Bất bình đẳng leo thang sau 2 năm COVID-19

 Đại dịch COVID-19 đã làm các nước trải qua những khó khăn, thách thức chưa từng có. (Ảnh minh họa: TTXVN).

Khoảng cách giàu nghèo gia tăng

Các nghiên cứu cho thấy COVID-19 đã làm trầm trọng thêm bất bình đẳng giữa các nước, giữa dân số thành thị và nông thôn, và giữa các cộng đồng dân cư có điều kiện kinh tế xã hội, tuổi tác, giới và màu da khác nhau.

Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), sau hai năm, COVID-19 đã khiến 3 triệu người chết, suy thoái kinh tế kinh toàn cầu và 120 triệu người bị đẩy xuống mức cực nghèo trong khi các tỷ phủ lại giàu thêm.

Theo Ngân hàng Thế giới (WB), hậu quả đại dịch đối với những người nghèo nhất là nặng nề nhất. Năm 2021, thu nhập trung bình của 40% nhóm người nghèo nhất thấp hơn 6,7% của nhóm 40% giàu nhất, tức giảm 2,8% so với trước đại dịch. Lý do cơ bản là nhóm 40% nghèo này vẫn chưa phục hồi được những thu nhập mà họ mất, trong khi nhóm 40% giàu hơn lại phục hồi được 45% thu nhập bị mất. Trong hai năm 2019-2021, thu nhập trung bình của nhóm 40% nghèo giảm mất 2,2%, trong khi nhóm 40% giàu hơn chỉ mất có 0,5%.

Giảm thu nhập có nghĩa là tỷ lệ nghèo trên toàn cầu tăng lên. Ước tính khoảng 97 triệu người phải sống với mức thu nhập dưới 1,9 đô-la Mỹ/ngày (mức cực nghèo theo định nghĩa của LHQ) và khoảng 163 triệu người có thu nhập dưới 5,5 đô-la Mỹ/ngày, vì đại dịch. Tỷ lệ cực nghèo trên toàn cầu tăng từ 7,8% năm 2019 lên 9,5% năm 2020 và giảm đôi chút xuống 9,1% trong năm 2021 nhờ phục hồi kinh tế. Ước tính thế giới phải mất từ 3-4 năm mới có thể loại bỏ được tình trạng cực nghèo.

Bất bình đẳng giữa các quốc gia tăng trở lại sau một thời kỳ dài giảm xuống. Nguyên nhân là do một số nước bị tác động tiêu cực nhiều hơn và khi kinh tế thế giới phục hồi thì sự phục hồi cũng không đồng đều. Những nước nghèo có khuynh hướng phải chịu khủng hoảng lâu hơn và sâu sắc hơn. Điều này đang đảo ngược thành tích giảm bất bình đẳng mà thế giới có được trước đại dịch.

Thời kỳ 1993-2017, bất bình đẳng giữa các quốc gia giảm liên tục. Đáng chú ý, mức giảm lớn nhất lại xảy ra trong thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009. Từ 2008 đến 2013, mức bất bình đẳng giữa các quốc gia giảm khoảng 16%. Xét tổng thể, bất bình đẳng giữa các nước giảm tới 34% trong thời kỳ 1993-2017. Nghĩa là, một phần ba khoảng chênh lệch giữa các nước bị loại bỏ trong vòng 25 năm. Nguyên nhân chủ yếu là sự tăng trưởng và phát triển kinh tế nhanh chóng của Trung Quốc và Ấn Độ.

Nhưng COVID-19 được dự báo sẽ làm cho mức bất bình đẳng giữa các nước tăng 1,2% lần đầu tiên sau 25 năm. Theo tính toán, nếu không có đại dịch, mức chênh lệch giàu nghèo giữa các nước sẽ giảm 2,6%. Như vậy COVID-19 đã xóa bỏ mức giảm bất bình đẳng đạt được trong thời kỳ từ 2013-2017.

Trong phạm vi từng nước, COVID-19 cũng làm tăng bất bình đẳng khi mức nghèo khổ tăng cùng với số tỷ phú. Bất bình đẳng giữa những người trẻ tuổi cũng tăng vì nhóm người này có tỷ lệ gia nhập lực lượng lao động cao và số liệu cho thấy những người gia nhập lực lượng lao động trong thời kỳ dịch bệnh có thu nhập thấp hơn những người gia nhập lực lượng lao động trước và sau đại dịch.

WB cho biết nguyên nhân gia tăng bất bình đẳng trong từng nước là những nhóm dân cư dễ bị tổn thương như phụ nữ, những người có học vấn thấp và những người làm thuê không chính thức ở các vùng đô thị thường chịu những tác động tiêu cực rất nặng nề. Thu nhập của nhóm nghèo nhất (chiếm 20% dân cư) bị giảm 3% trong khi của nhóm giàu nhất (chiếm 20% dân cư) chỉ giảm 0,8%.

Quan trọng, bất bình đẳng và tổn hại xã hội vì COVID-19 sẽ tồn tại dai dẳng trong dài hạn. Những người nghèo phải dùng nhiều tiền tiết kiệm và tài sản để dành để chi tiêu trong đại dịch sẽ không còn khả năng chống chọi khó khăn trong tương lai. Điều này sẽ gây hậu quả cho sự phát triển về thể chất và tinh thần đối với thế hệ sau. Ước tính COVID-19 có thể dẫn đến mất từ 0,3 đến 0,9 năm học của trẻ em trong những gia đình bị tác động nhiều nhất.

Ngoài ra, mất việc làm của nhóm người dễ bị tổn thương nhất như người trẻ tuổi, phụ nữ, những người không có giáo dục đại học, có thể làm giảm năng suất lao động và thu nhập cả khi nền kinh tế phục hồi.

Kinh nghiệm trợ giúp người nghèo

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến gia tăng bất bình đẳng vì đại dịch. Để ngăn phá sản và giúp dân chúng, các ngân hàng trung ương đã bơm một lượng tiền khổng lồ ra thị trường. Nhưng lượng tiền lớn này đã làm tăng giá hoặc duy trì ở mức cao các tài sản như nhà ở, chứng khoán. Những người giàu vốn sở hữu những tài sản này sẽ cảm thấy dễ dàng hơn trong cuộc sống và vẫn có thêm thu nhập từ sản của mình, trong khi những người không sở hữu những tài sản đó thì luôn gặp khó khăn vì chỉ trông cậy vào tiền cứu trợ trong khi giá cả lại có xu hướng tăng.

Bất bình đẳng trên thị trường lao động tăng vì đại dịch đã buộc con người phải làm việc từ xa. Nhóm người có học vấn, được đào tạo và có kỹ năng có điều kiện để tham gia thị trường lao động trong khi nhóm người nghèo không có lợi thế này thì phải chịu nhiều bất lợi. Hàng triệu người trong nhóm này luôn phải đối mặt với lựa chọn hoặc ở nhà để an toàn hoặc phải chấp nhận rủi ro nhiễm bệnh để có thức ăn cho gia đình. Thêm vào đó, người nghèo thiếu kiến thức về kỹ thuật số và khả năng tài chính để có được những phương tiện số mới nhất nên thường bị bất lợi thế so với những người có điều kiện tốt về tài chính. Quá trình chuyển đổi số tăng tốc vì đại dịch trong nền sản xuất và mọi hoạt động của đời sống xã hội cũng là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng bất bình đẳng gia tăng. Người có thu nhập thấp thiếu kỹ năng và thiếu tài chính để có phương tiện công nghệ thích hợp sẽ có nguy cơ bị loại khỏi các hoạt động kinh tế có thu nhập tốt và ổn định. Tình trạng này sẽ kéo dài sau đại dịch. Nói cách khác, chênh lệch giữa thu nhập thấp và cao, kỹ năng thấp và cao, sẽ ngày càng nới rộng ra, gây ra bất bình đẳng thu nhập lớn hơn. Trợ giúp người nghèo vượt qua khó khăn vì đại dịch là một trọng tâm chính sách lớn bên cạnh các chính sách phục hồi kinh tế của các chính phủ, các tổ chức quốc tế và trong nước.

Quan trọng nhất phải kể đến các phần chi tiêu trong các gói cứu trợ từ ngân sách. Hầu hết các gói cứu trợ từ ngân sách đều dành phần không nhỏ cho mục đích này vì người lao động là nhóm bị tổn hại nặng nề nhất. Chẳng hạn, trong gói giải cứu hơn 900 tỷ đô-la Mỹ mà Chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump ban hành nhằm chống tác động của đại dịch đến nền kinh tế thì phần chi trực tiếp hoặc gián tiếp cho người lao động là 600 tỷ đô-la Mỹ để giúp họ chi trả các chi phí sinh hoạt.

Tuy nhiên, từ kinh nghiệm của Việt Nam, người ta nhận thấy rằng quyết định gói chi tiêu là quan trọng, nhưng phần thiết kế kỹ thuật của chính sách cho gói chi tiêu quan trọng không kém. Chính phủ Việt Nam cũng nhanh chóng đưa gói cứu trợ trị giá 60 ngàn tỷ đồng khi dịch bùng phát. Nhưng do thiếu khâu thiết kế kỹ thuật để thi hành nên hiệu quả của gói cứu trợ này không cao. Cụ thể, gói cứu trợ không quy định cụ thể làm thế nào để người lao động có thể nhận được tiền cứu trợ nhanh nhất. Do dó, mỗi địa phương lại đặt ra những quy định khác nhau, thậm chí nhiều quy định không hợp lý. 

Chẳng hạn, đòi hỏi người nhận tiền trợ cấp phải lấy xác nhận quá nhiều trong điều kiện phong tỏa là điều không thể. Kết quả, nhiều người không thể nhận được tiền cứu trợ. Trong trường hợp ở Mỹ và các nước phát triển, chính phủ chuyển tiền trực tiếp từ ngân sách vào tài khoản ngân hàng của người lao động, dù họ biết có thể có sai sót nhưng điều này không quan trọng vì họ chấp nhận phát nhầm còn hơn bỏ sót.

Xin-ga-po có chương trình “Không bỏ sót một ai lại phía sau” với nhiều chương trình trợ giúp nhóm người nghèo bị bất lợi thế, với nhiều thành phần tham gia và có nhiều hình thức giúp đỡ, nhằm loại bỏ những chênh lệch về kỹ thuật số và loại bỏ quan niệm bị loại bỏ khỏi suy nghĩ của những người nghèo. Chính phủ đến tận nhà lắp đặt các thiết bị wifi và cung cấp dịch vụ băng thông rộng miễn phí nhằm giúp dân nghèo tiếp cận với in-tơ-nét để nhận thông tin, hướng dẫn, làm việc và học trực tuyến.

Xin-ga-po thành lập nhiều tổ chức với nhiệm vụ cụ thể nhằm giúp nhóm người nghèo như các tổ chức chuyên giúp học sinh nghèo, tổ chức chuyên giúp điều trị COVID-19, tổ chức chuyên giúp giải quyết nợ nần, hay đào tạo kỹ năng mới để quay lại làm việc, tổ chức từ thiện chuyên cung cấp bữa ăn đủ dinh dưỡng cho người nghèo vì những người này không đủ chi tiêu để có thực phẩm đủ dinh dưỡng, thậm chí họ còn gặp rủi ro an toàn thực phẩm khi phải dùng những thực phẩm hư hỏng vì thiếu tiền. Một số tổ chức khác cung cấp các khoản trợ cấp cho các hộ nghèo nhằm giúp họ trả được các chi phí công ích, nợ cầm cố mua nhà hay mua các đồ dùng gia đình, hay tài trợ cho những người có thu nhập thấp có được kỹ năng mới.

Có thể rút ra một số nhận định cơ bản như sau:

Thứ nhất, COVID-19 đã tạo ra một vòng xoáy tồi tệ theo đó, người nghèo có ít hoặc không có tài sản sinh lời, hoặc trông vào thu nhập từ việc làm chân tay không ổn định khi mất việc là lập tức khó khăn. Điều này khiến họ không có điều kiện chống lại dịch bệnh và khi bị dịch bệnh lại càng khó khăn hơn trong điều trị, ngăn lây lan, chăm sóc và giáo dục trẻ con, kết quả càng nghèo và tương lai sẽ khó quay trở lại cuộc sống bình thường nếu không được hỗ trợ. Nói cách khác, đã nghèo thì càng nghèo vì đại dịch. Đó là cách thức mà COVID-19 khiến khoảng cách giàu nghèo tăng lên và tình trạng nghèo thêm trầm trọng và có khuynh hướng kéo dài trong tương lai sau dịch.

Thứ hai, ban hành chính sách cứu trợ là không đủ mà quan trọng là phải thiết kế chính sách sao cho tiền đến tay người cần được trợ giúp nhanh nhất.

Thứ ba, cần huy động đa dạng nhiều loại hình tổ chức, các quỹ, các cá nhân hảo tâm và tạo điều kiện để họ tham gia hỗ trợ người nghèo.

Thứ tư, quan trọng không kém, các tổ chức này nên được phân công cụ thể hành động với từng mục đích cụ thể sẽ đem lại hiệu quả cao. Kinh nghiệm của Xin-ga-po đã cho thấy điều này.

Thứ năm, cần nhận thức rằng dù COVID-19 qua đi thì hậu quả đối với tình trạng bất bình đẳng và nghèo đói sẽ là dai dẳng. Bởi thị trường lao động đã bị làm méo mó, theo nghĩa là xuất hiện khuynh hướng một số lao động không quay lại làm việc, hoặc chọn việc không ổn định nhưng tương lai sẽ không được tiếp cận BHYT, BHXH. Điều này sẽ đem lại gánh nặng cho xã hội và gia đình trong tương lai.

Do đó, việc giúp những người lao động nghèo quay trở lại làm việc bình thường là rất quan trọng. Nghĩa là, cần phải giúp họ làm thế nào để họ tìm được công việc mới có thu nhập ổn định trong một thị trường lao động mới đã có nhiều biến đổi. Đào tạo lại kỹ năng, giúp hay trợ cấp đào tạo kỹ năng mới cho họ để đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh số hóa là điều hết sức quan trọng.

Ở góc nhìn giáo dục, những trẻ em nghèo khó tiếp cận học online hơn, sự mất mát kiến thức sau dịch cũng khó bù đắp hơn. Hiệu ứng tiêu cực này sẽ còn tồn tại trong nhiều năm tới, thậm chí là cả thế hệ, khi các em này tham gia lực lượng lao động mà không được giáo dục đầy đủ như trước đại dịch. Nói cách khác, sự bất bình đẳng về giáo dục, đào tạo dẫn đến bất bình đẳng trên thị trường lao động vì đại dịch và loại bất bình đẳng này sẽ tồn tại dai dẳng.

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất