Chính phủ báo cáo việc thực hiện Nghị quyết về chất vấn và trả lời chất vấn

CHÍNH PHỦ

_______

Số: 321/BC-CP

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Hà Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2012

 

BÁO CÁO

Về việc thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội

về chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 2 và thứ 3 (khoá XIII)

(do Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc trình bày

tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khoá XIII)

______

 

- Thưa các đồng chí lãnh đạo và nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước,

   Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,

- Thưa các vị đại biểu Quốc hội,

- Thưa đồng bào, cử tri cả nước,

Tại Kỳ họp thứ 2 và thứ 3, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 21/2011/QH13 ngày 26 tháng 11 năm 2011 và Nghị quyết số 30/2012/QH13 ngày 21 tháng 6 năm 2012 về chất vấn và trả lời chất vấn. Ý thức sâu sắc về trách nhiệm trước Quốc hội và cử tri cả nước, ngay sau mỗi kỳ họp, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và từng thành viên Chính phủ đã nghiêm túc chấp hành các Nghị quyết của Quốc hội, nhanh chóng nghiên cứu, cụ thể hóa thành các cơ chế, chính sách và khẩn trương tổ chức thực hiện gắn với việc triển khai đồng bộ các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và đến nay đã đạt được những kết quả tích cực, từng bước giải quyết những vấn đề mà Quốc hội, đại biểu Quốc hội và cử tri cả nước quan tâm. Trong và giữa hai kỳ họp, các thành viên Chính phủ đã có văn bản trả lời các chất vấn của đại biểu Quốc hội. Tại kỳ họp này, các thành viên Chính phủ đã gửi tới các vị đại biểu Quốc hội báo cáo kết quả cụ thể việc thực hiện các nội dung đã hứa trước Quốc hội và đồng bào, cử tri cả nước. Hôm nay, được sự phân công của Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ, tôi xin trân trọng báo cáo tổng hợp tình hình thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 2 và thứ 3.

I. Kết quả thực hiện Nghị quyết số 21/2011/QH13

1. Trong lĩnh vực giao thông vận tải

Thực hiện nghiêm túc, kịp thời Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã chỉ đạo triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp cấp bách và lâu dài nhằm bảo đảm trật tự an toàn giao thông và chống ùn tắc giao thông[1]; đưa công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông thành một chỉ tiêu quan trọng trong nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; tập trung chỉ đạo thực hiện Nghị quyết số 88/NQ-CP ngày 24 tháng 8 năm 2011 của Chính phủ; xác định năm 2012 là "Năm an toàn giao thông”;                ban hành Chiến lược quốc gia bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ đến năm 2020; tiến hành sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật liên quan; ưu tiên nguồn lực cho đầu tư, phát triển hạ tầng giao thông; tổ chức lại giao thông, tập trung xóa điểm đen tai nạn giao thông; tăng cường quản lý hoạt động vận tải; nâng cao chất lượng kiểm định, kiểm soát công tác đào tạo, sát hạch cấp giấy phép lái xe cơ giới, điều khiển phương tiện thủy nội địa; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý hành vi vi phạm; đẩy mạnh các hình thức tuyên truyền về văn hoá giao thông, chú trọng công tác giáo dục pháp luật, phát động mạnh mẽ cuộc vận động toàn dân tham gia công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông và chống ùn tắc giao thông.

Ngoài các giải pháp chung nêu trên, đã tập trung thực hiện một số giải pháp khác chống ùn tắc giao thông tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh như: giải tỏa lấn chiếm vỉa hè, lòng lề đường; xây dựng hệ thống các cầu vượt nhẹ và đường cao tốc trên cao; điều chỉnh giờ làm việc, giờ học, giờ kinh doanh; từng bước phát triển vận tải công cộng, hiện đại hóa việc điều hành giao thông kết hợp với phân làn, phân luồng giao thông.

Kết quả, trong 10 tháng đầu năm, số vụ tai nạn giao thông giảm 27,61%, số người chết giảm 16,8% và số người bị thương giảm 27,85% so cùng kỳ năm 2011[2]; tình trạng ùn tắc giao thông tại 2 thành phố lớn có chuyển biến rõ rệt.

Mặc dù tai nạn giao thông giảm sâu cả 3 tiêu chí nhưng số vụ tai nạn, số người chết và số người bị thương vẫn ở mức cao, còn xảy ra nhiều vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng; ý thức chấp hành pháp luật của người dân chưa đồng đều; một số địa phương chưa xử lý nghiêm các vụ việc vi phạm. Chính phủ sẽ tiếp tục chỉ đạo thực hiện quyết liệt, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra, tập trung khắc phục những hạn chế, phấn đấu giảm hơn nữa tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông; xác định năm 2013 là năm “Nâng cao tinh thần trách nhiệm của người thực thi công vụ và ý thức tự giác của người tham gia giao thông”.

2. Trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn

Về việc tăng đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn; phấn đấu đến năm 2015 cả nước có 20% số xã đạt các tiêu chí nông thôn mới:

Vừa qua, vốn ngân sách đầu tư hàng năm cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đã tăng lên đáng kể với mức cao hơn mức tăng chung của nền kinh tế: năm 2010 tăng 21,3%, năm 2011 tăng 34,7%, năm 2012 tăng 28%. Tỷ trọng chi cho lĩnh vực này trong tổng chi ngân sách nhà nước đã tăng từ 35,9% (năm 2009) lên 39,8% (năm 2011) và dự kiến 40,9% (năm 2012). Mặc dù thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, nhưng Chính phủ vẫn chỉ đạo ưu tiên tăng tín dụng cho nông nghiệp, nông thôn, nông dân với mức lãi suất thấp. Đến hết tháng 9 năm 2012 dư nợ trong lĩnh vực này tăng 5,3% và chiếm 18% tổng dư nợ (nếu tính cả dư nợ của Ngân hàng Chính sách xã hội thì tỷ trọng này là 22%). Ngoài ra, Chính phủ đã có chính sách thu hút, khuyến khích các nguồn lực khác (ODA, FDI...) đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn.

Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới được quan tâm chỉ đạo và đã trở thành phong trào chung của cả nước. Vốn ngân sách bố trí cho lĩnh vực này trong hai năm 2011 và 2012 đạt khoảng 18.300 tỷ đồng, trong đó ngân sách Trung ương khoảng 3.300 tỷ đồng; ngân sách địa phương khoảng 15.000 tỷ đồng; đồng thời, chỉ đạo lồng ghép nguồn vốn từ các chương trình, dự án khác trên địa bàn cho xây dựng nông thôn mới.

