|
Các hủ tục đã và đang tạo ra sức ép lớn đến việc thực hiện bình đẳng giới đối với phụ nữ . Ảnh: TTXVN
|
Những mối nguy hại
Hiện nay, nhiều phụ nữ và trẻ em gái DTTS đang phải đối mặt với nhiều quan niệm, hủ tục lạc hậu ảnh hưởng đến việc thụ hưởng quyền con người như tục “kéo vợ” hay “kéo dâu” của đồng bào DTTS ở phía Bắc bị biến tướng sang hình thức “cướp vợ”, “bắt vợ”. Bên cạnh đó, tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết vẫn diễn biến phức tạp.
Theo số liệu điều tra thực trạng kinh tế - xã hội 53 DTTS năm 2019 của Tổng cục Thống kê, Tây Nguyên có tỷ lệ tảo hôn cao nhất. Năm 2018, con số này là 27,5%; tiếp theo là Trung du và miền núi phía Bắc là 24,6% và Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung là 22,4%. Tỷ lệ người DTTS kết hôn cận huyết thống năm 2018 là 5,6%.
Tục thách cưới của một số dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên diễn ra phổ biến, vật thách cưới này thường là trâu, bò, chum ché, vàng, tiền, thường cao so với điều kiện kinh tế thực tại của gia đình nhà gái. Những hủ tục lạc hậu trên đã tác động tiêu cực đến phụ nữ và trẻ em.
Thứ nhất, ảnh hưởng đến sức khỏe, tâm lý người phụ nữ khi cơ thể người mẹ chưa phát triển hoàn thiện, chưa sẵn sàng về mặt tâm sinh lý để mang thai và sinh con, điều này dễ xảy ra tình trạng người mẹ tử vong sau khi sinh hoặc rối loạn tâm lý hậu sinh. Đây còn là nguyên nhân làm gia tăng tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em DTTS, tăng tỷ lệ tử vong ở trẻ em DTTS dưới 1 tuổi và dưới 5 tuổi, tăng tỷ lệ tử vong của bà mẹ DTTS liên quan đến thai sản. Theo kết quả Điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế - xã hội của 53 DTTS năm 2019, tỷ suất tử vong của trẻ em dưới 1 tuổi (IMR) của 53 DTTS năm 2019 là 22,13%. Các DTTS nói chung đều sinh sớm hơn so với mô hình chung của cả nước, trong đó phần lớn phụ nữ DTTS sinh con ở độ tuổi 20-24.
Thứ hai, phụ nữ DTTS kết hôn sớm thường ít có cơ hội tiếp cận với vấn đề đào tạo nghề. Theo Tổng cục Thống kê năm 2019, tỷ lệ nữ DTTS đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật chỉ là 8,9%, thấp hơn nam giới DTTS và phụ nữ dân tộc Kinh; không có nền tảng kinh tế vững chắc, không đủ các điều kiện tốt nhất để chăm lo cho con của họ gây khó khăn trong thực hiện an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, tạo ra lực cản đối với sự phát triển kinh tế, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội và sự phát triển bền vững của vùng đồng bào DTTS.
Thứ ba, phụ nữ và trẻ em gái kết hôn sớm, thường bỏ dở việc học hành, hạn chế việc tiếp thu những tri thức tiên tiến, hiện đại, ảnh hưởng đến việc phát triển nhân cách, tài năng; phải lao động từ sớm để trang trải cho cuộc sống gia đình, gây khó khăn trong bảo đảm các quyền của trẻ em; là đối tượng dễ bị kẻ xấu lợi dụng, dụ dỗ lừa lao động, hoặc là nạn nhân của tội phạm buôn bán người. Theo Cục trưởng Cục Phòng, chống tệ nạn xã hội (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) từ năm 2013-2019, Việt Nam có 3.476 người là nạn nhân của các vụ mua bán người, trong đó chủ yếu là phụ nữ và trẻ em (trên 90%), đa số là người DTTS.
Các hủ tục trên gây ra sức ép lớn đến việc thực hiện bình đẳng giới đối với phụ nữ.
Nỗ lực đẩy lùi phong tục tập quán lạc hậu
Trên tinh thần các văn bản của Đảng, Nhà nước và Quốc hội, hàng loạt giải pháp xây dựng và phát triển văn hóa, nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân đã ra đời, đặc biệt Nghị quyết số 88/2019/QH14, ngày 18-11-2019 của Quốc hội phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, giai đoạn 2021-2030 với mục tiêu tổng quát hướng đến “…giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các DTTS đi đôi với xóa bỏ phong tục tập quán lạc hậu...”. Một số chính sách đặc thù như: Đề án Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong đồng bào DTTS giai đoạn 2015-2025, Đề án Hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới vùng DTTS giai đoạn 2018-2025; Đề án Tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030 đã và đang được triển khai, lan tỏa sâu rộng trong vùng DTTS.
Ngày 14-10-2021, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh cũng đã ký Quyết định số 1719/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030 xác định “thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em”. Chương trình đưa ra mục tiêu từ năm 2021 đến hết năm 2025, sẽ triển khai 10 dự án, trong đó có dự án đặc biệt dành cho đối tượng phụ nữ DTTS.
Ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 498/QĐ-TTg, ngày 14-4-2015 phê duyệt Đề án “Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng DTTS giai đoạn 2015 - 2025”, Ủy ban Dân tộc đã ban hành Quyết định số 439/QĐ-UBDT ngày 13-8-2015 của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc về việc ban hành Kế hoạch thực hiện Đề án “Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2015-2020” (giai đoạn I) và văn bản số 834/UBDT-DTTS ngày 13-8-2015 gửi Ủy ban nhân dân các tỉnh/thành phố về việc hướng dẫn các địa phương xây dựng Kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện Quyết định số 498/QĐ-TTg ngày 14-4-2015.
Theo Ủy ban Dân tộc của Quốc hội, từ năm 2015 đến năm 2020, trên cơ sở kế hoạch triển khai thực hiện Đề án “Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2015-2020” của Ủy ban nhân dân tỉnh, các cơ quan công tác dân tộc đã chủ động xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện công tác tuyên truyền như: tổ chức được 7.245 lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật và kỹ năng truyền thông cho 478.298 người tại các xã triển khai mô hình điểm. Tổ chức các hoạt động truyền thông về tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống. Tổng số là 120.774 cuộc với 4.070.148 người tham gia; nội dung tuyên truyền về những hệ lụy của tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống (ảnh hưởng đến giống nòi, phát triển trí tuệ, chất lượng cuộc sống và nguồn lực của gia đình)... Thiết kế, lắp đặt 2.704.757 (pa-nô, áp phích; tờ rơi/tờ gấp, sổ tay hỏi đáp 5 pháp luật...) phát cho 1.412.363 đồng bào để tuyên truyền về tác hại của tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống; địa điểm tại các xã có tỷ lệ hoặc nguy cơ tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống cao...; tuyên truyền qua các đài phát thanh và truyền hình tỉnh.
Được sự quan tâm, đầu tư của Đảng, Nhà nước, cùng với nỗ lực, vào cuộc mạnh mẽ của cấp ủy, chính quyền, nhân dân địa phương việc phát triển những phong tục, tập quán mang giá trị tích cực tiếp tục được triển khai thực hiện hiệu quả, góp phần từng bước đẩy lùi những quan niệm, hủ tục lạc hậu, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ và trẻ em gái DTTS.
Không để phụ nữ và trẻ em gái DTTS bị bỏ lại phía sau
Trong tổng số hơn 14 triệu người DTTS ở nước ta hiện nay, phụ nữ chiếm 49,8%. Tỷ lệ phụ nữ và nam giới tương đối cân bằng, nhưng phụ nữ (bao gồm trẻ em gái) DTTS là nhóm đối tượng yếu thế, họ phải chịu nhiều thiệt thòi trước những tác động tiêu cực của các hủ tục lạc hậu. Để cải tạo, bài trừ những quan niệm, hủ tục lạc hậu nhằm bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em gái vùng đồng bào DTTS cần thực hiện đồng bộ, hiệu quả một số giải pháp sau:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền các cấp đối với công tác tuyên truyền, vận động trong vùng đồng bào DTTS giữ gìn bản sắc văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo truyền thống của dân tộc mình, xóa bỏ những quan niệm, hủ tục lạc hậu ảnh hưởng đến đời sống văn hóa, tinh thần, nhất là các quyền của phụ nữ và trẻ em gái vùng đồng bào các DTTS. Phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng làm công tác tuyên truyền ở cơ sở, trong đó đặc biệt coi trọng vai trò của già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ, người tiêu biểu có uy tín ở thôn, bản và đội ngũ cán bộ đang công tác tại cơ sở.
Hai là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng để tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động của cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên, Nhân dân vùng đồng bào các DTTS trong việc khắc phục, đẩy lùi các hủ tục, lạc hậu ảnh hưởng đến phụ nữ và trẻ em gái nơi đây. Tuyên truyền, vận động bà con xóa bỏ các luật tục lạc hậu, không tảo hôn, hôn nhân cận huyết, thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội; bài trừ mê tín, dị đoan, thay đổi tập quán canh tác, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội; chăm sóc sức khỏe, nâng cao dân trí; tuyên truyền, vận động đồng bào các dân tộc cảnh giác trước âm mưu “diễn biến hòa bình”, lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để chống phá Đảng, Nhà nước của các thế lực thù địch...
Ba là, đẩy mạnh phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào vùng DTTS. Sự tồn tại của tập tục lạc hậu cũng xuất phát từ vấn đề kinh tế. Điều này biểu hiện rõ nhất ở các tập tục trong tang ma và hôn nhân. Do vậy, muốn xóa bỏ tập tục, phải có giải pháp giúp đồng bào phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống, mới tạo được niềm tin và nền tảng cho sự thay đổi nhận thức, hành vi.
Bốn là, đẩy mạnh thực hiện phong trào “Xây dựng gia đình văn hóa” ở vùng đồng bào DTTS để xây dựng đời sống văn hóa, văn minh, nhân rộng những phong tục tập quán tốt đẹp. Cùng với đó, phải chống các quan điểm, tư tưởng, hành vi đi ngược lại với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Trước hết với những hành vi liên quan đến tập tục lạc hậu, cần được phê phán và xử phạt theo quy ước, hương ước thôn, với những vụ việc có tính chất nghiêm trọng, cần xử lý theo quy định của pháp luật để làm gương, răn đe, với phương châm giảm dần, tiến tới xóa bỏ.
Năm là, vấn đề khắc phục những quan niệm, hủ tục lạc hậu, bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em gái phải do chính đồng bào cải tạo, xóa bỏ. Bởi lẽ, họ chính là chủ thể hành vi của tập tục đó nên chỉ có chính họ mới có thể giải quyết vấn đề của họ, không ai có thể đứng ra làm thay. Do đó, đòi hỏi đồng bào và chính bản thân phụ nữ và trẻ em gái vùng DTTS phải không ngừng nỗ lực, cố gắng vươn lên trong cuộc sống; phải nâng cao hiểu biết, năng lực, có tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động sáng tạo, có lối sống văn hóa, có lòng nhân đạo, để tự tin khẳng định mình. Việc phụ nữ và trẻ em gái phụ nữ có đủ năng lực và sự chủ động trong cuộc sống sẽ là điều kiện quan trọng để họ tự bảo vệ các quyền của mình trong cuộc sống.
Theo kết quả nghiên cứu, trong kinh tế và phân công lao động phụ nữ DTTS bất lợi hơn, nên thường yếu thế hơn trong vai trò ra quyết định. Trong khi 74% hộ gia đình DTTS có nam giới đứng tên độc lập về quyền sở hữu đất đai và tín dụng thì tỷ lệ này ở người Kinh chỉ là 41%. Tình trạng bỏ học của học sinh diễn ra phổ biến, đặc biệt là việc duy trì việc học lên cấp trung học phổ thông. Nam DTTS từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết là 86,3%, trong khi đó tỷ lệ nữ chỉ 73,4% biết đọc, biết viết. Điều đáng lo ngại là ở độ tuổi dưới 16, trẻ em nữ DTTS kết hôn cao gấp 3,4 lần trẻ em nam (685 em trai và 2.306 em gái). |
TS. Chu Minh Quốc - Trần Chi Mai