Để phụ nữ tham gia nhiều hơn vào các quá trình ra quyết định
Hội thảo Đánh giá một năm thực hiện công tác cán bộ nữ theo Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị tại Hà Nội ngày 24-3-2009.

1. Những kết quả đạt được.

Thực hiện Luật Bình đẳng giới được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2006 có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2007, Chính phủ đã ban hành các văn bản để thực hiện các quy định của Luật, đồng thời làm căn cứ để các bộ, ngành hướng dẫn thực hiện các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới. Nghị định số 48/2009/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2009 của Chính phủ quy định các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới giao trách nhiệm đối với các cơ quan nhà nước có các biện pháp nhằm thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị.

Thời gian qua, tỷ lệ đại biểu Quốc hội là nữ có tăng lên nhưng chưa thật bền vững: khóa VII (1981-1987), số đại biểu nữ chiếm tỉ lệ 21,77%; khóa VIII (1987-1992 ) là l8%; khóa IX (1992-1997) 18,84%; khóa X (1997-2002) 26,20%; khóa XI (2002-2007) 27,31%. Trong khi mục tiêu của Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010 là 30% trở lên. Đến khoá XII (2007-2011) con số này là 25,76%. Như vậy, trong vòng 20 năm (từ năm 1987 đến năm 2007), đại biểu Quốc hội là nữ chỉ tăng được gần 4%.

Phụ nữ tham gia các Uỷ ban của Quốc hội khoá XI đã tăng hơn và tập trung chủ yếu ở các lĩnh vực xã hội như: Uỷ ban các vấn đề xã hội (40,1%), Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục thiếu niên, nhi đồng (40,1%), Hội đồng Dân tộc (43,6%). Ở các uỷ ban khác có rất ít cán bộ nữ: 12,5% ở Uỷ ban Ngân sách và Kinh tế, 17,6% trong Uỷ ban Đối ngoại, 11,8% trong Uỷ ban Pháp luật; một số uỷ ban không có cán bộ nữ như Uỷ ban Quốc phòng và An ninh. Sự thiếu hụt cán bộ nữ trên một số lĩnh vực quan trọng làm cho việc hoạch định chính sách không có tiếng nói đại diện của phụ nữ, dẫn đến việc thực hiện bình đẳng giới về mọi mặt chưa đạt kết quả mong muốn.

Nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII với tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội là 25,76%, đa số đại biểu Quốc hội có trình độ đại học và trên đại học (chiếm 91,4%); nữ đại biểu trẻ dưới 40 tuổi chiếm 38,6%; nữ đại biểu là người dân tộc thiểu số chiếm một phần không nhỏ (32,3%). Trong đó, đa số đại biểu mới tham gia lần đầu (chiếm 77,2%) và kiêm nhiệm. Vừa phải đảm nhiệm vai trò là người đại biểu của nhân dân, vừa gánh vác công việc chuyên môn trong các cơ quan, tổ chức của mình các nữ đại biểu đã có nhiều nỗ lực trong việc tham gia vào các hoạt động lập pháp, giám sát quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và các hoạt động khác của Quốc hội một cách có hiệu quả.

Trong khi tỷ lệ nữ đại biểu tham gia cơ quan lập pháp đạt tương đối cao thì trong cơ quan dân cử ở địa phương, tỷ lệ đại biểu là phụ nữ lại thấp hơn và không đạt yêu cầu Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010. Trong nhiệm kỳ 2004-2009, tỷ lệ nữ tham gia Hội đồng nhân dân ở cấp tỉnh chỉ đạt 23,88%, cấp huyện đạt 23,01% và cấp xã đạt 19,53%. Nhìn chung, tỷ lệ nữ trong Hội đồng nhân dân ở tất cả các cấp đều thấp, đặc biệt thấp đối với các vị trí lãnh đạo như chủ tịch hoặc phó chủ tịch Hội đồng nhân dân. Trong nhiệm kỳ 2004-2009, tỷ lệ phụ nữ giữ vị trí chủ tịch ở cấp tỉnh chỉ có 1,56%, cấp huyện là 3,92% và cấp xã là 4,09%; trong khi tỷ lệ này ở cấp phó tương ứng là 26,56%, 19,64% và 10,61%.

Số đại biểu nữ được bầu vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp hoặc tham gia lãnh đạo, quản lý thấp, không hẳn do bản thân không đủ năng lực, hoặc chưa đủ tư cách mà do có yếu tố thuộc về nhận thức giới, tư tưởng coi thường phụ nữ, v.v... đã tác động, làm ảnh hưởng đến số phiếu bầu cũng như thiếu nguồn cán bộ nữ để giới thiệu ứng cử. Đại biểu Quốc hội là một nghề không qua đào tạo chuyên ngành nhưng là nghề đặc thù cần tiêu chuẩn, phẩm chất riêng, có sức khoẻ, trí tuệ và bản lĩnh cũng như thời gian. Tuy nhiên, hiện nay chưa có tiền lệ quy hoạch và tạo nguồn cho các vị trí đặc biệt này. Do đó, tỉ lệ cán bộ nữ trên các lĩnh vực nói chung còn thấp, nguồn cán bộ nữ hẫng hụt, bố trí cán bộ nữ nhiều nơi hết sức khó khăn, lúng túng, có tính chất tình thế, chỉ đáp ứng nhu cầu trước mắt.

