về quyền yêu cầu thi hành án (các điều 7, 30, 31) có hai loại ý kiến khác nhau. Có ý kiến đề nghị giữ hai cơ chế như quy định của luật hiện hành là cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành án và ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu của đương sự, nhằm tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên đương sự. Một số ý kiến đề nghị để bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án và cụ thể hóa quy định tại Điều 106 Hiến pháp sửa đổi, thì cơ quan có thẩm quyền phải chủ động ra quyết định thi hành án mà không quy định đương sự phải có đơn yêu cầu thi hành án. Các đại biểu Bạch Thị Hương Thủy (Hòa Bình), Tô Văn Tám (Kon Tum) đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc lại quy định đương sự phải có đơn yêu cầu thi hành án. Bởi khi bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật, các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành, trong trường hợp ngườiphải thi hành án không chấp hành thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền sử dụng quyền lực buộc thi hành. Được như vậy sẽ khắc phục thực trạng ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa... người dân nhận thức về pháp luật còn hạn chế, đi lại khó khăn, nếu không được tư vấn sẽ không biết quy định phải làm đơn yêu cầu thi hành án. Nếu không có đơn thì cơ quan thi hành án không ra quyết định thi hành, đồng nghĩa với việc bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật không được chấp hành, như vậy chưa thật sự bảo vệ quyền lợi của công dân. Vì vậy, dự thảo luật không cần quy định có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người được thi hành án từ chối hoặc chỉ yêu cầu một phần, hoặc đã tự thỏa thuận thì mới phải làm đơn gửi cơ quan chức năng.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dạy nghề, có 20 đại biểu tham gia thảo luận, hầu hết các vị đều nhất trí với báo cáo tiếp thu, giải trình của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Về đổi tên gọi thống nhất với tên gọi của luật là Luật Giáo dục nghề nghiệp, nhằm bảo đảm thống nhất với Hiến pháp và giải quyết được các yêu cầu của thực tiễn, tán thành mở rộng phạm vi, đối tượng điều chỉnh của Luật; về sắp xếp lại các trình độ đào tạo của giáo dục nghề nghiệp đại biểu cho rằng, rất cần thiết, việc sắp xếp lại các trình độ đào tạo hợp nhất, các trình độ giáo dục nghề nghiệp gồm trình độ sơ cấp, trung cấp và cao đẳng; về phân công trách nhiệm quản lý nhà nước đối với giáo dục nghề nghiệp, đề nghị cân nhắc để tránh chồng chéo, bảo đảm tính khả thi trong quá trình chỉ đạo, điều hành và quản lý nhà nước ở lĩnh vực này; về chính sách của nhà nước để phát triển giáo dục nghề nghiệp đề xuất cần được cụ thể để dễ thực hiện…. các vị đại biểu còn góp ý về kỹ thuật văn bản và yêu cầu bảo đảm tính khả thi của luật.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội Nhân dân (QĐND) Việt Nam, Tờ trình của Chính phủ, nêu rõ: Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam năm 1999 được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2008 được Quốc hội thông qua năm 2008 đã được Bộ Quốc phòng nghiêm túc tổ chức triển khai. Sau 15 năm thực hiện, Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam cơ bản phù hợp, đã tạo cơ sở pháp lý để nâng cao chất lượng xây dựng đội ngũ sĩ quan, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam đã bộc lộ một số vướng mắc, bất cập, còn có ý kiến khác nhau, một số quy định của luật chưa cụ thể, khó áp dụng cần được khắc phục. Từ thực tiễn trên, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam là rất cần thiết, nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, chặt chẽ đáp ứng yêu cầu xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan, góp phần xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về nhiều nội dung đề cập trong dự thảo luật, trong đó nhấn mạnh yêu cầu quy định chặt chẽ, đúng nhu cầu các vị trí có quân hàm cấp tướng. Báo cáo thẩm tra dự án luật, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội Nguyễn Kim Khoa nêu rõ: Dự thảo Luật quy định một số chức vụ có trần quân hàm cấp tướng còn chưa đáp ứng được yêu cầu trên, như: cùng nhóm chức vụ cơ bản nhưng có trần quân hàm khác nhau, có chức vụ Đại tá, có chức vụ Thiếu tướng, cùng chức danh Cục trưởng nhưng có Cục trung tướng, có Cục thiếu tướng.
Theo đó gây nên những bất cập giữa cấp Cục và Tổng cục, có Cục trưởng trần quân hàm bằng Tổng cục trưởng, Tư lệnh, Chính ủy quân khu, quân chủng và cao hơn Tổng cục phó; trần quân hàm của Cục trưởng và Chính ủy cục chưa thống nhất, chưa bảo đảm nguyên tắc người chỉ huy và chính ủy có trách nhiệm và quyền hạn cao nhất của đơn vị theo Nghị quyết 51/NQ-TW của Bộ Chính trị.
Qua thảo luận, đa số ý kiến đại biểu cho rằng cần phải làm rõ vị trí có nhu cầu cấp tướng (đối với cơ quan phải có vị trí tham mưu chiến lược và chỉ đạo toàn quân, đối với đơn vị phải là lãnh đạo, chỉ huy của đơn vị cấp chiến dịch, chiến lược…), theo đó cần xem xét một số đơn vị chưa đáp ứng được yêu cầu thì không quy định có nhu cầu cấp Tướng như các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp công.
Mặt khác, Luật cần phải bảo đảm nguyên tắc cấp trên phải cao hơn cấp dưới, cấp trưởng phải cao hơn cấp phó, chức vụ tương đương thì có quân hàm tương đương, đơn vị chiến đấu và trực tiếp phục vụ chiến đấu phải cao hơn các đơn vị khác để tránh những quy định không phù hợp, gây tâm lý so sánh, thắc mắc không đồng thuận ngay trong lực lượng.
Luật Công an sửa đổi, một trong những nội dung thu hút sự quan tâm của đại biểu trong phiên thảo luận chiều qua là quy định tại Điều 24 về cấp bậc hàm cao nhất đối với các chức vụ của sĩ quan CAND. Qua thảo luận, còn những ý kiến khác nhau về chức vụ có cấp bậc hàm cao nhất là Đại tướng. Theo giải trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chức vụ Thứ trưởng - Phó Bí thư Đảng ủy Công an Trung ương là cấp phó của Bộ trưởng Bộ Công an, giúp Bộ trưởng (đồng thời là Bí thư Đảng ủy Công an Trung ương) thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn, trong đó có nhiệm vụ về công tác đảng. Vì thế, chức vụ này cần được bố trí thấp hơn một bậc để đảm bảo thống nhất trong bộ máy Đảng, Nhà nước. Đồng thời, tiếp thu ý kiến của nhiều đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị quy định cấp bậc hàm cao nhất của chức vụ Thứ trưởng, Phó Bí thư Đảng ủy Công an Trung ương là Thượng tướng như các thứ trưởng khác. Đối với chức vụ có cấp bậc hàm cao nhất là trung tướng, Thường vụ Quốc hội giải trình khá rõ từng chức vụ. Riêng trần cấp bậc hàm đối với Giám đốc Công an TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tiếp thu ý kiến của đa số đại biểu, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị trần cấp bậc hàm của Giám đốc hai thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội là Trung tướng; Giám đốc công an các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương còn lại có trần cấp bậc hàm là Đại tá.
Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh: Đối với phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật, có ý kiến đề nghị làm rõ hơn phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật, để tránh chồng chéo với một số luật, dự án luật có liên quan như Luật Đầu tư công, Luật Doanh nghiệp (sửa đổi). Trong báo cáo tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng dự án Luật này chỉ quy định các nội dung về đầu tư, quản lý, sử dụng vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Đối với việc đầu tư vào các chương trình, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội… được quy định tại Luật Đầu tư công; quản trị doanh nghiệp được quy định tại dự án Luật Doanh nghiệp (sửa đổi). Do vậy, phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật này không chồng chéo, trùng lặp với các luật có liên quan.
Quy định về đại diện chủ sở hữu nhà nước là nội dung được nhiều đại biểu Quốc hội quan tâm. Có ý kiến cho rằng việc nghiên cứu thành lập một cơ quan chuyên trách về quản lý và giám sát toàn bộ vốn Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp tạo được đột phá, thay đổi cơ bản trong việc quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước, tách biệt chức năng quản lý Nhà nước và chức năng chủ sở hữu doanh nghiệp, đảm bảo công khai minh bạch trong đánh giá hiệu quả sử dụng vốn doanh nghiệp Nhà nước, tăng cường trách nhiệm của cá nhân và tổ chức đối với việc đầu tư, quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Luật không quy định cụ thể đại diện chủ sở hữu là các bộ, Ủy ban nhân dân... mà vẫn giao quyền cho Chính phủ, đồng thời đề nghị Chính phủ nghiên cứu mô hình để từ đó có những đề xuất phù hợp, sát thực tiễn và góp phần thiết thực vào việc nâng cao hiệu quả quản lý vốn Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp.
Về các dự án luật, dự án Luật Kiểm toán nhà nước (sửa đổi), Tờ trình về Dự án Luật KTNN sửa đổi, Tổng Kiểm toán Nhà nước Nguyễn Hữu Vạn cho biết, mục tiêu sửa đổi luật lần này nhằm cụ thể hóa quy định của Hiến pháp mới, đảm bảo thiết chế kiểm tra, kiểm soát, tài chính tài sản công của cơ quan nhà nước. Dự thảo Luật đã cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, quy định cụ thể đối tượng kiểm toán của KTNN là hoạt động có liên quan đến quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công, gồm thu, chi ngân sách nhà nước các cấp; quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách nhà nước; nguồn tài chính công của các cơ quan, tổ chức, đơn vị; các khoản nợ công; đất đai; tài nguyên nước; tài nguyên khoáng sản; nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời; các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý; tài chính, tài sản công khác.
Dự án Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, nhiều đại biểu nhất trí cho rằng việc ban hành Luật nhằm khắc phục một số chồng chéo trong các văn bản về khai thác, sử dụng tài nguyên; nâng cao hiệu quả công tác quản lý tổng hợp tài nguyên môi trường biển và hải đảo; góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý quan trọng thực hiện chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên biển. Tán thành với việc ban hành Luật, tuy nhiên đại biểu Hoàng Thị Tố Nga (Nam Định) cho rằng còn có một số nội dung trong dự án Luật chưa được làm rõ, một số khái niệm còn khó hiểu. Theo đại biểu, dự thảo Luật này điều chỉnh cho nhiều luật chuyên ngành khác nhưng lại ra đời sau, vì vậy một số nội dung của dự thảo Luật quy định chung chung, trong khi cùng nội dung, các luật chuyên ngành khác đã quy định rất cụ thể, chi tiết. Cũng có những nội dung Luật này quy định chi tiết nhưng luật chuyên ngành trước đó chỉ quy định chung chung...
Có đại biểu đề nghị ban soạn thảo cần nghiên cứu, cân nhắc thêm việc tổ chức thực hiện quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường vùng bờ để phù hợp với quy định của pháp luật về biên giới quốc gia và các văn bản pháp luật liên quan.
Dự án Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (sửa đổi): Theo Tờ trình, dự thảo Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (sửa đổi) vẫn giữ đoạn Mở đầu của Luật hiện hành nhưng có sửa đổi, bổ sung thêm nhằm khẳng định truyền thống của MTTQ Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc và thể hiện rõ vai trò, vị trí của MTTQ Việt Nam là tổ chức kết nối giữa Nhân dân với Đảng, với Nhà nước. Nhiều ý kiến khác đề nghị cân nhắc không nên có đoạn Mở đầu để bảo đảm thống nhất về hình thức, kỹ thuật trình bày văn bản luật. Các đại biểu cho rằng thực hiện quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và quy định về kỹ thuật trình bày dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội và của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội đều không có đoạn Mở đầu mà nêu ngay căn cứ và cơ quan ban hành văn bản. Thẩm tra dự thảo luật, Ủy ban Pháp luật cũng thể hiện quan điểm không nên có đoạn Mở đầu; trường hợp cần nhấn mạnh vị trí, vai trò của MTTQ Việt Nam thì nên được thể hiện thành các nội dung điều khoản trong Luật.
Nhiều ý kiến đại biểu Quốc hội quan tâm tới hai nội dung về hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam (Chương V) và hoạt động phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam (Chương VI). Đối với hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam, so với Luật hiện hành, Chương V của dự thảo Luật quy định về hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam đã mở rộng hơn phạm vi giám sát, đối tượng giám sát nhằm thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và cụ thể hóa quy định của Hiến pháp.
Dự án Bộ luật Dân sự (sửa đổi), Tờ trình dự án Luật do Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường trình bày nêu rõ Bộ luật Dân sự năm 2005 sau hơn 9 năm thi hành đã có tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm của chủ thể trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động... Tuy nhiên, bước sang giai đoạn phát triển mới của đất nước, trước yêu cầu thể chế hóa Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; đặc biệt là yêu cầu về công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 thì Bộ luật dân sự hiện hành đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập cần được sửa đổi.
Dự án Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Tờ trình dự án Luật Ban hành văn bản pháp luật do Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường trình bày nêu rõ việc xây dựng dự án luật nhằm tạo khuôn khổ pháp lý thống nhất cho việc ban hành văn bản pháp luật của các cơ quan nhà nước từ Trung ương tới địa phương với nhiều đổi mới về nội dung nhằm góp phần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện và vận hành hệ thống pháp luật đồng bộ, minh bạch, dễ tiếp cận, hiệu lực và hiệu quả.
Luật mới quy định về xây dựng, ban hành văn bản pháp luật và tổ chức thi hành văn bản pháp luật thống nhất từ Trung ương tới địa phương; không quy định việc làm, sửa đổi Hiến pháp; không quy định việc ban hành văn bản có chứa quy tắc xử sự, nhưng chỉ áp dụng trong nội bộ, cơ quan, đơn vị.
Dự thảo Luật gồm 16 chương, 159 điều (tăng 4 chương, 64 điều so với Luật năm 2007, ít hơn 2 chương, tăng 8 điều so với tổng số chương, điều của cả hai Luật về ban hành văn bản pháp luật hiện hành).
Theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2014, thì dự kiến Chính phủ chuẩn bị dự án Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật để trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 8 (tháng 10-2014), nhưng nay Chính phủ đổi tên thành Luật Ban hành văn bản pháp luật để phù hợp với các quy định của Hiến pháp.
Dự án Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi), thảo luận tại tổ về dự thảo Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi), các đại biểu nhấn mạnh đến việc làm rõ các quy định về quyền hạn trách nhiệm của Chính phủ và các thành viên Chính phủ trong quản lý điều hành đất nước.
Theo các đại biểu, dự luật cần phải đề cao chế độ trách nhiệm của từng vị trí trong Chính phủ, Thủ tướng và các thành viên, làm rõ chế độ phân cấp về quản lý, trách nhiệm giữa bộ, ngành và địa phương, cũng như cần phải xác định rõ trách nhiệm cuối cùng trong điều hành quản lý Nhà nước về các lĩnh vực thuộc về các bộ.
Một số đại biểu cho rằng, với nhiệm vụ của Chính phủ trong quản lý phát triển kinh tế thì quy định của dự thảo luật phải thể hiện phù hợp với tinh thần của Hiến pháp.
Về Dự án Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Tờ trình nêu rõ những bất cập từ quy định của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003. Đáng chú ý là: Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của HĐND và UBND cơ bản giống nhau ở cả ba cấp, chưa thể hiện tính gắn kết thống nhất giữa HĐND và UBND cùng cấp trong chỉnh thể chính quyền địa phương, chưa phân biệt theo đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo; một số nhiệm vụ theo luật định, chính quyền cấp xã không có khả năng thực thi. Tổ chức bộ máy, biên chế và điều kiện làm việc của HĐND còn chưa tương xứng với yêu cầu thực hiện nhiệm vụ là cơ quan đại diện, giám sát và quyết định các vấn đề của địa phương theo luật định. Chưa quy định rõ trách nhiệm quản lý theo ngành, quản lý theo lãnh thổ và cơ chế phối hợp giữa UBND với Thường trực HĐND, Ủy ban MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội cùng cấp ở địa phương. Báo cáo thẩm tra dự án luật này nêu rõ: Dự thảo Luật mới quy định trách nhiệm và hình thức tổ chức lấy ý kiến nhân dân mà chưa quy định thật đầy đủ trình tự, thủ tục thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính, do vậy, cần quy định rõ ràng hơn, cụ thể hơn. Về đơn vị hành chính, cần xác định tên gọi của "đơn vị hành chính tương đương" quận, huyện, thị xã. Bởi lẽ, nếu gọi là "thành phố" sẽ tạo ra "thành phố trong thành phố", có thể dẫn đến nhiều cách hiểu thiếu thống nhất trong thực tiễn. Tuy nhiên, nếu luật này không quy định tên gọi của "đơn vị hành chính tương đương" mà giao Chính phủ trình Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định thì sẽ không cụ thể hóa được quy định của Hiến pháp. Đây là vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau, vì vậy Ủy ban Pháp luật tán thành trình hai phương án như dự thảo Luật để xin ý kiến đại biểu Quốc hội.
Dự án Luật Nghĩa vụ quân sự (sửa đổi), nhiều đại biểu tán thành với các quan điểm sửa đổi, bổ sung Luật và nhấn mạnh dự án Luật cần thể hiện rõ hơn theo tinh thần mới của Hiến pháp năm 2013, để phù hợp với yêu cầu kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Các đại biểu cho rằng chính sách nghĩa vụ quân sự phải bảo đảm thực hiện phương châm vừa xây dựng lực lượng thường trực chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có số lượng hợp lý, vừa xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu. Nhiều ý kiến cho rằng cần đổi mới chế độ chính sách đối với người thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, động viên thanh niên hăng hái phục vụ trong quân đội và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân để bảo đảm công bằng xã hội. Bảo đảm sự công bằng xã hội trong thực hiện nghĩa vụ quân sự là nội dung được nhiều đại biểu quan tâm, thảo luận.
Dự án Luật Thú y, đa số đại biểu nhất trí về sự cần thiết ban hành Luật như Tờ trình của Chính phủ; đồng thời nhấn mạnh việc ban hành Luật còn thể hiện rõ quan điểm đổi mới của Đảng, Nhà nước trong công tác thú y nhằm phát triển nhanh ngành chăn nuôi theo phương thức công nghiệp, bán công nghiệp, an toàn dịch bệnh, phù hợp với lợi thế từng vùng; tăng cường công tác thú y, phòng chống dịch bệnh. Nhiều đại biểu cũng nhấn mạnh việc phát triển mạnh nuôi trồng thủy sản đa dạng, theo quy hoạch, phát huy lợi thế của từng vùng gắn với thị trường; xây dựng hệ thống thú y thủy sản…; góp phần bảo đảm an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững kinh tế-xã hội.
Dự án Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân. Đây là dự án được xây dựng trên cơ sở hợp nhất hai luật bầu cử hiện hành nhằm cụ thể hóa các nội dung mới của Hiến pháp bảo đảm thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân, đồng thời tiếp tục hoàn thiện các quy định về trách nhiệm của các cơ quan hữu quan trong việc tổ chức, chuẩn bị bầu cử. Qua thảo luận, các đại biểu Quốc hội đều tán thành với sự cần thiết, yêu cầu, quan điểm chỉ đạo xây dựng dự án Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cũng như phạm vi, đối tượng điều chỉnh của Luật này.
Dự án Luật An toàn vệ sinh lao động, Dự án luật chú trọng các hoạt động phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong công tác an toàn vệ sinh lao động; tăng cường cải thiện điều kiện lao động; xây dựng văn hóa an toàn trong sản xuất; gắn an toàn vệ sinh lao động với bảo vệ môi trường và phát triển bền vững kinh tế - xã hội. Tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh lao động; đẩy mạnh xã hội hóa và phát triển các dịch vụ huấn luyện, kiểm định, tư vấn kỹ thuật an toàn vệ sinh lao động; đổi mới và nâng cao hiệu quả chính sách bồi thường tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp thông qua các hoạt động phòng ngừa, bảo đảm quyền lợi của người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và chia sẻ gánh nặng với người sử dụng lao động và xã hội... Dự án Luật An toàn vệ sinh lao động có 7 chương, với 94 điều quy định việc bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động; chế độ đối với người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; trách nhiệm và quyền hạn của các tổ chức, cá nhân có liên quan đến công tác an toàn, vệ sinh lao động và quản lý nhà nước về an toàn, vệ sinh lao động.
Lê Thuỷ (tổng hợp)