Bài 2: Dựa vào dân để xây dựng Đảng, nguyên lý bất biến
Trước những “cơn gió độc” từ bên ngoài và những phần tử chống phá từ bên trong, các cơ quan chức năng phải nắm chắc, thường xuyên thông tin về vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng, mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Và như vậy, phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong kết luận bế mạc Hội nghị Trung 5 (khóa XIII) ngày 10-5: “... tăng cường mối quan hệ máu thịt với nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; phải dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng và rèn luyện đảng viên” là hoàn toàn đúng đắn cả về lý luận và thực tiễn.
Theo V.I.Lê-nin, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Người đã từng cảnh báo “một trong những nguy hiểm lớn nhất và đáng sợ nhất" đối với Ðảng là "tự cắt đứt liên hệ với quần chúng". Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định tầm quan trọng của việc tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với Nhân dân. Người từng chỉ rõ: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”; “Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”. Đảng tự nguyện sống trong lòng dân tộc, sống chết vì dân tộc; được dân tộc chở che, bảo vệ và nghiêm khắc đòi hỏi Đảng phải luôn xứng đáng là “đứa con nòi”, cùng nhau “lấy đoàn kết mà xoay vần vận mệnh, giữ gìn dân tộc và bảo vệ nước nhà”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết là thắng lợi của chúng ta”. Người khẳng định, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào; Đảng ta đại biểu cho lợi ích chung của giai cấp công nhân, của toàn thể nhân dân lao động, chứ không phải mưu cầu lợi ích riêng của một nhóm người nào, của cá nhân nào.
Một trong những động lực thúc đẩy phong trào cách mạng chính là đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Là người lãnh đạo, nhưng toàn bộ sức mạnh của Ðảng bắt nguồn từ mối quan hệ mật thiết giữa Ðảng với Nhân dân; từ sự đoàn kết thống nhất trong Ðảng. Tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Ðảng với Nhân dân chính là nguồn sức mạnh nội lực của Ðảng. Nguồn sức mạnh nội lực ấy lại phụ thuộc vào sự trong sạch, vững mạnh của Ðảng và sự gương mẫu của mọi cán bộ, đảng viên. Thực tế, Ðảng lãnh đạo nhân dân thông qua Nhà nước và đội ngũ cán bộ, đảng viên "là những người đem chính sách của Ðảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành", nên muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ, đảng viên tốt hay kém.
Vì vậy, để phát huy được sức mạnh của mình với vai trò là Ðảng lãnh đạo toàn xã hội thì Ðảng phải thực hiện tốt mối quan hệ mật thiết giữa cán bộ, đảng viên với nhân dân, và quan hệ đó phải được đặt trong mối quan hệ hai chiều. Ðó là, cán bộ, đảng viên có trách nhiệm trước nhân dân, phục vụ nhân dân và nhân dân có trách nhiệm đối với sự nghiệp cách mạng do Ðảng lãnh đạo. Chỉ khi nào mối quan hệ đó được phát huy từ cả hai phía thì sức mạnh của Ðảng mới được phát huy dựa trên nền tảng nhân dân. Ðiều này cho thấy, do nhu cầu của nhân dân trong sự nghiệp giải phóng và xây dựng một cuộc sống ấm no, hạnh phúc, nhân dân rất cần Ðảng dẫn đường; đồng thời Đảng phải chịu sự giám sát chặt chẽ của nhân dân. Bởi thực tế cho thấy, trong quá trình phát triển, đã có lúc, có thời điểm, nhất là trong những năm vừa qua, trong Đảng xuất hiện những cán bộ, đảng viên bị chi phối bởi chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, xa dân, "tự đánh mất bản thân mình", khiến mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Ðảng và nhân dân có nguy cơ tan vỡ; sức mạnh và vai trò lãnh đạo của Ðảng vì thế cũng không còn. Điều đó cho thấy, nếu cán bộ, đảng viên quan liêu, tham nhũng, vô kỷ luật, coi thường phép nước, tự cắt đứt mối liên hệ với quần chúng, sa vào chủ nghĩa cá nhân,… thì họ không còn là "công bộc" mà trở thành "những ông quan phụ mẫu". Những người đó đã làm mất niềm tin của nhân dân, làm cho nhân dân xa Ðảng, làm mất uy tín, danh dự của Ðảng, đe dọa sự sinh tồn của Ðảng và chế độ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo: "… chủ nghĩa cá nhân đang ám ảnh một số đồng chí. Họ tự cho mình cái gì cũng giỏi, họ xa rời quần chúng, không muốn học hỏi quần chúng mà chỉ muốn làm thầy quần chúng… Họ mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Kết quả là quần chúng không tin, không phục, càng không yêu họ".
Trong suốt 92 năm từ Ngày thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sống trong lòng dân tộc với tư cách là “đứa con nòi”, “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ”; và cùng dân tộc vững bước mạnh mẽ trên con đường độc lập tự do và xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, để xứng đáng là người lãnh đạo sáng suốt, là đầy tớ trung thành của nhân dân, Ðảng ta luôn đặc biệt chăm lo củng cố mối quan hệ với nhân dân để củng cố và tăng cường sức mạnh của Ðảng về mọi mặt, làm cho Ðảng thật sự trong sạch, vững mạnh. Đây là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước; là điều kiện quyết định bảo đảm sự lãnh đạo của Ðảng. Ðảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân là thể hiện bản chất giai cấp công nhân, là nguồn sức mạnh, là tiêu chuẩn của một đảng mác-xít chân chính và là một trong những vấn đề cơ bản, cấp bách của công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng hiện nay.
Nghị quyết Ðại hội XII của Ðảng đã khẳng định: "Củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Ðảng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ mật thiết giữa Ðảng với Nhân dân...". Với vai trò là đảng cầm quyền, Ðảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc; tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào dân để xây dựng Ðảng, đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Ðiều đó khẳng định toàn bộ hoạt động của Ðảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân, sức mạnh của Ðảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân, quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước.
Ðể thực hiện được mục tiêu ấy thì vấn đề quan trọng là cần đổi mới cách thức tập hợp nhân dân; tiếp tục và kiên trì thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII, XIII) về xây dựng Ðảng, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Tích cực đấu tranh ngăn chặn và từng bước đẩy lùi tình trạng tham nhũng, lãng phí, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Ðảng. Nghị quyết chỉ rõ: "... thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" có hiệu quả, nhất là những vụ việc gây bức xúc trong dư luận để củng cố niềm tin của nhân dân đối với Ðảng".
Bên cạnh đó, để niềm tin chính trị trong nhân dân ngày càng được củng cố vững chắc, công tác giáo dục của Đảng phải được thực hiện hiệu quả hơn. Bản thân mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự tiên phong, có tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, gần dân, tôn trọng dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, chăm lo lợi ích chính đáng, thiết thực của nhân dân, gương mẫu về đạo đức, lối sống, gương mẫu và làm nòng cốt trong các tổ chức đoàn thể. Mỗi cán bộ, đảng viên cần thực hiện tốt Quy định số 08-QÐi/TW về trách nhiệm nêu gương với nội dung, yêu cầu cụ thể; luôn đi đầu, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, vì lợi ích của nhân dân; kiên quyết chống các biểu hiện độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, xa dân, thờ ơ, vô cảm trước những khó khăn, bức xúc của nhân dân.
Trong tổ chức sinh hoạt đảng, cần thực hiện tốt tự phê bình và phê bình; ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện của bệnh quan liêu, xa rời quần chúng. Ðây là giải pháp quan trọng, có ý nghĩa trực tiếp quyết định biện pháp hữu hiệu để nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho mỗi cán bộ, đảng viên trong giải quyết mối quan hệ với nhân dân, phục vụ nhân dân. Theo đó, mỗi cán bộ, đảng viên cần hiểu sâu sắc và thực hiện tốt việc tự phê bình phải đi đôi với phê bình trên tinh thần không che giấu khuyết điểm, không "làm qua quýt cho xong", "làm chiếu lệ", hoặc cho rằng "đó là việc nhỏ, không quan trọng". Quá trình thực hiện cần chỉ cho nhau những hạn chế, khuyết điểm trong quan hệ với nhân dân cả khi làm việc ở cơ quan cũng như khi sinh hoạt ở nơi cư trú. Thông qua đó, kịp thời ngăn ngừa, đấu tranh khắc phục các hiện tượng quan liêu, cửa quyền, hách dịch, sách nhiễu, hay thờ ơ, vô cảm trước những khó khăn, bức xúc, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Cần phê phán các biểu hiện mị dân, lợi dụng việc gần dân để mưu cầu lợi ích riêng, dân chủ giả hiệu, hoặc theo đuôi quần chúng... Cùng với đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, cần tăng cường tuyên truyền những tấm gương "người tốt, việc tốt", những "công bộc" hết lòng đối với dân, vì nhân dân phục vụ; làm cho mối quan hệ máu thịt giữa Ðảng với Nhân dân ngày càng được lan tỏa, củng cố, phát triển, niềm tin của nhân dân đối với Ðảng ngày càng được nâng cao.
Gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân để công tác lãnh đạo ngày càng hoàn thiện, mang lại hiệu quả thiết thực, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, quyết tâm thực hiện mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đề ra là "khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc". Đó là nguyên lý bất biến không thể tách rời trong phương thức, phương pháp lãnh đạo của Đảng.
Đại tá Trần Thanh Khôi
Bộ Tư lệnh Công binh