2. Nguyên nhân, hạn chế.

a) Tư tưởng gia trưởng, trọng nam, khinh nữ vẫn còn tồn tại trong một bộ phận nhân dân, đặc biệt là ở vùng nông thôn, miền núi; mặt khác nhận thức về vấn đề bình đẳng giới tuy đã có chuyển biến, nhưng chưa nhiều, do vậy việc thực hiện bình đẳng giới trong gia đình và ngoài xã hội còn có những hạn chế. Nhận thức của các cấp, các ngành còn nhiều bất cập; chưa tích cực, chủ động triển khai thực hiện Luật Bình đẳng giới và còn có tư tưởng coi công tác bình đẳng giới là của phụ nữ và cho phụ nữ nên nhiều hoạt động thực hiện còn mang tính hình thức.

b) Nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền ở nhiều địa phương, đơn vị về bình đẳng giới, về vai trò năng lực của phụ nữ còn hạn chế. Thiếu các giải pháp để thực hiện các chủ trương của Đảng về công tác bầu cử nữ đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Chủ trương công tác cán bộ nữ chưa được quán triệt, thực hiện đầy đủ trong quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng, đề bạt cán bộ.

c) Một số quy định trong các lĩnh vực có liên quan đến bình đẳng giới còn chưa phù hợp đã dẫn tới những hạn chế về điều kiện và cơ hội tham gia của phụ nữ như vấn đề tuổi nghỉ hưu, tuổi đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm... của cán bộ, công chức nữ. Một số chính sách khuyến khích sử dụng lao động nữ không được thi hành như chính sách khuyến khích đối với doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ mặc dù đã ban hành từ lâu nhưng chậm và khó thực hiện. Do vậy không tạo động lực cho các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ và nâng cao các điều kiện bảo hộ lao động, chế độ đãi ngộ đối với lao động nữ.

d) Việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, cũng như các chương trình, dự án phát triển kinh tế-xã hội chưa được quan tâm đúng mức nên việc xây dựng và ban hành chính sách, pháp luật đảm bảo lồng ghép bình đẳng giới vẫn còn lúng túng và có hạn chế nhất định.

đ) Trách nhiệm quá nặng đối với công việc gia đình là một trong những cản trở phụ nữ được hưởng sự bình đẳng với nam giới trong mọi hoạt động nhất là tham gia quản lý, lãnh đạo, do vậy ảnh hưởng tới thực hiện bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị, quản lý.

3. Để thực hiện các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị.

Những năm qua Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành và các tổ chức liên quan thực hiện các công việc để góp phần cho mục tiêu này như sau:

Một là: Tổng kết 5 năm thực hiện Nghị định số 19/2003/NĐ-CP ngày 7 tháng 3 năm 2003 của Chính phủ quy định trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước các cấp trong việc bảo đảm cho các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham gia quản lý nhà nước. Trên cơ sở đánh giá, nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung những hạn chế của Nghị định số 19/2003/NĐ-CP nhằm quy định trách nhiệm rõ hơn của bộ, ngành, ủy ban nhân dân các cấp trong việc bảo đảm cho các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham gia quản lý nhà nước.

Hai là: Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương khoá X về kéo dài tuổi làm việc đối với các chức danh thứ trưởng và tương đương là nữ, Ban Cán sự đảng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo để cụ thể hóa việc kéo dài tuổi làm việc đối với các chức danh thứ trưởng và tương đương là nữ để các cấp có thẩm quyền chủ động trong sử dụng, quy hoạch cán bộ, công chức nữ có sức khỏe, năng lực chuyên môn và kinh nghiệm quản lý.

Ba là: Phê duyệt và ban hành Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020. Trong đó quy định cụ thể chỉ tiêu phấn đấu tăng tỷ lệ nữ tham gia quản lý, lãnh đạo; hướng dẫn việc sắp xếp tổ chức, bố trí cán bộ, công chức, cộng tác viên làm công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ, bảo đảm thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020; hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương lập kế hoạch biên chế công chức hằng năm làm công tác bình đẳng giới và phân bổ chỉ tiêu theo quy định của Luật Cán bộ, công chức năm 2008; ban hành Nghị định số 21/2010/NĐ-CP ngày 8 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về quản lý biên chế công chức và bảo đảm bố trí đủ, đúng để thực hiện nhiệm vụ bình đẳng giới.

Bốn là. Nghiên cứu, khảo sát và tổng hợp ý kiến của các đại biểu Quốc hội tại kỳ họp Quốc hội lần thứ Tám, Quốc hội khóa XII và của các đại biểu Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân vào tháng 9 năm 2010 về tỷ lệ nữ ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Tổng hợp ý kiến của 318 đại biểu Quốc hội và 295 đại biểu Hội đồng nhân dân cho thấy: Trên 85% ý kiến thống nhất tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ khóa XIII đạt 30% là đảm bảo bình đẳng giới; trên 90% ý kiến đánh giá chất lượng tham gia của các đại biểu Quốc hội là nữ trong nhiệm kỳ khóa XII là có hiệu quả; trên 95% ý kiến của đại biểu Hội đồng nhân dân cho rằng tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp khóa XII còn thấp và chưa đạt yêu cầu của thực tiễn. Các ý kiến tập trung thống nhất với việc đánh giá, cũng như nguyên nhân hạn chế của tình trạng này như nêu tại phần I. Đa số đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân thống nhất tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ khóa tới cần đạt từ 30% trở lên; đề nghị Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ có các nghị quyết để cụ thể hóa các chỉ tiêu này trong chỉ đạo về công tác nhân sự chuẩn bị cho công tác bầu cử nhiệm kỳ 2011-2016.
Nhiều hoạt động khác được các bộ, ngành, địa phương đã và đang thực hiện nhằm nghiên cứu, đề xuất các biện pháp nâng cao vị thế của phụ nữ trong phát triển và hội nhập quốc tế; thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; khuyến nghị một số giải pháp để tăng cường tỷ lệ nữ trong các vị trí lãnh đạo và quản lý; tăng cường công tác tuyên truyền, vận động thực hiện Luật Bình đẳng giới và Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27 tháng 4 năm 2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.


4. Những kiến nghị, đề xuất của Chính phủ.

Từ thực trạng, nguyên nhân, hạn chế nêu trên, nhằm góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước, bảo đảm bình đẳng thực chất giữa nam và nữ về cơ hội, sự tham gia, đóng góp trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, Chính phủ kiến nghị và đề xuất:

Một là: Ngày 24 tháng 12 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2351/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 nhằm tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo, từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị. Chiến lược đã đề ra chỉ tiêu cụ thể bảo đảm tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016 từ 30% trở lên. Do đó, để tiến tới chuẩn bị cho kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân khóa XIII đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội có nghị quyết nhằm chỉ đạo, quán triệt các cơ quan liên quan, các cấp có thẩm quyền về công tác nhân sự và bầu cử đảm bảo tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp đạt 30% trở lên; chú ý những đại biểu nữ tái cử để tăng nguồn và phát huy kinh nghiệm, trí tuệ của đội ngũ này; đồng thời bảo đảm sự tham gia của đại diện Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong ủy ban bầu cử các cấp ở địa phương trong suốt quy trình hiệp thương.

Hai là: Giao cho Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam chỉ đạo, hướng dẫn các cấp Hội chủ động lập danh sách giới thiệu nhân sự làm căn cứ cho Hội đồng bầu cử và ủy ban bầu cử bố trí, sắp xếp nhân sự nữ trong quy trình hiệp thương; tổ chức các hoạt động tập huấn nâng cao năng lực cho nữ ứng cử viên khi tham gia lần đầu; giám sát việc thực hiện các chỉ tiêu cụ thể đã được phê duyệt.

Ba là: Tăng cường công tác giám sát của các cơ quan chức năng của Quốc hội đối với việc thực hiện công tác bình đẳng giới của các cấp chính quyền; giám sát việc thực hiện các chỉ tiêu cụ thể đã được phê duyệt.

Bốn là: Tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên của Mặt trận, đặc biệt là vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp khi giới thiệu, ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp trong quy trình hiệp thương.

Năm là: Chính phủ ban hành văn bản hướng dẫn tiêu chuẩn, cơ cấu đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp và quy trình công tác nhân sự Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân nhiệm kỳ 2011-2016, trong đó xác định rõ những biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới nhằm đảm bảo tỷ lệ nữ tham gia ứng cử đạt khoảng 35% để có cơ sở phấn đấu đạt tỷ lệ trúng cử là 30% trở lên; chỉ đạo các bộ, ngành, các địa phương chủ động giới thiệu nguồn là đại biểu nữ của bộ, ngành, địa phương mình vào các cơ quan dân cử.

Chính phủ tiếp tục tổ chức khảo sát, nghiên cứu hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách và văn bản quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm tỷ lệ thích đáng nữ ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; phát hiện nguồn và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức về quản lý nhà nước, lý luận chính trị, tin học, ngoại ngữ, các kỹ năng về lãnh đạo tổ chức điều hành, kỹ năng thuyết trình... Tổ chức phân tích đánh giá tỷ lệ cán bộ nữ ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp trong các nhiệm kỳ qua; khảo sát, đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ nữ, cán bộ nữ trong quy hoạch thuộc hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở, trong các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác.


Hà Thư (lược thuật)

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất