Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bản lĩnh chính trị là sự thể hiện “tính Đảng” của mỗi cán bộ, đảng viên trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm; là tinh thần và ý chí “phải quyết tâm suốt đời phục vụ Đảng, phục vụ Nhân dân. Đó là phẩm chất cao quý của người cách mạng, đó là đạo đức cách mạng, đó là tính Đảng, tính giai cấp, nó đảm bảo cho sự thắng lợi của Đảng, của giai cấp, của Nhân dân”.
Đề cao bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ phải không phải là vấn đề mới nhưng trong tình hình hiện nay đó là một yêu cầu cấp thiết và là một tiêu chuẩn đạo đức cần thiết của cán bộ.
Đảng ta xác định, bản lĩnh chính trị luôn là vấn đề được đặt lên hàng đầu, là yếu tố cơ bản, căn cốt để bồi đắp, giữ vững và lan tỏa phẩm chất cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nhờ có bản lĩnh chính trị, cán bộ, đảng viên mới kiên định được lập trường, giữ vững ý chí, khát vọng, khả năng vượt qua mọi khó khăn, thử thách để phấn đấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó.
Ngay từ Đại hội VIII, Đảng yêu cầu cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân, bên cạnh việc đáp ứng tiêu chuẩn chung còn phải: “Có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Có năng lực dự báo và định hướng sự phát triển, tổng kết thực tiễn, tham gia xây dựng đường lối, chính sách, pháp luật; thuyết phục và tổ chức nhân dân thực hiện. Có ý thức và khả năng đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước”.
Đảng ta cũng sớm nhận định, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên có nguyên nhân do bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài, sa vào chủ nghĩa cá nhân, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nhận định: “Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”.
Trong những nhiệm kỳ gần đây, thực tế đã cho thấy một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên ngay cả những cán bộ cấp cao của Đảng do thiếu rèn luyện, không đủ bản lĩnh chính trị để vượt qua những cám dỗ vật chất đã suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn vun vén lợi ích cá nhân, sa vào “lợi ích nhóm”, làm giàu bất chính. Điều đó làm suy giảm sức mạnh của tổ chức, làm tổn hại đến thanh danh, uy tín của Đảng.
Bên cạnh đó, bối cảnh tình hình thực tiễn của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, cũng như tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đã đặt ra những yêu cầu và đòi hỏi mới trong việc tu dưỡng, rèn luyện bản lĩnh chính trị của người cán bộ, đảng viên.
Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII nhận định: “Trong những năm tới, tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải đoàn kết một lòng; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy; có quyết tâm chính trị cao; dự báo chính xác, kịp thời diễn biến của tình hình…”.
Vậy nên, chuẩn mực đạo đức về bản lĩnh chính trị là yêu cầu bao trùm đối với cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay. Khái niệm bản lĩnh chính trị trong giai đoạn mới được mở rộng hơn. Việc rèn luyện bản lĩnh chính trị sẽ không chỉ dừng lại ở việc thấm nhuần sâu sắc mục tiêu, lý tưởng cách mạng; kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng và các nguyên tắc xây dựng Đảng; suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng cách mạng của Đảng; nêu cao tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với sự nghiệp cách mạng của Đảng; hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân; mà đảng viên "bản lĩnh" cũng phải là những người có "tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, ý chí vươn lên, cống hiến". Họ phải có tinh thần cởi mở, ham học hỏi, có đủ năng lực để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao phó và có đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế khi đất nước đang hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Bên cạnh sự kiên định về quan điểm, tư tưởng chính trị, mỗi cán bộ, đảng viên cũng cần phải có bản lĩnh vững vàng trước những diễn biến phức tạp, thay đổi khó lường, đan xen thuận lợi, thời cơ, thách thức trong giai đoạn hiện nay.
Bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên còn phải thể hiện tinh thần chủ động đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, lợi ích nhóm, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ và đấu tranh vạch trần, phản bác những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phản động đang ra sức chống phá Đảng, Nhà nước.
Về cách dùng cán bộ, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh phải có bản lĩnh "Khiến cho cán bộ cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến"; "Khiến cho cán bộ có gan phụ trách, có gan làm việc"; "Phải có gan cất nhắc cán bộ". Người chỉ rõ "Nếu đào tạo một mớ cán bộ nhát gan, dễ bảo "đập đi, hò đứng", không dám phụ trách. Như thế là một việc thất bại cho Đảng".
Với quan điểm về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, được triển khai qua Nghị quyết số 26-NQ/TW (khoá XII), quan điểm của Đảng được chỉ rõ: “Chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với xây dựng thể chế, tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, phát huy sáng tạo và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung”.
Chính vì vậy, trong Văn kiện Đại hội XIII, lần đầu tiên Đảng ta đề cập đến vấn đề đổi mới sáng tạo, dám nghĩ dám làm của cán bộ: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, năng lực nổi bật, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự tiên phong, gương mẫu, là hạt nhân đoàn kết”. Cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Bộ Chính trị cũng ban hành Kết luận số 14-KL/TW ngày 22-9-2021 “Về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung”. Theo đó, tinh thần “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm” là phẩm chất đặc biệt, được Đại hội XIII của Đảng khẳng định trong chuẩn mực đạo đức của người cán bộ, đảng viên hiện nay.
|
Thực tiễn đã chỉ rõ, trước những khó khăn, thách thức, người cán bộ “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm” chính là người có quyết tâm, có tầm nhìn, có suy nghĩ táo bạo, dám đưa ra quyết định đột phá, để không chỉ hoàn thành nhiệm vụ được giao mà hơn thế còn mang lại lợi ích to lớn cho dân tộc, cho Nhân dân ta.
Họ là người trung thực, thẳng thắn, khách quan, công tâm, tích cực đấu tranh tự phê bình và phê bình, không giấu khuyết điểm, không nói sai sự thật, mạnh dạn đưa ra quyết định trên cơ sở đã nắm chắc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của cơ quan, đơn vị, địa phương; mạnh dạn bỏ cách nghĩ, cách làm đã cũ, không còn phù hợp; dám đương đầu trực diện với khó khăn, thử thách; có lúc phải chấp nhận rủi ro trong công việc, đứng mũi chịu sào, không tranh công, đổ lỗi, dám nhận trách nhiệm về mình và chịu trách nhiệm đến cùng với công việc…
Tuy nhiên, khi công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng diễn ra quyết liệt, “không vùng cấm, không ngoại lệ” đã làm phát sinh căn bệnh “sợ trách nhiệm”, nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng mà không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, không dám đương đầu với khó khăn, thử thách của một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Trong một cuộc khảo sát của Ban Tuyên giáo Trung ương được thực hiện vào tháng 4-2023, có trên 54% cán bộ, đảng viên được hỏi cho rằng một trong những biểu hiện suy thoái đạo đức cách mạng trong cán bộ, đảng viên đang diễn ra đáng lo ngại, khiến họ rất lo lắng, bức xúc, đó chính là “Sợ trách nhiệm, không dám làm, không dám đổi mới”.
Nhiều lần, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhắc nhở: “Phải chấn chỉnh, đấu tranh loại bỏ tư tưởng bàn lùi, lo ngại rằng nếu đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực quá mạnh sẽ cản trở sự phát triển, làm nhụt chí, làm “cầm chừng”, “phòng thủ”, “che chắn”, giữ an toàn, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm trong một bộ phận cán bộ, công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”.
Thực tế hiện nay cho thấy, sợ trách nhiệm, không dám làm, không dám đổi mới đang là một “căn bệnh cấp tính” diễn ra ở các cấp, ngành. Căn bệnh này đã trói buộc tư duy đột phá, tầm nhìn đổi mới, sáng tạo, cống hiến vì địa phương, đơn vị, trở thành “vật cản” khiến nhiều cán bộ, đảng viên ngại đổi mới, ngại đưa ra quyết định để xây dựng, phát triển quê hương, đơn vị mình. Tâm lý đó còn lấn át cả những tố chất vốn có của người cán bộ như sự tự tin, quyết đoán, muốn khám phá, thể hiện bản thân.
|
Trong bối cảnh hiện nay, khơi dậy, khuyến khích cán bộ, đảng viên phát huy tinh thần đổi mới, sáng tạo, đặc biệt là tinh thần “7 dám”: “Dám nghĩ; dám nói; dám làm; dám chịu trách nhiệm; dám đổi mới, sáng tạo; dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung” đã được Đảng, Nhà nước ta xác định là nhân tố quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, khắc phục tình trạng trì trệ, lúng túng trong triển khai thực thi nhiệm vụ, thúc đẩy đất nước phát triển nhanh và bền vững, góp phần nâng cao uy tín của Đảng, Nhà nước; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Mỗi cán bộ, đảng viên năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hy sinh vì lợi ích chung, khi được tập hợp, đoàn kết lại trong một tập thể thống nhất chắc chắn sẽ tạo ra sức mạnh to lớn, biến thách thức thành cơ hội, biến tiềm năng thành lợi thế cạnh tranh, tạo ra đột phá quan trọng trong tiến trình phát triển của đất nước.
|
Từ “Lời kêu gọi thi đua ái quốc” như “lời hịch” của Chủ tịch Hồ Chí Minh để phát động một phong trào quần chúng rộng lớn, nhằm “kháng chiến và kiến quốc thành công”, đem lại độc lập tự do cho dân tộc, đến Đại hội XIII, lần đầu tiên Đảng ta đề cập đến chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Điều này thể hiện sự phát triển về tư duy lý luận của Đảng khi cụm từ "khát vọng" được xuất hiện từ trong chủ đề của Đại hội; quan điểm chỉ đạo tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng; mục tiêu tổng quát, nhiệm vụ trọng tâm, đột phá chiến lược trong nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng; quan điểm phát triển, mục tiêu chiến lược, đột phá chiến lược giai đoạn 2021 - 2030…
Để xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng và hạnh phúc, Đảng đã khơi dậy giấc mơ lớn “khát vọng phát triển đất nước sánh vai với các cường quốc năm châu theo như đúng di nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, với mục tiêu hướng tới “Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”.
|
Khát vọng phát triển đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc được hình thành hoàn toàn có cơ sở khi “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.” Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Tuy nhiên, để hiện thực hoá giấc mơ đó, đòi hỏi những yêu cầu cao hơn đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên từ năng lực, trình độ đến hoài bão, lý tưởng, ý chí phấn đấu, tinh thần dám xông pha, dám đổi mới, sáng tạo, dám chịu trách nhiệm, hết lòng, hết sức phục vụ Nhân dân, nỗ lực hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó. Đó chính là phẩm chất với những tiêu chí riêng đặc biệt của thời kỳ mới đặt ra đối với đội ngũ cán bộ đảng viên trong tiến trình quyết tâm thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo, góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc.
Đặc biệt, Đại hội XIII của Đảng cũng đề ra chủ trương: "chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả”. Trong bối cảnh mới của tình hình thế giới và trong nước, việc tích cực, chủ động triển khai chủ trương hội nhập quốc tế theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng sẽ góp phần hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Đây cũng là một trong những phẩm chất cần có đối với đội ngũ, cán bộ đảng viên.
Theo đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải chủ động nâng cao kiến thức, kỹ năng, năng lực công tác, để đáp ứng được khả năng làm việc trong môi trường quốc tế; tích cực tham gia quá trình hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng theo đường lối đối ngoại của Đảng phù hợp luật pháp quốc tế, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng cộng đồng vì hòa bình, ổn định, tiến bộ và phát triển.
Nói về lòng tự trọng, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nhắn nhủ: “Đời người chỉ sống có một lần, phải sống sao cho có ý nghĩa, để không phải xót xa, ân hận vì những việc làm ti tiện, đớn hèn, vô liêm sỉ; tiền bạc lắm làm gì, chết có mang theo được đâu. Danh dự mới là điều thiêng liêng, cao quý nhất!”.
Lòng tự trọng là luôn coi trọng, giữ gìn phẩm chất, tư cách, danh dự của bản thân mình. Lòng tự trọng của con người được hình thành từ sự tự giác, rèn luyện của bản thân trong quá trình sinh sống, học tập, lao động và công tác, thể hiện ý chí, trách nhiệm của mỗi người đối với chính bản thân mình.
Lòng tự trọng và danh dự chính là căn nguyên, cốt lõi giúp con người rèn luyện mình vươn tới cái đúng, cái tốt đẹp, cộng đồng những người có lòng tự trọng sẽ tạo thành sức mạnh nội sinh của một khối dân tộc thống nhất.
Ngay từ trước khi Đảng ta được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” là yêu cầu nhất thiết phải có của người cách mạng mà ở đó chữ "Liêm" chính là đại diện cho tự trọng và danh dự. Theo đó, chỉ có gương mẫu, trong sạch thì nhân dân mới tin yêu và làm theo cán bộ, đảng viên. Bởi vậy, đối với người cộng sản, lòng tự trọng và danh dự chính là kim chỉ nam để cán bộ dám đảm nhận nghĩa vụ, trọng trách, làm tròn sứ mệnh “đầy tớ”, công bộc của nhân dân theo đúng nghĩa.
Trong giai đoạn hiện nay, nhắc đến lòng tự trọng, danh dự là nhắc đến việc luôn tự phê bình và phê bình, không cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực, không để bị tác động lôi kéo, cám dỗ; không để gia đình, người thân và người khác lợi dụng chức vụ, vị trí công tác để trục lợi… Điều này có nghĩa là lúc nào người cán bộ, đảng viên cũng phải tự soi xét mình, khi sai cũng cần mạnh dạn nhận lỗi sửa sai.
Như trước đây, Đảng và Chính phủ đã mạnh dạn thừa nhận những sai lầm trong cải cách ruộng đất. Đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng, Nhà nước nhận lỗi trước Nhân dân tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa I (29-12-1956 - 25-1-1957). Người bật khóc và tự phê bình một cách nghiêm túc: “Vì ta thiếu dân chủ nên nghe ít, thấy ít, nên bây giờ ta phải dân chủ. Tôi nhận trách nhiệm trong lúc sóng gió này. Tất cả Trung ương phải nghe, thấy, nghĩ và làm như thế. Bài học đau xót này sẽ thúc đẩy chúng ta”.
Ngoài ra, một trong những biểu hiện cụ thể của danh dự và lòng tự trọng chính là thực hiện văn hóa từ chức khi không đủ năng lực, uy tín. Trong lịch sử xây dựng Đảng, câu chuyện về từ chức không phải là hiếm. Có thời điểm người đứng đầu Đảng đã xin từ chức như trường hợp Tổng Bí thư Trường Chinh; đồng chí Hoàng Quốc Việt xin thôi Ủy viên Bộ Chính trị, đồng chí Hồ Viết Thắng xin ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng…
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, mặc dù khái niệm “từ chức” được đề cập khá nhiều trên nghị trường Quốc hội, trên các phương tiện thông tin đại chúng và mới được bổ sung, đề cập trong một số văn bản của Đảng và Nhà nước, tuy nhiên, mỗi khi có cán bộ từ chức, dư luận lại lập tức xôn xao, bàn tán. Điều này chứng tỏ phần nào việc chúng ta chưa thể coi việc cán bộ từ chức là điều hết sức bình thường trong công tác cán bộ.
Trong điều kiện Đảng ta đang đặt ra yêu cầu đẩy mạnh công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, văn hóa từ chức có ý nghĩa quan trọng, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Hành vi từ chức xuất phát từ chính đạo đức liêm chính, tự trọng, trọng danh dự, liêm sỉ của chính cán bộ. Chính vì vậy, cần phải biến văn hóa từ chức trở thành nét đẹp chính trị, là lương tri, trách nhiệm của người lãnh đạo, quản lý.
Có thể nói, một xã hội văn minh, tiến bộ và phát triển thì việc cán bộ từ chức khi tài, đức không xứng với vị trí, chức vụ, hạn chế về năng lực, không đủ uy tín để hoàn thành chức trách được giao là một xu hướng tất yếu nhằm sáng lọc cán bộ, tạo điều kiện để sử dụng được người tài, bố trí đúng người, đúng việc. Đó cũng chính là đạo đức, lòng tự trọng và danh dự của người cán bộ, đảng viên.
Để văn hóa từ chức của cán bộ phổ biến trong hệ thống chính trị ở Việt Nam cần phải gắn văn hóa từ chức với trách nhiệm, đạo đức của cán bộ. Điều này thể hiện sự coi trọng, đặt lợi ích của tổ chức, của nhân dân, của đất nước lên trên hết, trước hết.
TS. Đoàn Văn Báu, Vụ trưởng Vụ Lý luận chính trị, Ban Tuyên giáo Trung ương cho biết: “Đề cao tự trọng là trước hết phải tự trọng với chính mình. Tự trọng phải làm sao tốt nhất với bổn phận và trách nhiệm mà bản thân mình đang giữ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo, cầm quyền thì trong quá trình lãnh đạo, cầm quyền phải dẫn dắt, nêu gương. Và việc thực hành nêu gương là từ chính cán bộ, đảng viên. Do đó, mỗi một cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần đạo đức cách mạng thì mới làm tròn bổn phận của mình. Bản thân mọi danh dự, uy tín đều được nhân dân đánh giá dưới góc độ phải hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ với lời thề của cán bộ, đảng viên”. |
|
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng nếu không bao gồm những đảng viên đi tiên phong, gương mẫu trong đạo đức và hành động cách mạng thì Đảng cũng chỉ còn là một tổ chức lạc hậu, nói suông và lừa phỉnh. Nói một cách giản dị dễ hiểu là “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải gương mẫu tiên phong về lý luận và hành động thực tiễn.
Tính tiền phong, gương mẫu của người cán bộ, đảng viên phải được thể hiện mọi lúc, mọi nơi, trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Những phẩm chất đó không thể tự nhiên mà có, mà phải do chính người cán bộ, đảng viên tự ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình, thông qua quá trình phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện không ngừng. Cán bộ, đảng viên là người dẫn dắt quần chúng nhân dân, nhưng muốn quần chúng nhân dân làm theo thì bản thân phải là tấm gương, phải cố gắng làm kiểu mẫu cho quần chúng nhân dân trong mọi việc.
Nội dung nêu gương của cán bộ, đảng viên không chỉ dừng lại ở việc tự giác học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng mà còn phải tích cực vận động, thuyết phục gia đình, người thân chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Đối với người cán bộ, đảng viên, tính tiền phong, gương mẫu là một yêu cầu khách quan, là thuộc tính cơ bản, xuất phát từ ý thức, trách nhiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức”. Bởi vậy, thực tế đã chứng minh, sự thành công của Đảng và lòng tin của Nhân dân vào Đảng phụ thuộc chủ yếu vào hai yếu tố: khả năng tạo lập chủ trương, đường lối và mức độ tiền phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói với cán bộ: “Nếu chúng ta làm gương mẫu và biết lãnh đạo thì bất cứ công việc gì khó khăn đến đâu cũng nhất định làm được”.
|
Trong điều kiện cách mạng hiện nay, tính tiền phong, gương mẫu của người cán bộ, đảng viên thể hiện ở những điều cơ bản sau: trước hết là sự tiền phong, gương mẫu trong thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; dũng cảm kiên quyết, đấu tranh loại bỏ với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa", những biểu hiện tha hóa quyền lực chính trị. Đó là sự nêu gương về đạo đức, lối sống “nói đi đôi với làm”. Người cán bộ, đảng viên phải có trách nhiệm nêu gương từ việc lớn đến việc nhỏ, trong cả lĩnh vực công tác và sinh hoạt đời thường.
Tinh thần nêu gương còn phải gắn với kỷ luật, kỷ cương. Vấn đề “nêu cao ý thức tổ chức kỷ luật, kỷ cương” không phải là vấn đề mới. Ngay trong Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1930) đã quy định: “Bất cứ về vấn đề nào đảng viên đều phải hết sức thảo luận và phát biểu ý kiến, khi đa số đã nghị quyết thì tất cả đảng viên phải phục tùng mà thi hành”. Sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập, ngày 26-1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Quốc lệnh quy định về 10 điểm thưởng, 10 điểm phạt. Quốc lệnh khẳng định, giữ vững kỷ cương, kỷ luật là vấn đề trọng đại, liên quan đến vận mệnh quốc gia, dân tộc.
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, vấn đề này được đặt lên một tầm cao mới hơn với việc gắn chặt với kỷ luật phát ngôn, tức nói đi đôi với làm, cũng như tôn trọng, phục tùng sự phân công của Đảng, của tổ chức. Thời gian qua, việc giữ vững kỷ luật, kỷ cương trong công tác lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện pháp luật và thực thi công vụ đã giúp đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện đúng và tốt hơn chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
|
Đồng chí Nguyễn Trung Hiếu, Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Tuyên giáo Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương khẳng định: Quy định 144-QĐ/TW với 19 nội dung rất ngắn gọn, súc tích, cô đọng và được thể hiện trong 5 điều là “thước đo” để mỗi cán bộ, đảng viên tự soi mình mỗi ngày.
Quy định còn thể hiện sự nâng cao của tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, đặc biệt là vai trò tiền phong, gương mẫu của người đứng đầu. Người đứng đầu phải gắn lời nói với việc làm cụ thể, không thoái thác trách nhiệm, không nhận phần hơn, phần dễ về mình mà nhường việc khó, phần thiệt cho người khác, không lợi dụng quyền của mình để mưu cầu lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm.
Đây còn là công cụ hữu hiệu để ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, sự xói mòn về phẩm chất đạo đức, tệ tham ô, tham nhũng, lãng phí, xa rời quần chúng, làm mất niềm tin của nhân dân của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức, có quyền.
Đặc biệt, Quy định 144-QĐ/TW còn là tiêu chuẩn, thước đo, góp phần nâng cao hiệu quả công tác nhận xét, đánh giá, xếp loại cán bộ, đảng viên nói chung và trong Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương nói riêng; là cơ sở để cấp ủy đảng các cấp xem xét, đánh giá, lựa chọn cán bộ, đảng viên đưa vào quy hoạch, giới thiệu bầu cấp ủy khóa mới; là tiền đề quan trọng trong việc chuẩn bị nhân sự cho đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội XIV của Đảng.
|
TS. Nguyễn Trung Dũng - NCS. Cao Thị Phương