Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội
Phát triển kinh tế - văn hóa dựa trên nguyên tắc tiến bộ và công bằng xã hội đòi hỏi phải có một nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững, có khả năng huy động các nguồn lực vật chất, tinh thần cho việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Do đó mối quan hệ này liên quan chặt chẽ với mục tiêu phát triển nhanh và bền vững cũng như bảo đảm quốc phòng, an ninh. Cách thức “giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển” mà Đảng xác định là tương thích và có thể thúc đẩy phát triển bền vững, bao trùm cũng như định hướng XHCN nền kinh tế thị trường ở nước ta. Vì thế việc thực hiện tốt mối quan hệ này cũng tức là hoàn thành nhiều mục tiêu cơ bản và quan trọng được đặt ra trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ (bổ sung, phát triển năm 2011): (i) “…Kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của CNXH với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước XHCN ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng XHCN”; (ii) “Kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển”; (iii) “Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá nghèo bền vững”; (iv) “hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội”.
Thực tế thời gian qua, việc giải quyết mối quan hệ này đã được tích cực triển khai trên thực tế qua việc ban hành và thực hiện các luật, chiến lược, kế hoạch, chương trình và chính sách phát triển về kinh tế thị trường định hướng XHCN, tăng cường tạo việc làm mới, đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, giảm bất bình đẳng, trên cơ sở trao nhiều quyền sản xuất - kinh doanh, khởi nghiệp, đổi mới - sáng tạo... cho người lao động, doanh nhân, nhất là thanh niên, phụ nữ ở cả nông thôn và đô thị, nhằm thúc đẩy phát triển văn hóa gắn với phát triển con người dựa trên quyền con người. Văn hóa truyền thống, văn hóa của các dân tộc thiểu số được chú trọng bảo tồn và đầu tư phát triển, góp phần tích cực vào khẳng định giá trị, bản sắc của văn hóa Việt Nam. Quyền sáng tạo và tham gia vào đời sống văn hóa, quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng được tôn trọng và bảo vệ. Một số mô hình, thiết chế, phong trào văn hóa, ví dụ “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” gắn với mô hình làm giàu, khởi nghiệp, giảm nghèo bền vững... đã được hình thành, triển khai khá sâu rộng trên cơ sở phát triển ngành văn hóa theo cơ chế thị trường nhân văn, hiện đại.
Kinh tế tăng trưởng liên tục trong hơn 30 năm qua giúp Việt Nam từ chỗ là một nước kém phát triển trở thành một nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp và đang tràn đầy niềm tin phấn đấu đến năm 2030 thành một nước có thu nhập trung bình cao với tầm nhìn đến năm 2045 thành một quốc gia phát triển hiện đại theo định hướng XHCN. Đây là mốc kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và 100 năm thành lập nước. Trong giai đoạn 2016-2020 tỷ lệ hộ nghèo chung cả nước còn 5,23%; cận nghèo là 4,59%. Mức độ bất bình đẳng tính theo hệ số Gini dựa trên chi tiêu có xu hướng giảm. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm được giữ ở mức thấp và cũng có xu hướng giảm dần, đồng thời với việc tạo nhiều việc làm mới. Tiến bộ của bình đẳng giới được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực từ chính trị đến kinh doanh và văn hoá - xã hội với số lượng phụ nữ tham gia Quốc hội, lãnh đạo các cấp chính quyền và lãnh đạo các doanh nghiệp chiếm tỷ lệ cao.
Vẫn còn vướng mắc trong dung hòa mối quan hệ
Việc giải quyết mối quan hệ này còn một số hạn chế, bất cập. Tăng trưởng kinh tế chưa cao và chưa ổn định đến mức tạo ra sự đột phá trong phát triển kinh tế, văn hóa và con người. Tăng trưởng kinh tế chỉ có dấu hiệu lấy lại đà tăng trưởng từ năm 2018 với mức tăng trưởng là 7,08% (cao nhất từ năm 2008); năm 2019 chỉ số này là 7,02%. Mức tăng trưởng như vậy chưa có khả năng thực sự để kết nối chặt chẽ và tạo ra được sự phát triển văn hóa và con người theo hướng tiến bộ, công bằng xã hội. Bất bình đẳng thu nhập vẫn ở mức cao và có xu hướng gia tăng giữa nhóm người giàu nhất với thấp nhất cũng như giữa thành thị với nông thôn, đặc biệt tại những tỉnh có mức thu nhập thấp. Tỷ lệ hộ nghèo tính theo cách tiếp cận đa chiều vẫn ở mức cao, đặc biệt ở vùng nông thôn, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số; hiện còn chênh lệch về thu nhập giữa nam và nữ đối với cùng một loại công việc như nhau. Phụ nữ vẫn tập trung nhiều trong các ngành, nghề thuộc khu vực phi chính thức, nên có thu nhập thấp với môi trường làm việc chưa bảo đảm và thiếu ổn định; từ đó có sự chênh lệch ngày càng lớn giữa lao động nam và nữ trong tiếp cận đào tạo nghề, trước hết ở một số nhóm dân tộc thiểu số.
Về mặt phát triển văn hóa, khả năng tiếp cận giáo dục đối với trẻ em thuộc hộ nghèo, vùng sâu, vùng xa khó khăn, hạn chế nhất định; tình trạng bạo lực học đường thường xuyên xảy ra; tình trạng thiếu hụt lao động có tay nghề cao; trong khi chất lượng giáo dục đại học chưa đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi cao của nền kinh tế. Còn hiện tượng sự phát triển kinh tế và văn hóa chưa chú trọng tới phát triển con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Việc thực thi dân chủ XHCN cần tiếp tục hoàn thiện về về nội dung, thể chế, cách thức tổ chức thực hiện nên có nơi, có lúc trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương xã hội chưa nghiêm; phát huy dân chủ chưa thực sự gắn liền với kỷ luật, kỷ cương...
Thực hiện đồng bộ các giải pháp
Những hạn chế, bất cập trên đòi hỏi phải triển khai thực hiện các giải pháp sau:
Một là, giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội phải theo quy trình: Lấy con người làm trung tâm - Bảo đảm quyền của người dân - Phát triển toàn diện của mỗi con người. Mục tiêu phát triển toàn diện con người đương nhiên phải xuất phát từ mỗi con người hay phải “lấy con người làm trung tâm”. Nhưng nếu không có sự tham gia chủ động, tích cực của người dân thì không thể đạt được mục tiêu đó. Nói cách khác, việc bảo đảm quyền được tham gia nói riêng và quyền con người nói chung của người dân là khâu kết nối cần thiết, không thể thiếu giữa phương châm “lấy con người làm trung tâm” với mục tiêu phát triển toàn diện của mỗi con người. Thông qua quy trình này mới thúc đẩy sự tham gia chủ động, tích cực của mỗi người dân trong thực hành dân chủ và giữ gìn pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội nhằm mục tiêu phát triển toàn diện con người. Muốn vậy, trọng tâm là phải thực hiện nghĩa vụ của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người, như: lồng ghép quyền con người vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; xác định nghĩa vụ của Nhà nước là phải bảo đảm và phát huy quyền con người, nhất là quyền làm chủ của nhân dân; bảo đảm quyền con người về kinh tế, văn hóa, xã hội theo quy định của pháp luật, ví dụ Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017.
Hai là, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN để đẩy mạnh phát triển kinh tế và văn hóa. Trọng tâm là tiếp tục xây dựng, hoàn thiện khung thể chế, pháp luật theo hướng ổn định, cụ thể, minh bạch và được bảo đảm thực thi nghiêm túc để phát triển đầy đủ và đồng bộ thị trường các yếu tố sản xuất, bảo đảm đầy đủ quyền tự do, an toàn trong hoạt động kinh doanh; huy động, phân bổ, sử dụng hiệu quả các nguồn lực theo nguyên tắc thị trường; đồng thời xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho các loại hình kinh doanh mới, kinh tế số, cung cấp dịch vụ công, quản lý và bảo vệ môi trường theo nguyên tắc thị trường. Bởi lẽ, thể chế kinh tế thị trường vẫn chưa đồng bộ, đầy đủ để bảo đảm thị trường vận hành thông suốt, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu thúc đẩy nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập. Đến nay mới có 71 nước công nhận Việt Nam có kinh tế thị trường, còn một số đối tác thương mại lớn chưa công nhận; vấn đề về sở hữu và quyền sở hữu tài sản, bảo đảm quyền tự do kinh doanh cần tiếp tục hoàn thiện; còn khoảng cách khá lớn về quản trị nhà nước tốt; tính công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình còn thấp; thiết chế pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của doanh nghiệp trong kinh doanh còn yếu...
Một giải pháp quan trọng là Nhà nước giảm bớt và định vị lại vai trò, chức năng của mình theo hướng tôn trọng và vận hành theo các quy luật khách quan của thị trường, cân bằng quan hệ giữa Nhà nước và thị trường. Do đó, cần tập trung xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền, tiếp tục mở rộng và thực thi dân chủ, thiết lập cơ cấu quản trị quốc gia không gây xung đột lợi ích, giữ cân bằng giữa quyền lực và giám sát quyền lực, trách nhiệm giải trình đầy đủ trước người dân và doanh nghiệp.
Ba là, gắn phát triển văn hóa với phát triển kinh tế nhằm thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI (Nghị quyết số 33) năm 2014 yêu cầu phải “xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Theo đó văn hóa góp phần làm cho mỗi người không chỉ nhận thức được quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của mình mà còn phải thực thi trách nhiệm đó một cách tốt nhất trong hoạt động kinh tế và mọi lĩnh vực hoạt động xã hội.
Cần chú trọng phát huy sự năng động, sáng tạo, đổi mới và làm giàu tri thức không ngừng của mỗi người Việt Nam; huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc, khích lệ sáng tạo các giá trị văn hóa mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, để các yếu tố cấu thành văn hóa thấm sâu vào tất cả các lĩnh vực sáng tạo của con người, góp phần phát triển kinh tế và văn hóa luôn hài hòa, cân đối nhằm thúc đẩy thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong mối bước, mỗi phương diện phát triển.
Quan điểm nhất quán của Đảng trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước là xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, con người phát triển toàn diện. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”. Như vậy, Đảng luôn chủ trương phát triển kinh tế phải gắn kết chặt chẽ tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội; coi hai mục tiêu này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó tăng trưởng kinh tế là cơ sở, làm tiền đề và điều kiện cho nhau, ngược lại, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là điều kiện quan trọng thúc đẩy và bảo đảm tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Cơ bản là phải “thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế”; coi trọng xây dựng văn hóa từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước mà một trong những nội dung quan trọng chính là đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh; đồng thời, phải làm cho văn hóa góp phần “ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước”. |
PGS, TS. Nguyễn Thanh Tuấn
Nguyên Phó Viện trưởng Viện Quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh