|
.Hình minh hoạ
|
Nội dung giáo dục về quyền con người ở bậc cao đẳng
Theo Khoản 2, Điều 2 của Tuyên ngôn, giáo dục và đào tạo về QCN sẽ bao gồm: (a) Giáo dục về QCN, bao gồm cung cấp kiến thức và sự hiểu biết về các quy tắc và nguyên tắc về QCN, các giá trị nền tảng của QCN và các cơ chế bảo vệ QCN; (b) Giáo dục thông qua QCN, bao gồm việc học tập và giảng dạy theo cách thức tôn trọng các quyền của cả người dạy và người học; (c) Giáo dục vì QCN, bao gồm việc trao quyền cho mọi người để có thể thụ hưởng và thực thi các quyền của họ và để tôn trọng và phát huy các quyền của người khác.
Cũng giống như đào tạo đại học, đào tạo trình độ cao đẳng có rất nhiều ngành nghề đào tạo khác nhau nên không thể đưa nội dung giống nhau, áp dụng thời lượng giống nhau ở tất cả các chương trình đào tạo hệ cao đẳng. Do đó, Quyết định 1309/QĐ-TTg ngày 5-9-2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Đề án đưa nội dung QCN vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân” (Quyết định 1309) đã phân thành hai loại khối trường, đó là khối các trường luật, hành chính, nội chính và khối các trường không thuộc luật, nội chính, hành chính khi đưa nội dung QCN vào chương trình đào tạo ở bậc cao đẳng.
Thứ nhất, đối với khối các trường không thuộc ngành luật, hành chính, nội chính (chủ yếu đào tạo nghề): không thể đưa quá nhiều nội dung QCN vào chương trình đào tạo, khôngxây dựng thành môn học riêng, giáo trình riêng, các nội dung QCN nêu ở khoản 2 mục II phần B theo Quyết định 1309 sẽ được tích hợp, lồng ghép vào môn học pháp luật hoặc pháp luật đại cương, với thời lượng ít nhất là 6 giờ, bao gồm cả kiểm tra kiến thức cho tất cả các ngành đào tạo.
Nội dung được đưa vào chương trình giảng dạy bao gồm: nội dung cơ bản của QCN, quyền công dân, đặc biệt là QCN trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp, việc làm; các cơ chế bảo vệ QCN; kỹ năng ứng dụng QCN trong hoạt động nghề nghiệp; giải quyết tranh chấp phát sinh trong quan hệ lao động; quyền và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động trong quan hệ lao động.
Thứ hai, đối với các trường cao đẳng thuộc khối trường luật, hành chính, nội chính: Các nội dung QCN nêu ở khoản 1, mục II phần B (đối với giáo viên, cán bộ quản lý) được tích hợp, lồng ghép vào môn học lý luận chung về nhà nước và pháp luật với thời lượng 8 giờ; các nội dung QCN nêu ở khoản 2 mục II phần B (đối với học viên) được thiết kế thành một môn học riêng, hoặc lồng ghép vào các môn học chuyên ngành có liên quan. Trong trường hợp thiết kế thành môn học riêng thời lượng tối thiểu là hai học phần (20 tiết giảng trên lớp), trong đó có 10 tiết thảo luận/bài tập.
Nội dung nêu ở khoản 1, mục II, phần B bao gồm: nội dung cơ bản của QCN, quyền công dân; quan điểm, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước Việt Nam về QCN, đặc biệt là QCN trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp, việc làm; Công ước quốc tế về QCN mà Việt Nam là thành viên; các văn kiện của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về quyền lao động.
Nội dung QCN nêu ở khoản 2 mục II phần B bao gồm: nội dung cơ bản của QCN, quyền công dân, đặc biệt là QCN trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp, việc làm; các cơ chế bảo vệ QCN; kỹ năng ứng dụng QCN trong hoạt động nghề nghiệp; giải quyết tranh chấp phát sinh trong quan hệ lao động; quyền và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động trong quan hệ lao động.
Ngoài chương trình chính khóa, tất cả các trường cao đẳng, trung cấp chủ động trong việc lựa chọn đưa nội dung về QCN vào các hoạt động giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng học viên thông qua một số hoạt động ngoại khóa như: tổ chức thi tìm hiểu pháp luật về QCN; lồng ghép nội dung về QCN vào các hoạt động văn hóa.
Phương pháp giáo dục quyền con người ở bậc cao đẳng
Với cách tiếp cận phương pháp giáo dục là cách thức sử dụng các nguồn lực trong giáo dục để giáo dục người học, phương pháp giáo dục QCN chính là phương pháp đưa nội dung, kiến thức về QCN, kỹ năng thực hành, bảo vệ QCN đến với người học có hiệu quả nhất. Hiện nay, các phương pháp phổ biến trên thế giới có thể áp dụng vào giảng dạy bậc cao đẳng bao gồm:
Phương pháp thuyết trình: Đây là phương pháp truyền thống và thường được áp dụng nhiều tại các trường. Với phương pháp này, người trình bày có thể truyền tải một lượng lớn kiến thức một cách nhất quán và hợp lý tới nhiều người; có thể giới thiệu nhanh về các nhóm kiến thức mới; dễ dàng trong việc lập kế hoạch và quản lý. Tuy nhiên, phương pháp này dẫn đến việc truyền thụ kiến thức một chiều, khiến người tham gia bị động và không có trách nhiệm học tập; tương tác, liên hệ thực tế và tăng cường các kỹ năng của người học hạn chế cũng như hiệu quả giáo dục có thể chưa cao. Do vậy, cần xây dựng nội dung phù hợp với sở thích và nhu cầu của người học; tăng cường tương tác và đặt câu hỏi cũng như kết hợp với các phương pháp tương tác.
Phương pháp thảo luận/đối thoại cả lớp (nhóm lớn): là phương pháp giảng viên dẫn dắt vấn đề để cả lớp cùng thảo luận. Nhờ đó, người dạy và người học sẽ có sự tương tác, chia sẻ với nhau. Người học sẽ chủ động trong việc nạp kiến thức, nêu lên suy nghĩ, quan điểm, thái độ, nhận thức, trải nghiệm của bản thân; tự xây dựng các kỹ năng để tranh luận, lắng nghe và phân tích. Giáo viên có thể nhận phản hồi của học viên về bài học cũng như khiến cho không khí học tập trở nên sôi nổi.
Tuy nhiên, với phương pháp này, người dạy sẽ bị động trong việc xây dựng các câu hỏi mở phù hợp, khó quản lý quy trình nếu không vững về chuyên môn, kiến thức cũng như có thể mất nhiều thời gian. Do vậy, giảng viên cần chuẩn bị nội dung, chủ đề thảo luật kỹ, sát với thực tiễn của sinh viên; chủ động, làm chủ được cuộc thảo luận và kết hợp với phương pháp thuyết trình.
Thảo luận nhóm nhỏ/làm việc theo nhóm: Lớp học sẽ cùng tìm hiểu, bàn bạc, phân tích, đưa ra giải pháp, kết luận về vấn đề được đưa ra. Phương pháp này rất linh hoạt, năng động và dễ dàng kết hợp với các phương pháp khác. Người học có thể tự học hỏi lẫn nhau; tự rèn luyện kỹ năng hợp tác, phân tích, lắng nghe, thảo luận cũng như bày tỏ quan điểm của mình.
Tuy nhiên, người học cần nhiều thời gian chuẩn bị; có thể thiếu năng động, cơ sở vật chất thiếu bảo đảm… Nếu áp dụng phương pháp này, chia lớp thành 3, 4 hoặc 5 nhóm với số lượng người vừa phải từ 5-10 người. Trong quá trình thảo luận tại các nhóm, giảng viên có thể đến từng nhóm nghe, trao đổi và gợi ý.
Nghiên cứu tình huống: Tùy theo nội dung bài giảng, giảng viên chuẩn bị sẵn một tình huống. Với phương pháp này, người học áp dụng những gì họ được học vào các tình huống cuộc sống thực tế; tự xây dựng kỹ năng phân tích, trình bày quan điểm, lắng nghe và thảo luận; được phát triển, khuyến khích tư duy. Tùy thuộc đối tượng người học, giảng viên có thể xây dựng các tình huống gắn với công việc, phù hợp với đối tượng người học.
Ví dụ đối với học viên theo học các ngành về luật, về điều tra có thể có tình huống liên quan tới các quyền không bị bắt, giam giữ tùy tiện hoặc cấm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tra tấn, bức cung, nhục hình trong hoạt động điều tra…
Phương pháp đóng vai: Bằng cách diễn xuất, người học có thể thực hành việc đối phó với các tình huống và thử nghiệm các giải pháp giải quyết vấn đề. Phương pháp đóng vai cũng cần nghiên cứu để áp dụng phù hợp với người học. Trong quan hệ lao động, việc làm có thể đóng vai giữa người chủ (bên sử dụng lao động) và người lao động. Hoặc đóng vai một phiên tòa xét xử tranh chấp lao động về tiền công, tiền lương, hợp đồng lao động, bảo hiểm…
Bên cạnh những phương pháp giảng dạy trên, để giáo dục QCN có hiệu quả đối với bậc cao đẳng cần có các công cụ hỗ trợ giảng dạy bao gồm: các thông tin cần thiết về chương trình học tập (mục tiêu học tập, chương trình, danh sách học viên và người thuyết trình; các tài liệu giáo dục (bài giảng, giáo trình, các tài liệu tham khảo); máy chiếu, bảng, giấy khổ lớn, phòng học đủ để kê bàn cho thảo luận; Slide Power Point, tài liệu phát tay và bài tập…
Nhìn chung, để đưa nội dung QCN vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân, áp dụng trong giáo dục cao đẳng đạt hiểu quả, cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng cả về nội dung, tài liệu, xây dựng chương trình, đào tạo cán bộ giảng dạy, kết hợp với phương pháp phù hợp với từng ngành, nghề và đối tượng người học.
Về nội dung chương trình giáo dục QCN trong các trường cao đẳng sư phạm nên được áp dụng như với các trường đào tạo ngành luật, hành chính và nội chính, nên có môn học độc lập về QCN.
Ngoài các kiến thức trang bị về lý luận chung QCN như khái niệm, nguồn gốc, bản chất, đặc điểm, cách thức phân nhóm quyền; các quyền tuyệt đối, tương đối, chủ thể quyền, chủ thể nghĩa vụ, vai trò, trách nhiệm của cá nhân, công dân đối với nhà nước, xã hội; các quyền hạn chế, vấn đề tạm đình chỉ thực hiện quyền; các chuẩn mực quốc tế về QCN; cơ chế của Liên hiệp quốc, khu vực và quốc gia về bảo vệ, thúc đẩy quyền, cần bổ sung nội dung QCN của nhóm yếu thế, nhất là quyền trẻ em; phương pháp giáo dục quyền trẻem; QCN trong giáo dục, trong đó đặc biệt các thành tố của giáo dục QCN. Đồng thời với các kiến thức chung, trong quá trình giảng dạy cần có các kỹ năng nhận biết các hành vi vi phạm trong trường học, chủ thể vi phạm, nguyên nhân và giải pháp phòng, chống vi phạm quyền, bạo lực học đường, trong đó xác định vai trò, trách nhiệm của chủ thể nghĩa vụ trong bảo vệ QCN của người học.
Về phương pháp giáo dục, áp dụng triệt để các phương pháp giáo dục hiện đại như trong các chương trình đào tạo nghề trình độ cao đẳng nói chung, đặc biệt là phương pháp giáo dục lấy người học làm trung tâm. Đây là phương pháp giáo dục cần có cách tiếp cận dựa trên nền tảng, bối cảnh và trình độ của sinh viên để có kế hoạch. tổ chức các buổi học. Chú trọng phương pháp thực hành, trải nghiệm. Trong trường hợp giáo dục QCN cho sinh viên sư phạm mẫu giáo, tiểu học, hay trung học, có thể đưa học viên đi tham quan, thực hành trải nghiệm thực tế tại các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục tiểu học hay giáo dục trung học để việc giáo dục đạt hiệu quả cao hơn.
Quyết định số 1309/QĐ-TTg, ngày 5-9-2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt "Đề án đưa nội dung QCN vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân" xác định: "Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục QCN nhằm tạo sự chuyển biến trong nhận thức của người học, của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục về tầm quan trọng, ý thức tự bảo vệ các quyền của bản thân, tôn trọng nhân phẩm, các quyền và tự do của người khác; ý thức về trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân đối với nhà nước và xã hội, góp phần phát triển toàn diện con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển bền vững của đất nước…; đến năm 2025, 100% các cơ sở giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân tổ chức giáo dục QCN cho người học…". |