Tuy nhiên, vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn nói chung và xây dựng nông thôn mới nói riêng chưa đáp ứng được yêu cầu, một số tiêu chí nông thôn mới đề ra còn bất cập. Để khắc phục, Chính phủ sẽ sửa đổi, bổ sung chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư và chính sách tín dụng trong nông nghiệp, nông thôn; tăng vốn đầu tư cho các chương trình hỗ trợ có mục tiêu đang triển khai; vận động các nguồn vốn khác và áp dụng cơ chế đầu tư đặc thù để đẩy nhanh việc thực hiện Chương trình nông thôn mới; sửa đổi bộ tiêu chí nông thôn mới cho phù hợp.

Việc nghiên cứu, sản xuất, cung ứng giống cây nông, lâm nghiệp, giống vật nuôi và thuỷ sản được quan tâm, với nguồn vốn ngân sách đầu tư tăng lên hàng năm. Ngành nông nghiệp đã chọn, tạo và công nhận được nhiều giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản, từng bước đáp ứng nhu cầu sản xuất, đem lại hiệu quả kinh tế[3]. Tuy nhiên, một số loại giống cần thiết vẫn phải nhập khẩu, đặc biệt là các tỉnh phía Bắc phải nhập khoảng 70% giống lúa lai.

Về tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, Chính phủ đã chỉ đạo tiếp tục thực hiện Đề án “Phát triển thương mại nông thôn giai đoạn 2010 - 2015 và định hướng đến năm 2020”; hỗ trợ lãi suất vay cho doanh nghiệp thu mua tạm trữ lúa gạo; sửa đổi, bổ sung chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng; gắn sản xuất với tiêu thụ; đẩy mạnh công tác thông tin thị trường, chú trọng xúc tiến thương mại nội địa; tăng cường việc quảng bá hàng hóa nông, thủy sản truyền thống và tiềm năng tại các Hội chợ thương mại quốc tế.

Mặc dù vậy, chính sách hỗ trợ nông dân sản xuất và tiêu thụ nông sản còn bất cập. Công nghệ chế biến sau thu hoạch chưa được đầu tư tương xứng; việc quản lý chất lượng nông sản, thủy sản xuất khẩu còn hạn chế… Thời gian tới cần tiếp tục triển khai quyết liệt các giải pháp, nhất là về tín dụng, công nghệ và thị trường; khuyến khích hình thành các chuỗi liên kết về lợi ích từ người sản xuất đến thu mua, chế biến, tiêu thụ và xuất khẩu nhằm đẩy mạnh tiêu thụ nông sản, thủy sản cho nông dân.

Về việc áp dụng tiêu chuẩn nhập khẩu hàng hóa nông sản phù hợp với thông lệ quốc tế; quản lý sản xuất, kinh doanh, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật: Chính phủ đã chỉ đạo ban hành hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật để kiểm soát chất lượng, an toàn thực phẩm nông, lâm, thủy sản nhập khẩu; ban hành 25   Thông tư về quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp, trong đó có thuốc bảo vệ thực vật; kịp thời cung cấp thông tin về việc sử dụng chất cấm trong chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng thủy sản và chế biến các sản phẩm nông nghiệp. Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng nhập lậu một số loại nông sản, thực phẩm không bảo đảm chất lượng; việc quản lý kinh doanh một số loại thuốc bảo vệ thực vật chưa chặt chẽ, gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến chất lượng nông sản, gây bức xúc cho xã hội và người dân. Chính phủ sẽ chỉ đạo các cơ quan chức năng quản lý chặt chẽ việc nhập khẩu nông sản cũng như việc sản xuất, kinh doanh thuốc bảo vệ thực vật.

Về việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp, hạn chế chuyển đổi mục đích sử dụng đất trồng lúa; hỗ trợ nông dân sản xuất lúa, bảo đảm giữ được 3,812 triệu ha đất lúa: Chính phủ đã tập trung chỉ đạo thực hiện đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp[4], gắn quy hoạch phát triển ngành với quy hoạch vùng và quy hoạch hệ thống chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Đối với đất trồng lúa, Chính phủ đã ban hành Nghị định                 số 42/2012/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2012 về quản lý và sử dụng đất trồng lúa, theo hướng quản lý chặt chẽ, bảo vệ và khuyến khích phát triển đất trồng lúa; trong đó có quy định hỗ trợ kinh phí cho địa phương, cho người sản xuất lúa và có chính sách hỗ trợ khi bị thiên tai, dịch bệnh. 

Về phát triển các hình thức hợp tác trong nông nghiệp, liên kết 4 nhà, liên kết vùng; nhân rộng mô hình “cánh đồng mẫu lớn”:

Chính phủ đã xây dựng dự án Luật Hợp tác xã (sửa đổi) trình Quốc hội; chỉ đạo việc đổi mới phát triển các hợp tác xã, tổ hợp tác ở nông thôn; tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện Đề án “Đổi mới, phát triển hợp tác xã và các hình thức tổ chức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp" và Đề án “Chính sách thúc đẩy liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản giữa nông dân và các đối tác kinh tế khác”, trong đó, chú trọng thúc đẩy liên kết 4 nhà.

Mô hình “cánh đồng mẫu lớn” được thực hiện thí điểm bước đầu thành công: đã tăng cường sự liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm; tăng năng suất 10 - 12%, tiết kiệm chi phí 10 - 30%, sản phẩm cơ bản được tiêu thụ. Chính phủ đang chỉ đạo xây dựng chính sách hỗ trợ để nhân rộng mô hình này trên phạm vi cả nước.

Về tổ chức thực hiện thí điểm bảo hiểm nông nghiệp: Đã chỉ đạo áp dụng đối với 8 loại đối tượng cây trồng, vật nuôi. Sau hơn 1 năm triển khai thực hiện đã đạt một số kết quả bước đầu: có 128.594 hộ nông dân ở 20 tỉnh, thành phố tham gia (trong đó 85% là hộ nghèo), với tổng giá trị tài sản bảo hiểm trên 1.681 tỷ đồng, phí bảo hiểm đã thu là 89,3 tỷ đồng[5]. Chính phủ đang khẩn trương chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của nông dân và doanh nghiệp tham gia bảo hiểm; kéo dài thời gian thực hiện thí điểm đến hết ngày 30 tháng 6 năm 2014; đồng thời nghiên cứu, sửa đổi, ban hành văn bản hướng dẫn cho phù hợp.

Về việc rà soát, điều chỉnh quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội gắn với việc ứng phó tác động của biến đổi khí hậu, phòng, chống bão, lụt, đặc biệt là quy hoạch hệ thống đê biển: Chính phủ đã ban hành Chiến lược Quốc gia về biến đổi khí hậu; về phòng, chống giảm nhẹ thiên tai; chỉ đạo triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó biến đổi khí hậu; xây dựng Đề án "Phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu - nước biển dâng"; trình Quốc hội tại kỳ họp này dự án Luật phòng, tránh và giảm nhẹ thiên tai. Đã phê duyệt Quy hoạch thuỷ lợi đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng, các tỉnh miền Trung; chỉ đạo quy hoạch, xây dựng đê biển từ Quảng Ninh đến Quảng Nam và từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang có tính tới tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng; chỉ đạo xây dựng Đề án "Chủ trương, giải pháp chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; đẩy mạnh công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường" để trình Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khóa XI).

Về quản lý rừng và đất rừng; xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ và phát triển rừng; hỗ trợ chính quyền địa phương, lực lượng kiểm lâm và nông dân trồng rừng, bảo vệ rừng: Chính phủ đã chỉ đạo thí điểm điều tra, kiểm kê rừng tiến tới xây dựng dự án Tổng điều tra, kiểm kê rừng toàn quốc. Thực hiện chính sách hỗ trợ công tác trồng và bảo vệ rừng (ngân sách năm 2011 cấp 750 tỷ đồng, năm 2012 cấp 1.210 tỷ đồng), đề ra các giải pháp căn bản, lâu dài từng bước giải quyết nạn phá rừng, cháy rừng; tăng cường biên chế và trang thiết bị cho lực lượng kiểm lâm[6]. Thời gian tới sẽ tăng mức đầu tư hỗ trợ cho công tác trồng và bảo vệ rừng, đặc biệt là hỗ trợ cho đồng bào vùng cao, vùng dân tộc thiểu số và biên giới.

Về công tác bảo vệ rừng, trong 9 tháng đầu năm, đã phát hiện 20.669 vụ vi phạm hành chính (giảm 1.840 vụ so cùng kỳ năm 2011); đã khởi tố 290 vụ án hình sự, 244 bị can. Tuy vậy, việc ngăn chặn tình trạng phá rừng, cháy rừng, vi phạm pháp luật còn kém hiệu quả; đã xảy ra một số vụ phá rừng, chống lại kiểm lâm... gây bức xúc trong xã hội. Chính phủ sẽ chỉ đạo thực hiện quyết liệt và đồng bộ các giải pháp nhằm xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng.

3. Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo

Về việc xây dựng Đề án đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế: Ban Cán sự Đảng Chính phủ đã trình Hội nghị Trung ương lần thứ 6 và Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Kết luận về Đề án này.

Về việc liên kết đào tạo với nước ngoài, đào tạo từ xa: Chính phủ đã ban hành Nghị định số 73/2012/NĐ-CP ngày 26 tháng 9 năm 2012 về hợp tác, đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, đồng thời chỉ đạo khẩn trương ban hành văn bản hướng dẫn; rà soát, bổ sung và sửa đổi những quy định về đào tạo từ xa; xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trong liên kết đào tạo.

Về tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các cơ sở đào tạo đại học vi phạm các điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo: Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 50/2010/QH12 của Quốc hội khóa XII, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tập trung rà soát các cơ sở đào tạo đại học sau khi được thành lập và đi vào hoạt động, xử lý các cơ sở không bảo đảm các tiêu chí theo quy định. Trong năm qua, đã kiểm tra 62 trường đại học, cao đẳng; xử lý các trường hợp không bảo đảm chất lượng đào tạo, vi phạm quy chế đào tạo; đã dừng tuyển sinh năm 2012 đối với 4 trường đại học, đình chỉ tuyển sinh năm 2012 đối với 17 ngành của 9 trường.

Về việc quản lý dạy thêm, học thêm: Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành các quy định mới nhằm ngăn chặn tình trạng dạy thêm, học thêm tràn lan, gây quá tải và áp lực cho học sinh và phụ huynh học sinh; đồng thời, từng bước  điều chỉnh giảm tải nội dung dạy và học trong trường phổ thông.

Về các chế độ, chính sách đối với đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục, đào tạo cho con em đồng bào dân tộc thiểu số và các vùng khó khăn:

Đã thực hiện nhiều chính sách, chế độ cho các nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục về phụ cấp thâm niên, phụ cấp ưu đãi, hỗ trợ kinh phí đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện, làm nhà công vụ, hỗ trợ cán bộ quản lý giáo dục công tác ở vùng đặc biệt khó khăn...

Đã tập trung chỉ đạo củng cố và phát triển hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú; phát triển giáo dục đối với các dân tộc rất ít người; hỗ trợ học sinh bán trú và trường phổ thông dân tộc bán trú; thực hiện chính sách phát triển giáo dục đào tạo và dạy nghề, ưu tiên tuyển sinh đại học, cao đẳng đối với con em các dân tộc thiểu số ở Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ.

Bên cạnh những kết quả nêu trên, lĩnh vực giáo dục, đào tạo còn nhiều hạn chế, bất cập. Chất lượng giáo dục và đào tạo nhìn chung còn thấp, đào tạo đại học và đào tạo nghề chưa thực sự gắn với nhu cầu sử dụng nhân lực. Công tác kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả; trách nhiệm của người đứng đầu các cơ sở đào tạo nhiều nơi còn hạn chế; chương trình học ở bậc phổ thông còn quá tải; nhiều hiện tượng tiêu cực kéo dài như tình trạng dạy thêm, học thêm ép buộc, lạm thu đầu năm học, tiêu cực trong thi cử… chậm được khắc phục, gây bức xúc xã hội. Chế độ, chính sách đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục chưa thỏa đáng. Thời gian tới, Chính phủ sẽ chỉ đạo quyết liệt theo hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo tinh thần Kết luận của Hội nghị Trung ương 6 vừa qua; tăng cường công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các cơ sở đào tạo không bảo đảm chất lượng, vi phạm các quy định của pháp luật.

4. Trong lĩnh vực tài chính

Việc thực hiện cơ chế giá thị trường đối với điện, than, xăng dầu và việc công khai, minh bạch kết quả sản xuất, kinh doanh, giá thành:

Đối với điện: Thực hiện Quyết định số 24/2011/QĐ-TTg ngày 15 tháng 4 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ, giá điện đã được điều chỉnh từng bước nhằm tiến tới cơ chế thị trường, gắn với mục tiêu kiềm chế lạm phát. Để góp phần bảo đảm an sinh xã hội, chính sách hỗ trợ giá điện cho hộ nghèo tiếp tục được thực hiện[7]. Về công khai giá điện, hiện đã có kết quả kiểm toán độc lập giá điện năm 2011 và đang rà soát để xác nhận giá thành theo quy định. Thanh tra Chính phủ cũng đang tiến hành thanh tra tình hình sản xuất, kinh doanh của Tập đoàn Điện lực Việt Nam.

Đối với than: Giá than bán cho các nhu cầu tiêu thụ (trừ bán cho sản xuất điện) đã thực hiện theo giá thị trường; giá than bán cho sản xuất điện được điều chỉnh phù hợp với lộ trình điều chỉnh giá điện, có tính đến điều kiện kinh tế - xã hội tại thời điểm điều chỉnh.

Đối với xăng dầu: Giá xăng dầu được thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo Nghị định số 84/2009/NĐ-CP của Chính phủ. Theo đó, trong điều kiện bình thường, doanh nghiệp đầu mối được điều chỉnh giá bán lẻ trong phạm vi, trình tự, định mức quy định; liên Bộ Tài chính, Công Thương giám sát, hậu kiểm và xử lý nếu có vi phạm. Trong trường hợp cần thiết, Nhà nước bình ổn giá xăng dầu thông qua chính sách thuế và Quỹ bình ổn giá. Về việc công khai minh bạch trong kinh doanh xăng dầu, Nghị định trên đã đưa ra công thức tính giá cơ sở để hình thành giá bán lẻ, các yếu tố hình thành giá được công bố thường kỳ. Tuy nhiên, một số quy định về yếu tố cấu thành giá cơ sở đã lạc hậu so với thực tế; công tác quản lý chất lượng, đo lường, chống đầu cơ thiếu chặt chẽ; cơ chế phối hợp trong quản lý, điều hành giá chưa hiệu quả. Chính phủ đã chỉ đạo tổng kết, đánh giá toàn diện việc thực hiện Nghị định, trên cơ sở đó tiến hành sửa đổi, bổ sung chính sách về kinh doanh xăng dầu trong tháng 12 năm 2012.

Việc thoái vốn ngoài ngành kinh doanh chính tại các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, điện, than đã và đang thực hiện theo lộ trình tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước với phương châm chặt chẽ, theo đúng pháp luật, bảo toàn và phát huy hiệu quả sử dụng vốn nhà nước, phấn đấu hoàn thành vào năm 2015.

Về cơ cấu lại thị trường chứng khoán, trái phiếu, bảo hiểm: Chính phủ đang xem xét ban hành Đề án tái cơ cấu thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm, dự kiến đến năm 2015 hoàn thành căn bản cơ cấu lại các tổ chức kinh doanh chứng khoán và doanh nghiệp bảo hiểm; đồng thời đang hoàn thiện lộ trình phát triển thị trường trái phiếu giai đoạn 2011 - 2020.

Về chống thất thu ngân sách: Chính phủ đã tích cực chỉ đạo các cơ quan chức năng thực hiện các biện pháp nghiệp vụ để thu đúng, thu đủ, chống thất thu và nợ đọng thuế. Năm 2011, thu ngân sách vượt 18,4% dự toán. Năm 2012, mặc dù kinh tế có khó khăn và thực hiện chính sách giảm, giãn, miễn thuế nhưng thu ngân sách cả năm có khả năng vẫn đạt kế hoạch đề ra. Tại kỳ họp này, Chính phủ đã trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật quản lý thuế. Bộ Tài chính đã triển khai Chương trình hành động trong giai đoạn 2012 - 2015 để kiểm soát tình trạng chuyển giá làm thất thu.

Về lộ trình giảm bội chi ngân sách, tăng cường quản lý nợ công: Thực hiện mục tiêu giảm dần bội chi ngân sách đến năm 2015 đạt dưới 4,5% GDP theo Nghị quyết của Đảng và của Quốc hội, năm 2011 bội chi dự toán là 5,3% nhưng trong điều hành đã giảm xuống 4,9%; năm 2012 dự toán và điều hành đều ở mức 4,8%; năm 2013 lộ trình là 4,7% nhưng do cân đối ngân sách khó khăn nên Chính phủ đã trình Quốc hội chấp thuận giữ mức bội chi là 4,8%. Trong những năm tiếp theo sẽ điều hành giảm tỷ lệ bội chi để đạt mục tiêu đề ra.

Về nợ công[8], theo Nghị quyết của Quốc hội về phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước 2011 - 2015, trần khống chế dư nợ công không quá  65% GDP, trong đó dư nợ Chính phủ không quá 50% GDP. Tại thời điểm 31 tháng 12 năm 2011, dư nợ công bằng 54,9% GDP, dư nợ Chính phủ bằng 43,2% GDP; ước cuối năm 2012, các chỉ số tương ứng là 55,4% và 43,1%, nằm trong giới hạn an toàn. Để quản lý nợ công an toàn và bền vững, Chính phủ tiếp tục chỉ đạo tăng cường quản lý đầu tư, cơ cấu lại đầu tư công, đặc biệt là từ vốn ngân sách và trái phiếu Chính phủ; gắn kết chặt chẽ việc huy động, phân bổ và sử dụng vốn vay... Đối với nợ của các địa phương, sẽ tăng cường cơ chế kiểm tra, kiểm soát việc huy động và trả nợ bảo đảm phù hợp với quy định của Luật Ngân sách nhà nước.

5. Trong lĩnh vực ngân hàng

Về cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại: Chính phủ đã phê duyệt Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng, trong đó đã chỉ đạo tổ chức đánh giá, phân loại, phê duyệt, thực hiện phương án cơ cấu lại các ngân hàng thương mại yếu kém[9]; trong quá trình xử lý, về cơ bản, việc chi trả tiền gửi tại các ngân hàng diễn ra bình thường, thanh khoản của các ngân hàng vẫn bảo đảm.

Đối với việc xử lý nợ xấu, đã triển khai các giải pháp như: Cơ cấu lại nợ, giãn nợ, bán nợ xấu có tài sản bảo đảm; xử lý nợ bằng nguồn dự phòng rủi ro của các tổ chức tín dụng và xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ; chuyển nợ thành vốn góp, cổ phần của tổ chức cho vay; mua bán nợ... Tuy vậy, đến nay, tiến độ xử lý nợ xấu còn chậm, kết quả còn hạn chế. Đây là vấn đề bức xúc, đòi hỏi phải thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ và sự tham gia, phối hợp chặt chẽ của ngành ngân hàng và các Bộ, cơ quan, địa phương liên quan.

Trong thời gian tới, Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo quyết liệt việc thực hiện cơ cấu lại theo lộ trình, xử lý dứt điểm các ngân hàng yếu kém; khẩn trương xây dựng và triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án xử lý nợ xấu, minh bạch hoá và triển khai đồng bộ các giải pháp xử lý nợ xấu; tăng cường thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng, tiếp tục chỉ đạo xử lý nghiêm minh các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.

Về chính sách tiền tệ: Việc thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng đã góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô nhưng cũng đã phát sinh hệ quả là sản xuất kinh doanh gặp rất nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Mặc dù lãi suất cho vay đã giảm, nhưng doanh nghiệp vẫn khó hấp thụ và khó tiếp cận vốn, tăng trưởng dư nợ tín dụng còn thấp. Giải quyết vấn đề này,          Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo thực hiện quyết liệt các giải pháp đã đề ra nhằm kiểm soát lạm phát, điều hành lãi suất phù hợp, bảo đảm tăng trưởng tín dụng đi đôi với an toàn hệ thống.

Về tỷ giá, việc điều hành các công cụ chính sách tiền tệ, tỷ giá và thị trường ngoại hối phù hợp với tình hình cung - cầu ngoại tệ nên tỷ giá cơ bản ổn định, từng bước chuyển dần quan hệ huy động - cho vay sang quan hệ mua - bán ngoại tệ. Dự trữ ngoại hối thời gian qua tăng cao, cán cân thanh toán được cải thiện. Các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp, hợp lý của người dân và doanh nghiệp cơ bản được đáp ứng.

Về thị trường vàng, sau 5 tháng ban hành và thực hiện Nghị định số 24/2012/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng đã hạn chế được tình trạng đầu cơ, buôn lậu vàng, giảm dần tình trạng “vàng hóa” nền kinh tế, góp phần ổn định thị trường ngoại hối. Tuy nhiên, thị trường vàng trong nước vẫn có biến động lớn kéo dài, việc tuyên truyền về quản lý và sản xuất vàng miếng chưa được thực hiện tốt. Chính phủ chỉ đạo tiếp tục theo dõi chặt chẽ thị trường để có biện pháp kịp thời hơn, sắp xếp lại một cách cơ bản thị trường vàng, tổ chức mạng lưới mua bán vàng miếng theo cơ chế thị trường.

Về tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận vốn, ưu tiên vốn cho nông nghiệp, nông thôn: Cùng với việc giảm mặt bằng lãi suất cho vay, nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp được triển khai đồng bộ như: tập trung vốn cho các lĩnh vực ưu tiên; điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ; miễn, giảm lãi phải trả; tạo điều kiện vay vốn cho các doanh nghiệp có triển vọng nhưng đang gặp khó khăn... Riêng lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, đã có chính sách ưu đãi đối với cả tổ chức tín dụng và đối tượng vay vốn, nên dư nợ trong lĩnh vực này đạt khá và chiếm tỷ trọng cao trong tổng dư nợ toàn hệ thống. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, những giải pháp này chưa đem lại hiệu quả như mong muốn, việc tiếp cận vốn của doanh nghiệp nhìn chung còn khó khăn; có chính sách triển khai quá chậm[10]. Chính phủ đã yêu cầu các Bộ, cơ quan liên quan khẩn trương tháo gỡ các vướng mắc này.

Về giám sát hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại, kiểm soát cho vay bất động sản, chứng khoán: Thời gian qua, cơ cấu tín dụng đã chuyển dịch theo hướng tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên, kiểm soát cho vay đối với lĩnh vực không khuyến khích, trong đó dư nợ cho vay bất động sản, chứng khoán được kiểm soát chặt chẽ hơn. Tính đến hết tháng 9 năm 2012, dư nợ cho vay đối với lĩnh vực không khuyến khích chiếm 4,83% trong tổng dư nợ, thấp hơn nhiều so với mức 11,13% thời điểm cuối năm 2011. Trong đó, tỷ trọng dư nợ cho vay bất động sản là 3,42%; dư nợ cho vay chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư, kinh doanh chứng khoán là 0,49%. Tuy nhiên, dư nợ bất động sản còn lớn, nợ xấu chiếm tỷ trọng cao và chậm được xử lý.

II. Kết quả thực hiện Nghị quyết số 30/2012/QH13

1. Trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường

Về công tác quản lý đất đai và việc sửa đổi Luật Đất đai:

Công tác quản lý đất đai đã được tập trung chỉ đạo, một số quy định mới về quản lý đất đai đã được ban hành; đã đổi mới nội dung quy hoạch sử dụng đất, xác định rõ trách nhiệm của từng cấp đối với việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Việc giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đã bám sát và tuân thủ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.

Chính phủ đã ban hành chính sách quản lý, sử dụng đất trồng lúa; quy định cụ thể việc sử dụng đất làm khu công nghiệp, khu đô thị theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được duyệt, tránh gây lãng phí đất đai, ảnh hưởng đến đất sản xuất nông nghiệp; tăng cường kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật đất đai của các tổ chức được Nhà nước giao đất, cho thuê đất nhưng sử dụng lãng phí[11].

Về chính sách giá đất trong bồi thường giải phóng mặt bằng: Chính phủ đã quy định khi thực hiện bồi thường giải phóng mặt bằng phải thực hiện giá bồi thường theo nguyên tắc định giá đất sát với giá thị trường; đồng thời có chính sách hỗ trợ trong di chuyển, tái định cư, ổn định đời sống và sản xuất, đào tạo chuyển đổi nghề và tạo việc làm đối với trường hợp bị thu hồi đất nông nghiệp, bảo đảm cho người bị thu hồi đất có đất ở, đất sản xuất và việc làm.

Tuy nhiên, công tác quản lý đất đai còn nhiều bất cập, hạn chế, nhất là trong quy hoạch sử dụng đất; xác định giá đất, tạo quỹ đất sạch; quản lý, sử dụng đất của nông, lâm trường; việc phân cấp giữa Chính phủ và chính quyền địa phương trong giao đất, chuyển mục đích sử dụng đất; việc thực hiện cưỡng chế khi Nhà nước thu hồi đất; việc bồi thường, hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi; việc thực hiện nguyên tắc định giá đất “sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường”... Chính phủ đã nghiên cứu, đề xuất các giải pháp tổng thể trong quá trình xây dựng Luật Đất đai (sửa đổi), trình Quốc hội tại kỳ họp này.

Về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu trong phạm vi cả nước, bảo đảm đến 31 tháng 12 năm 2013 căn bản hoàn thành: Đến nay, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sản xuất nông nghiệp đạt 85,5%, đất lâm nghiệp 87,1%, đất nuôi trồng thuỷ sản 83,8%, đất ở nông thôn 85,8%, đất ở đô thị 63,5%, đất chuyên dùng 62,8%, đất cơ sở tôn giáo 83,4%. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã tập trung chỉ đạo, thực hiện đồng bộ các giải pháp để đẩy mạnh việc cấp giấy chứng nhận lần đầu ở địa phương, bảo đảm cơ bản hoàn thành trong năm 2013.

Về giải quyết các vụ việc khiếu kiện phức tạp, kéo dài về đất đai[12]: Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 18 tháng 5 năm 2012 về chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, trong đó tập trung chỉ đạo giải quyết những vụ việc phức tạp, kéo dài liên quan đến đất đai. Thanh tra Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường và các Bộ, ngành liên quan đã thành lập 28 Tổ công tác, phối hợp với các địa phương để rà soát, tập trung giải quyết các vụ việc phức tạp, tồn đọng kéo dài. Tính đến hết tháng 10 năm 2012, đã kiểm tra, rà soát và có phương án giải quyết đối với 513/528 vụ việc. Kết quả bước đầu cho thấy, số đoàn khiếu kiện đông người có xu hướng giảm, nhiều vụ việc gây bức xúc cho người dân được quan tâm giải quyết. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vụ việc chưa được giải quyết dứt điểm, nhiều đoàn khiếu kiện đông người, gay gắt vẫn tập trung về Trung ương. Chính phủ sẽ tập trung tháo gỡ các tồn tại vướng mắc, xử lý dứt điểm các vụ việc phức tạp, đông người, kéo dài liên quan đến đất đai nhằm ổn định tình hình, bảo đảm kỷ cương và quyền lợi hợp pháp của công dân.

Về khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề, khu công nghiệp, lưu vực sông:

Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường, tập trung vào các nhóm nhiệm vụ: khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường tại các làng nghề; cải thiện và phục hồi môi trường tại khu vực bị ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng do hoá chất bảo vệ thực vật tồn lưu; thu gom, xử lý nước thải từ các đô thị loại II trở lên thuộc 3 lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy, sông Cầu và hệ thống lưu vực sông Đồng Nai. Đã ban hành và chỉ đạo thực hiện Chiến lược quốc gia bảo vệ môi trường đến năm 2020, tập trung vào kiểm soát, khắc phục ô nhiễm, phục hồi môi trường các khu vực đã bị ô nhiễm; tăng cường quản lý, chấn chỉnh hoạt động khai thác khoáng sản gắn với bảo vệ, phục hồi môi trường; xây dựng các Đề án bảo vệ môi trường làng nghề Việt Nam, Đề án bảo vệ môi trường lưu vực sông. Đã xây dựng và triển khai các dự án “Nghiên cứu quản lý môi trường các lưu vực sông tại Việt Nam” và “Tăng cường năng lực quản lý môi trường nước lưu vực sông”, bước đầu đạt được một số kết quả nhất định.

Tuy nhiên, việc xử lý chất thải, rác thải ở các làng nghề, các khu, cụm công nghiệp còn nhiều bất cập; nhiều doanh nghiệp vi phạm xả chất thải trực tiếp ra môi trường, gây ô nhiễm nguồn nước, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống; việc xử lý bao bì hóa chất bảo vệ thực vật ở nông thôn chưa được quan tâm. Chính phủ sẽ quyết liệt chỉ đạo công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường, xử lý các vi phạm về bảo vệ môi trường tại các cơ sở sản xuất, khu công nghiệp, cụm công nghiệp và có giải pháp xử lý chất thải ở nông thôn.

2. Trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư

Về đầu tư công: Trong thời gian qua, việc huy động và sử dụng vốn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ đã góp phần quan trọng vào việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, việc phân cấp quản lý đầu tư còn bất cập, kiểm tra giám sát chưa tốt, kế hoạch đầu tư bị cắt khúc, thời gian thi công kéo dài, hiệu quả đầu tư thấp, gây phân tán và lãng phí nguồn lực. Để khắc phục những tồn tại trên, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị        số 1792/CT-TTg về tăng cường quản lý đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ, trong đó chú trọng các giải pháp quản lý việc phê duyệt đầu tư, bố trí vốn đầu tư tập trung, tránh dàn trải, chống thất thoát, lãng phí; xác định rõ quyền và trách nhiệm của từng cấp trong việc quyết định đầu tư và phân bổ nguồn lực. Tại kỳ họp này, Chính phủ trình Quốc hội kế hoạch đầu tư từ ngân sách nhà nước giai đoạn 2013 - 2015 để các cấp, các ngành, các địa phương chủ động cân đối nguồn lực, xác định cụ thể lĩnh vực ưu tiên. Vốn trái phiếu Chính phủ sẽ thực hiện trên cơ sở Kế hoạch 2012 - 2015 được Quốc hội thông qua theo nguyên tắc: Tập trung vốn cho các dự án đã hoàn thành, đưa vào sử dụng; ưu tiên các dự án dự kiến hoàn thành trong năm kế hoạch; lồng ghép các nguồn hoặc chuyển đổi hình thức đầu tư các dự án không bố trí tiếp nguồn trái phiếu Chính phủ. Đồng thời, Chính phủ đã chỉ đạo tích cực chuẩn bị Luật Đầu tư công; xây dựng Nghị định về kế hoạch đầu tư trung hạn và sớm ban hành Đề án tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công.

Ngoài việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế chính sách, Chính phủ cũng đã tiến hành rà soát, xóa bỏ rào cản, nâng cao hiệu quả đầu tư, đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư phát triển, khuyến khích các hình thức đầu tư đối tác công - tư, đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài.

Về doanh nghiệp nhà nước: Chính phủ đã phê duyệt Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước[13]; trong đó đã đưa ra những định hướng, mục tiêu và giải pháp cho quá trình tái cơ cấu để doanh nghiệp nhà nước hoạt động ngày càng hiệu quả, phù hợp với cơ chế thị trường; thực hiện phân công, phân cấp các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước và vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp; đang phê duyệt Đề án tái cơ cấu của 20 tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước và xây dựng Nghị định về Điều lệ tổ chức và hoạt động của từng tập đoàn kinh tế, Điều lệ mẫu tổ chức và hoạt động của tổng công ty nhà nước. Những hạn chế, yếu kém của doanh nghiệp nhà nước, quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu nhà nước đã được nghiêm túc nhìn nhận, đánh giá trong Đề án tiếp tục sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước trình Hội nghị Trung ương 6 (khoá XI). Hiện Chính phủ đang tích cực chỉ đạo thực hiện Kết luận Hội nghị Trung ương 6 và Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước đã được phê duyệt.

3. Trong lĩnh vực công thương

Về thực hiện các giải pháp thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh, xử lý hàng tồn kho, phát triển thị trường trong và ngoài nước, tăng tổng cầu của nền kinh tế: Nghị quyết số 13/NQ-CP và các Nghị quyết phiên họp thường kỳ của Chính phủ đã đề ra nhiều giải pháp đồng bộ về: thuế, lãi suất, thủ tục hành chính, giải ngân đầu tư công, khuyến khích các lĩnh vực ưu tiên... để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường; đẩy mạnh chương trình xúc tiến thương mại quốc gia; triển khai mạnh mẽ cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”;            đổi mới hệ thống phân phối hàng hoá, dịch vụ; đưa hàng hóa về nông thôn; phát triển các hình thức tín dụng tiêu dùng; khuyến khích tiêu thụ vật liệu xây dựng thông qua việc đẩy nhanh tiến độ các công trình; hỗ trợ xi măng xây dựng đường giao thông nông thôn. Từ quý II năm 2012, sức mua thị trường đã có bước phục hồi, chỉ số tồn kho đã giảm dần[14]. Đối với thị trường ngoài nước, Chính phủ chỉ đạo chủ động giải quyết các rào cản thương mại, duy trì và phát triển thị trường truyền thống, mở rộng thị trường tiềm năng nên kim ngạch xuất khẩu đạt khá[15].

Tuy nhiên, hiện nay, sản xuất kinh doanh vẫn còn khó khăn, đặc biệt là sản xuất công nghiệp; năng lực sản xuất vẫn tăng chậm, công nghiệp chế biến giảm sút và chậm phục hồi; thị trường nội địa phát triển chậm; cơ cấu hàng hoá xuất khẩu còn chưa hợp lý, kiểm soát nhập khẩu còn nhiều hạn chế, nhất là việc chống nhập lậu hàng kém chất lượng, không bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm. Chính phủ tiếp tục chỉ đạo quyết liệt các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh; khẩn trương thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại; nâng cao hiệu quả hệ thống phân phối; chú trọng công tác thông tin thị trường; tiếp tục tháo gỡ về tín dụng cho xuất khẩu; xem xét điều chỉnh linh hoạt chính sách thuế và thủ tục xuất nhập khẩu.

Về lộ trình thực hiện thị trường cạnh tranh, chống độc quyền, nhất là đối với các sản phẩm điện, xăng dầu, than, vật tư nông nghiệp:

Đối với điện: Trong lĩnh vực phát điện, đã có sự tham gia của nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Trong lĩnh vực phân phối, hiện nay các đơn vị thuộc EVN bán lẻ cho hơn 80% số hộ sử dụng, còn lại do các công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã đảm nhiệm. Theo Luật Điện lực, riêng lĩnh vực truyền tải điện nhà nước vẫn độc quyền. Theo lộ trình, thị trường phát điện cạnh tranh đã chính thức hoạt động từ 01 tháng 7 năm 2012; đến  năm 2015 sẽ thực hiện thị trường bán buôn cạnh tranh; đến năm 2022 sẽ thực hiện thị trường bán lẻ cạnh tranh. Hiện nay, Chính phủ đang tích cực chỉ đạo để đẩy nhanh hơn tiến độ thực hiện thị trường bán lẻ cạnh tranh.

Đối với xăng dầu: Nghị định số 84/2009/NĐ-CP của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu đã quy định doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong nước nếu đủ điều kiện về vốn, kho bãi, hệ thống phân phối thì đều có thể đăng ký trở thành doanh nghiệp đầu mối về xăng dầu. Hiện nay, trên thị trường đã có 13 doanh nghiệp đầu mối kinh doanh xuất nhập khẩu xăng dầu, trong đó có cả doanh nghiệp nhà nước và các thành phần kinh tế khác. Nhưng trên thực tế, thị phần của Tổng công ty xăng dầu Việt Nam vẫn chiếm tỷ lệ cao so với các doanh nghiệp đầu mối khác.

Đối với than: Việc quản lý và khai thác than phần lớn được giao cho Tập đoàn công nghiệp Than Khoáng sản Việt Nam. Thực hiện Chiến lược phát triển ngành than, giá than bán cho nhu cầu tiêu thụ (trừ bán cho sản xuất điện) hiện nay đã thực hiện theo cơ chế thị trường.

Đối với vật tư nông nghiệp: Hiện nay trên thị trường, các doanh nghiệp tự do cạnh tranh sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực này theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, các cơ quan chức năng cần phải quản lý và kiểm soát tốt hơn chất lượng, giá cả và việc nhập khẩu giống, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, thức ăn chăn nuôi...

Về việc rà soát quy hoạch điện và quy hoạch phát triển thủy điện; kiểm tra, xử lý bảo đảm an toàn các công trình thủy điện; bổ sung các chính sách hỗ trợ cho nhân dân vùng tái định cư các công trình thủy điện: Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch điện 7 và trong quá trình thực hiện có điều chỉnh, bổ sung phù hợp với yêu cầu thực tiễn; hiện đang tiếp tục hoàn thiện 3 quy hoạch phát triển điện lực vùng (Đồng bằng sông Cửu Long, Bắc Bộ, Tây Nguyên và phụ cận), tiếp tục chỉ đạo hoàn thành quy hoạch phát triển điện lực các tỉnh[16].

Về phát triển thuỷ điện, hiện đang nổi lên một số vấn đề bức xúc như: việc bảo đảm an toàn hồ đập, công tác tái định cư, bảo vệ môi trường, sự kết hợp giữa sản xuất điện với các mục tiêu khác... Để giải quyết các vấn đề này, Chính phủ đã và đang chỉ đạo thực hiện các giải pháp: tiếp tục kiểm định an toàn đập hồ chứa thuỷ điện định kỳ; rà soát, điều chỉnh Quy hoạch bậc thang thủy điện các dòng sông[17], Quy hoạch phát triển thuỷ điện nhỏ, kiên quyết loại bỏ những dự án không hiệu quả, tác động xấu đến môi trường, chiếm nhiều diện tích đất rừng, đất sản xuất nông nghiệp, ảnh hưởng lớn đến đời sống nhân dân và cấp nước vùng hạ du; tổ chức đánh giá lại thiết kế các công trình thủy điện, xây dựng và thực hiện quy trình vận hành; kiểm tra các dự án thủy điện đang thi công, kiên quyết xử lý trách nhiệm của chủ đầu tư, nhà thầu không thực hiện đúng quy định về giám sát, quản lý chất lượng, tiêu chuẩn, quy chuẩn xây dựng công trình; kiểm tra, đánh giá, xử lý vi phạm trong công tác bảo vệ môi trường, trồng lại rừng thay thế tại các dự án thủy điện.

Để ổn định đời sống nhân dân tại khu vực chịu ảnh hưởng của các dự án thuỷ điện, Chính phủ đã có cơ chế riêng, trong đó giao Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là chủ đầu tư hợp phần di dân tái định cư. Đối với từng dự án cụ thể, Chính phủ có chính sách riêng để bảo đảm cho người dân tái định cư có cuộc sống ổn định, tốt hơn nơi ở cũ.

4. Lĩnh vực bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội; phòng, chống tội phạm

Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng, bổ sung và hoàn thiện nhiều văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống tội phạm; ban hành và triển khai thực hiện 3 chương trình mục tiêu quốc gia về phòng chống tội phạm, phòng chống ma tuý, phòng chống mua bán người, Chiến lược quốc gia phòng, chống và kiểm soát ma tuý đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện Chỉ thị số 09-CT/TW ngày 01 tháng 12 năm 2011 của Ban Bí thư về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới”; đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật, biểu dương, động viên gương người tốt, việc tốt trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Đã chỉ đạo quyết liệt công tác phòng, chống tội phạm, mở nhiều đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm, tập trung điều tra, xử lý các vụ án nghiêm trọng trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính, các vụ án tham nhũng, buôn bán ma túy, xâm phạm an ninh quốc gia, chống người thi hành công vụ, tội phạm công nghệ cao. Đã triệt phá nhiều băng nhóm tội phạm và các tụ điểm tệ nạn xã hội; kết thúc điều tra nhiều vụ án lớn kéo dài, truy bắt các đối tượng truy nã. Đã triển khai một số mô hình kết hợp giữa các lực lượng tuần tra, kiểm soát, phòng chống tội phạm đạt hiệu quả cao. Chú trọng giải quyết các vấn đề xã hội là nguyên nhân nảy sinh tội phạm; xây dựng lực lượng công an nhân dân trong sạch, vững mạnh, bảo đảm điều kiện vật chất, trang thiết bị và chế độ, chính sách, xử lý nghiêm vi phạm trong toàn lực lượng.

Tuy vậy, tình hình trật tự an toàn xã hội còn diễn biến phức tạp, nhiều loại tội phạm vẫn đe doạ cuộc sống bình yên của nhân dân, xâm hại tài sản nhà nước; hệ thống thể chế còn nhiều bất cập, vướng mắc; sự quan tâm và phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị còn hạn chế; công tác thông tin, tuyên truyền nâng cao ý thức cảnh giác, đấu tranh phòng, chống tội phạm chưa tốt; lực lượng công an có lúc, có nơi chưa làm tốt vai trò tham mưu, chưa chú trọng các biện pháp phòng ngừa và đấu tranh với tội phạm. Chính phủ sẽ tiếp tục tập trung chỉ đạo thực hiện có hiệu quả 3 chương trình mục tiêu quốc gia về phòng chống tội phạm, phòng chống ma tuý, phòng chống mua bán người; đẩy mạnh phong trào toàn dân phòng, chống tội phạm, tạo chuyển biến tích cực trong việc phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi các loại tội phạm, tệ nạn, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Kính thưa Quốc hội,

Trên đây là báo cáo tổng hợp của Chính phủ về tình hình thực hiện Nghị quyết về chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 2 và thứ 3, Quốc hội khoá XIII. Thời gian qua, Chính phủ đã quyết liệt chỉ đạo tổ chức thực hiện, có những việc đã đạt được kết quả bước đầu và cũng có nhiều việc còn tồn tại, hạn chế chậm được khắc phục, cần tiếp tục tập trung giải quyết trong thời gian tới. Chính phủ trân trọng tiếp thu ý kiến của Quốc hội, đại biểu Quốc hội và cử tri cả nước, đồng thời rất mong nhận được sự ủng hộ, phối hợp giám sát của Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân và đồng chí, đồng bào.

Xin trân trọng cảm ơn Quốc hội, đồng chí, đồng bào.        

Nguồn: Chinhphu.vn



[1] Chính phủ có Báo cáo số 290/BC-CP ngày 19 tháng 10 năm 2012 về công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông thực hiện Nghị quyết số 21/2011/QH13 trình Quốc hội.

[2] 10 tháng đầu năm 2012, giảm 9.999 số vụ tai nạn giao thông, giảm 1.551 số người chết, giảm 10.730 số người bị thương so với cùng kỳ 2011.

[3] Thực hiện Quyết định số 2194/QĐ-TTg ngày 25 tháng 12 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ, đến nay đã triển khai thực hiện 89 đề tài nghiên cứu với tổng kinh phí gần 140 tỷ đồng; đã chọn tạo và công nhận được 104 giống cây trồng, xây dựng 6 Trung tâm giống thủy sản quốc gia và nhiều Trung tâm giống của vùng và địa phương.

[4] Quốc hội đã thông qua kế hoạch sử dụng đất đến năm 2015 với 3.951 nghìn ha đất lúa, trong đó               3.258 nghìn ha đất chuyên trồng lúa nước.

[5] Số liệu theo Báo cáo số 91/BC-BTC ngày 10 tháng 10 năm 2012 của Bộ Tài chính.

[6] Giai đoạn 2011 - 2015 dự kiến  bổ sung khoảng 3.000 biên chế kiểm lâm.

[7] Quyết định số 268/QĐ-TTg ngày 23 tháng 02 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về biểu giá bán lẻ điện quy định các hộ nghèo được ngân sách hỗ trợ giá điện 30.000đ/hộ/tháng

[8] Chính phủ có Báo cáo số 305/BC-CP ngày 30 tháng 10 năm 2012 về tình hình nợ công trình Quốc hội.

[9] Chính phủ đã chấp thuận phương án cơ cấu lại của 5/9 ngân hàng yếu kém (hợp nhất 3 Ngân hàng               Sài Gòn, Đệ Nhất, Việt Nam Tín Nghĩa thành NH Sài Gòn; sáp nhập NH Nhà Hà Nội vào NH Sài Gòn - Hà Nội); tự củng cố, chấn chỉnh NH Tiên Phong; tích cực hoàn thiện phương án cơ cấu lại 3 ngân hàng còn lại.

[10] Việc thực hiện giãn nợ, hạ lãi suất khoản vay cũ, cho vay mới với lãi suất thấp để nuôi và chế biến cá tra xuất khẩu còn quá chậm, ảnh hưởng đến sản xuất, gây bức xúc cho nông dân.

[11] Đã kiểm tra, phát hiện 5.828 tổ chức vi phạm với diện tích 73.992,96 ha, đã xử lý 3.670 tổ chức với diện tích 14.323,20 ha (đạt 19,33%), trong đó đã thu hồi 12.550,4 ha của 792 tổ chức.

[12] Chính phủ đã có Báo cáo số 304/BC-CP ngày 26 tháng 10 năm 2012 về việc thực hiện chính sách, pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đối với các quyết định hành chính về đất đai.

[13] Quyết định số 929/QĐ-TTg ngày 17 tháng 7 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ

[14] Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 10 tháng tăng 17,1%; chỉ số tồn kho khu vực công nghiệp chế tạo, chế biến thời điểm 01/3/2012 là 34,9%, đến 01/10/2012 còn 20,4%; nhóm hàng tồn kho cao là: bất động sản, sắt thép và một số chủng loại phân bón.

[15] Kim ngạch xuất khẩu 10 tháng đầu năm 2012 đạt 93,8 tỷ USD, tăng 18,9% so với cùng kỳ.

[16] 59/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã được Bộ Công Thương phê duyệt quy hoạch điện lực tỉnh giai đoạn 2011 - 2015, có xét đến 2020.

[17] Đến nay đã phê duyệt quy hoạch bậc thang thuỷ điện 10 dòng sông lớn.

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất