Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng giai cấp, giải phóng con người
tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện rõ tư duy biện chứng về sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người

Tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện rõ tư duy biện chứng về sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Ảnh minh hoạ

Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người

Quá trình tìm đường cứu nước, tiếp cận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm hiểu kinh nghiệm thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại đã hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người, với sự vận dụng sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam, có giá trị thời đại và vượt thời đại. Bởi tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện rõ tư duy biện chứng về sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người, cũng chính là biểu hiện của mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp.

Theo Hồ Chí Minh, sự nghiệp giải phóng dân tộc của Việt Nam gắn liền với sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, những người lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới; cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa là một bộ phận không thể tách rời mà gắn bó khăng khít với cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, những người lao động khắp các châu lục.

Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh là: Không có gì quý hơn độc lập, tự do; độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc. Người chỉ rõ: Giải phóng dân tộc là nhiệm vụ, mục tiêu hàng đầu của cách mạng. Bởi vì theo Người, “nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi giai cấp đến vạn năm sau cũng không đòi lại được”(1).

Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp giải phóng xã hội.

 “Giải phóng xã hội" là một khái niệm trong triết học xã hội và chính trị, thường được liên kết với các phong trào cách mạng và xã hội nhằm giải phóng con người khỏi các hạn chế xã hội, kinh tế và chính trị để họ có thể phát triển và thể hiện tiềm năng của mình một cách đầy đủ. Trong nhiều trường hợp, giải phóng xã hội liên quan đến việc loại bỏ các sự bất công và bất bình đẳng trong xã hội, bảo đảm mọi người có quyền lợi và cơ hội bình đẳng, và tạo ra một xã hội công bằng và tiến bộ hơn. Trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc gắn với tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. Chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng. Người từng nói: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(2) hay “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ.”(3)

 Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải không ngừng phấn đấu nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho mọi người dân. Người lựa chọn con đường giải phóng dân tộc trên lập trường vô sản chính vì cách mạng vô sản không chỉ giải phóng giai cấp công nhân mà còn giải phóng mọi giai cấp và tầng lớp khác thoát khỏi sự áp bức, bóc lột giai cấp. Người nói: "Giành độc lập rồi phải xây dựng chủ nghĩa xã hội vì chủ nghĩa xã hội “làm cho dân giàu, nước mạnh"..., “làm cho mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do”.

 Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng con người.

Hồ Chí Minh coi con người là trung tâm của mọi hoạt động và phát triển. Người khuyến khích sự tự giác, sáng tạo và lòng yêu nước, đồng thời tôn trọng nhân quyền và quyền tự do cá nhân. Người coi việc giáo dục và nâng cao tri thức cho mọi công dân là rất quan trọng để họ có thể tham gia vào xây dựng đất nước mạnh mẽ, không chỉ là việc giải phóng khỏi ách đô hộ chính trị mà còn bao gồm việc xóa bỏ nghèo đói, bất công xã hội và bảo đảm mọi người có cơ hội tham gia và đóng góp vào xã hội.

Người coi việc giáo dục và nâng cao tri thức cho mọi công dân là rất quan trọng để họ có thể tham gia vào xây dựng đất nước mạnh mẽ.

Người coi việc giáo dục và nâng cao tri thức cho mọi công dân là rất quan trọng để họ có thể tham gia vào xây dựng đất nước mạnh mẽ.

Như vậy, tư tưởng của Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc không chỉ dừng lại ở việc giành độc lập quốc gia mà còn bao gồm cả việc xây dựng một xã hội công bằng và phát triển, cùng việc tôn trọng và nâng cao vai trò của con người.  

Giải phóng dân tộc là tiền đề cho sự phát triển, tuy nhiên giải phóng dân tộc phải song song với giải phóng xã hội, giải phóng con người nhằm mang lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân - đó chính là triết lý phát triển xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Tính thống nhất, đồng bộ trong triết lý phát triển xã hội của Hồ Chí Minh hướng đến mục tiêu bảo đảm thực hiện chuỗi giá trị cơ bản, vững bền là: giải phóng dân tộc, giành độc lập cho đất nước, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh có một cách sáng tạo và độc đáo trong việc giải quyết mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội. Người thấu hiểu rằng để đạt được mục tiêu giải phóng dân tộc, việc tạo ra sự đoàn kết giữa các giai tầng trong xã hội là rất quan trọng.

Người nhận thức sâu sắc về mối quan hệ giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và và sự nghiệp giải phóng giai cấp: (i) Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay muốn thành công triệt để nhất định phải đi theo qũy đạo và là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản; (ii) Cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ dân tộc không tách rời cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với các thế lực đế quốc xâm lược; (iii) Cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản ở chính quốc như “hai cánh của một con chim”, phải thực hiện sự liên minh giữa vô sản ở chính quốc với vô sản và nhân dân các nước thuộc địa thì cách mạng mới thắng lợi; (iv) Sau khi giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị ngoại bang, khỏi chế độ thuộc địa, dân tộc vừa được giải phóng phải quá độ lên chủ nghĩa xã hội và trong bước quá độ ấy phải tự mình tìm tòi con đường, phương thức riêng phù hợp với tình hình và đặc điểm đất nước, tránh giáo điều, dập khuôn những hình thức, bước đi, biện pháp của nước khác.

Theo Hồ Chí Minh, giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội là hai khía cạnh không thể tách rời, đồng thời tương hỗ và tương tương hỗ.

Giải phóng giai cấp là một bước quan trọng trong quá trình đấu tranh cho giải phóng xã hội. Người đặc biệt chú trọng giải phóng giai cấp nông dân và giai cấp công nhân, những tầng lớp lao động chủ động trong xã hội. Qua việc giải phóng giai cấp, họ sẽ có khả năng tự quyết định về cuộc sống của mình, không bị áp đặt hoặc kiểm soát bởi các tầng lớp thống trị.

Giải phóng xã hội chỉ là một phần của mục tiêu cuối cùng là giải phóng xã hội. Xã hội công bằng và dân chủ chỉ có thể đạt được khi mọi người, không phân biệt giai cấp, đều có cơ hội và quyền lợi bình đẳng trong xã hội. Việc tạo ra một xã hội công bằng và dân chủ đòi hỏi sự tham gia tích cực của tất cả các tầng lớp và giai cấp trong xã hội.

Mối quan hệ giữa giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội trong tư tưởng của Hồ Chí Minh được thể hiện qua việc đồng lòng đấu tranh để giải phóng giai cấp lao động, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và phát triển. Điều này phản ánh sự nhất quán giữa mục tiêu lớn hơn của cuộc đấu tranh cách mạng.

Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới

Việc tiếp tục nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng của Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người trong bối cảnh hiện nay đặt ra một số yêu cầu quan trọng sau đây:

Thứ nhất, cần nghiên cứu để hiểu sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người không chỉ qua các tác phẩm của Người mà còn phải nghiên cứu ngữ cảnh lịch sử, văn hóa và xã hội mà Người sống và làm việc.

Thứ hai, vận dụng linh hoạt vào thực tiễn: Phải biết vận dụng những nguyên tắc và giá trị cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người vào thực tiễn đời sống xã hội, kinh tế và chính trị hiện nay một cách linh hoạt và sáng tạo.

Thứ ba, liên tục cập nhật với xu hướng mới: Phải bảo đảm rằng việc nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người không bị lạc hậu, mà ngược lại phải liên tục cập nhật với xu hướng mới, với những thách thức và cơ hội mới của thời đại.

Thứ tư, tăng cường sáng tạo và đổi mới. Cần khuyến khích sự sáng tạo và đổi mới trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người, không ngừng tìm kiếm những cách tiếp cận mới, những phương pháp mới để thích nghi và phát triển trong bối cảnh mới.

Thứ năm, xây dựng thế hệ kế tiếp. Cần tạo điều kiện và môi trường để truyền bá và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người đến thế hệ trẻ, đảm bảo sự tiếp nối và phát triển bền vững của lý tưởng và tư tưởng này trong tương lai.

Thứ sáu, Đảng và Nhà nước tiếp tục quan tâm quán triệt chỉ đạo, tạo điều kiện để: (i) Nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người gắn với tăng cường nghiên cứu lý luận về quốc gia - dân tộc, dân tộc - quốc gia và các khía cạnh mở rộng chủ quyền, lợi ích chiến lược, không gian sinh tồn, trình độ phát triển của quốc gia - dân tộc; (ii) Nghiên cứu, vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo; (iii) Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong bối cảnh mới; (iv) Nghiên cứu, vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoàn thiện và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hoá và chuẩn mực con người gắn với phát huy ý chí, khát vọng phát triển và sức mạnh của con người Việt Nam trong thời kỳ mới; (v) Nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ; (vi) Nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng và phát huy sức mạnh tổng hợp và kinh tế, quốc phòng và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

“Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”.

- Chủ tịch Hồ Chí Minh- 


1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tr.48

 2 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4 (Sđd), tr.64

 3 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4 (Sđd), tr.175.

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất