|
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp và nói chuyện thân mật với đồng chí Kay-xỏn Phôm-vị-hản, Trưởng Đoàn đại biểu Đảng và Mặt trận Lào yêu nước sang thăm hữu nghị Việt Nam (1966).
|
Khởi nguồn quan hệ Việt Nam - Lào
Quan hệ
gắn bó Việt Nam - Lào được hình thành từ trong lịch sử giữa hai nước láng
giềng, cùng tựa lưng vào dãy Trường Sơn hùng vĩ, có những điểm tương đồng và sự
giao thoa về kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị. Nhân dân hai nước, nhất là ở
những vùng biên giới, đã thường xuyên nương tựa vào nhau, cưu mang đùm bọc lẫn
nhau, nhất là khi có thiên tai, địch họa hay khi phải chịu khói lửa chiến
tranh. Hai nước luôn giữ mối quan hệ bang giao hòa hiếu, gắn bó mật thiết qua
nhiều giai đoạn lịch sử. Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống lại ách
áp bức, bóc lột của thực dân Pháp, mặc dù các phong trào đấu tranh đều bị chính
quyền thực dân đàn áp, dập tắt, song nhân dân hai nước Việt Nam - Lào vẫn không
cam chịu mà luôn sát cánh bên nhau chiến đấu chống kẻ thù chung và nhờ đó, việc
xây dựng tình đoàn kết chiến đấu đã trở thành một nhu cầu tất yếu khách quan
của hai dân tộc.
Sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, sau là Đảng Cộng sản Đông Dương vào năm 1930
đánh dấu một bước ngoặt lịch sử vô cùng quan trọng đối với vận mệnh của hai dân
tộc Việt Nam và Lào: chấm dứt thời kỳ bế tắc về lý luận, đường lối và lực lượng
lãnh đạo phong trào đấu tranh vì độc lập, tự do của Việt Nam cũng như của Lào;
đồng thời, mở ra một trang sử rực rỡ, hào hùng, đoàn kết gắn bó trong quan hệ
đặc biệt giữa hai nước Việt Nam - Lào trong tinh thần quốc tế vô sản trong
sáng. Đây chính là nền móng vững chắc của quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam -
Lào mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là “kiến trúc sư” vĩ đại của tình đoàn kết đặc biệt
đó. Chủ tịch Kay-xỏn Phôm-vị-hản từng trân trọng viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh “Tư
tưởng và tình cảm của Bác Hồ là ngọn đuốc soi đường, là nguồn cổ vũ sức mạnh
đoàn kết đấu tranh của nhân dân các bộ tộc Lào chúng tôi. Từ ngày cách mạng Lào
còn trứng nước cho đến lúc đã trưởng thành, Bác Hồ luôn quan tâm dẫn đường chỉ
lối”.
Có thể
kể ra ba yếu tố cơ bản và quan trọng nhất định hình mối quan hệ đặc biệt và
liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào giai đoạn 1945-1975: Một là, hai nước có
hoàn cảnh lịch sử tương đồng, cùng chung mục tiêu và khát vọng giành lại độc
lập, tự do, cùng chung kẻ thù và cùng xác định con đường giải phóng dân tộc
theo đường lối cách mạng vô sản. Sự ra đời và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt
Nam (trong đó có một bộ phận hoạt động ở Lào) là một yếu tố cực kỳ quan trọng
góp phần tạo ra sự chuyển biến về chất của phong trào cách mạng Lào. Trưởng
thành trong phong trào đấu tranh cách mạng, nhiều người con ưu tú của
nhân dân Lào được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, trở thành những “hạt
giống đỏ” để từng bước xúc tiến thành lập Xứ bộ Ai Lao của Đảng Cộng sản
Đông Dương, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Lào. Ngày 9-9-1934, Ban
Chấp hành Đảng bộ lâm thời Ai Lao tại Lào đã được thành lập. Sự ra đời của
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2-9-1945) và Chính phủ Lào Ít-xạ-rạ (12-10-1945)
là cơ sở đưa tình đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa nhân dân hai nước Việt Nam -
Lào lên tầm liên minh chiến đấu.
Hai là,
ngay sau khi Việt Nam giành được chính quyền năm 1945, Chính phủ hai nước đã
ký kết Hiệp ước tương trợ Việt Nam - Lào và Hiệp định về tổ chức
liên quân Việt Nam - Lào vào ngày 16-10-1945, đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho sự
hợp tác, giúp đỡ và liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung của hai dân tộc Việt
Nam - Lào. Với quan điểm “Đông Dương là một chiến trường”, trong cuộc
kháng chiến chống kẻ thù chung của nhân dân hai nước Việt Nam - Lào giai đoạn
1945-1975, hai nước đã liên kết, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau, vừa thực
hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả, vừa vì lợi ích của mỗi quốc gia. Quan điểm “Chúng
tôi coi hạnh phúc và thịnh vượng của anh em Lào cũng như của mình” của Chủ
tịch Hồ Chí Minh cùng phương châm “giúp bạn là mình tự giúp mình” được
các thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước Việt Nam - Lào lĩnh hội, tiếp tục soi
rọi trong tiến trình lịch sử của hai dân tộc.
Ba là, sau
khi Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập năm 1945, Hoàng thân
Xu-pha-nu-vông đã có cuộc gặp gỡ lịch sử với Chủ tịch Hồ Chí Minh và gia nhập
Đảng Cộng sản Đông Dương, bắt đầu sự nghiệp cách mạng. Hoàng thân từng chia sẻ
trong hồi ký của mình rằng, cuộc tiếp kiến đầu tiên với Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
giúp Ông học được nhiều điều bổ ích, là một trong những ngày hệ trọng nhất
trong cuộc đời của mình, khiến Ông thay đổi tư duy, từ một Thái tử của Hoàng
gia Lào trở thành người chiến sĩ cách mạng để lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân
tộc Lào. Ngay từ khi đảm nhiệm chức vụ Bộ trưởng Ngoại giao và Tổng chỉ huy
quân đội trong Chính phủ Lào Ít-xạ-rạ, Hoàng thân Xu-pha-nu-vông đã chỉ rõ “Lào
và Việt Nam cùng chung một nguyện vọng duy nhất là có nền độc lập dân tộc và
quyền dân chủ thực sự, cùng chung kẻ thù là thực dân Pháp muốn trở lại thống
trị hai nước chúng ta. Do đó, nhân dân Lào và nhân dân Việt Nam anh em phải
đoàn kết nhau lại tiếp tục chiến đấu”. Đến khi trở thành Thủ tướng Chính
phủ kháng chiến Lào, kiêm Chủ tịch Mặt trận Lào yêu nước giữa năm 1950 và Chủ
tịch nước, Chủ tịch Hội đồng Nhân dân tối cao của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân Lào (tháng 12-1975), Hoàng thân Xu-pha-nu-vông tiếp tục lãnh đạo cách mạng
Lào bước sang trang sử mới và nâng mối quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào
lên tầm cao mới.
Chủ tịch Kay-xỏn Phôm-vị-hản ngay từ cuộc gặp đầu tiên với Chủ
tịch Hồ Chí Minh vào năm 1946 cho
đến khi đảm nhiệm trọng trách Tổng Bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Tổng
Tư lệnh các lực lượng vũ trang Pa-thét Lào tại Đại hội thành lập Đảng Nhân dân
Cách mạng Lào (tháng 4-1955) luôn luôn khẳng định
sự cần thiết phải đoàn kết giữa hai dân tộc và về xây dựng tổ chức, lực lượng
vũ trang đối với cách mạng Lào. Không chỉ vậy, khi phát biểu tại lễ kỷ niệm 100
năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (tháng 5-1990), Chủ tịch Kay-xỏn
Phôm-vị-hản đã nhấn mạnh “Để thực hiện di huấn của Bác Hồ, để xứng đáng với
xương máu của biết bao liệt sĩ, anh hùng, với bao nước mắt đau thương của những
bà mẹ, người chị, bao công sức và tâm huyết của đồng bào, đồng chí hai nước
chúng ta, chúng tôi nguyện cùng nhân dân Việt Nam giữ gìn mãi mãi tình đoàn kết
đặc biệt đó. Từ thế hệ này sang thế hệ khác, tình đoàn kết chân thành đó mãi
mãi là truyền thống quý báu của nhân dân hai nước Việt - Lào, mà không một kẻ
thù nào có thể phá vỡ nổi”.
Cách
đây 60 năm, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam và Lào
bước vào giai đoạn khó khăn, ác liệt, đế quốc Mỹ tăng cường viện trợ, giúp
chính quyền Viêng-chăn tiến công lấn chiếm vùng giải phóng, đồng thời ra sức
phá hoại Chính phủ liên hiệp, cô lập và vu cáo tổ chức Mặt trận Lào yêu nước,
nhưng với những thắng lợi quan trọng cả về chính trị, quân sự, ngoại giao của
cách mạng Lào, Hiệp định Giơ-ne-vơ 1962 về Lào đã được ký kết vào ngày 23-7-1962,
mở ra một thời kỳ phát triển mới cho cách mạng hai nước Lào và Việt Nam. Sau
Hiệp định Giơ-ne-vơ, thực hiện cam kết của mình, Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam quyết định rút toàn bộ quân tình nguyện và đại bộ phận chuyên gia quân sự
về nước. Đây cũng là lúc Chính phủ liên hiệp Lào thiết lập quan hệ ngoại giao
với nhiều nước, trong đó có Việt Nam (5-9-1962), đánh dấu một cột mốc quan
trọng trong lịch sử quan hệ Việt Nam-Lào thời kỳ hiện đại. Ngay sau khi thiết
lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, Hoàng thân Xu-pha-nu-vông nói “Sau khi
đặt quan hệ ngoại giao với các nước, chúng ta có thêm nhiều bạn bè, nhưng người
bạn cùng sống chết, chung một chiến hào với ta chỉ có Việt Nam”. Kể từ đó,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân hai nước Việt Nam-Lào anh em càng gắng sức
hỗ trợ nhau, kề vai sát cánh trong công cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung. Trên
đà những thắng lợi đã giành được, Lào đã tổ chức thành công Đại hội quốc dân
tại Viêng-chăn ngày 2-12-1975, lập ra nước CHDCND Lào, mở ra kỷ nguyên mới cho
đất nước và nhân dân các dân tộc Lào.
Đồng hành vượt qua khó khăn
Sau năm
1975, quan hệ Việt Nam và Lào bước sang một trang hoàn toàn mới: từ liên minh
chiến đấu chung một chiến hào sang hợp tác toàn diện giữa hai quốc gia có độc
lập, chủ quyền. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân
cách mạng Lào, nhân dân hai nước càng có điều kiện phát huy truyền thống tốt
đẹp đã từng gắn bó keo sơn trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, xây dựng
và tăng cường quan hệ hợp tác toàn diện về chính trị, quốc phòng - an ninh, kinh
tế, văn hoá, giáo dục,...
Tuy
nhiên, quan hệ đặc biệt giữa Việt Nam và Lào giai đoạn này đối diện với những
khó khăn không nhỏ. Hai nước đều phải ra sức khắc phục hậu quả nặng nề của cuộc
chiến tranh kéo dài 30 năm; nền kinh tế của Việt Nam và Lào về cơ bản đều là
nền kinh tế nông nghiệp có trình độ canh tác, năng suất và sản lượng rất thấp;
tư duy lãnh đạo kinh tế còn mang nặng tính tập trung bao cấp từ thời chiến...
Tình hình quốc tế lại có những chuyển biến phức tạp. Các thế lực thù địch trong
nước và bên ngoài câu kết, tìm cách chia rẽ Lào với Việt Nam, Việt Nam với Lào.
Tình
hình đó đặt ra yêu cầu phải phát triển và thắt chặt quan hệ đặc biệt hai nước
Việt Nam và Lào phù hợp với chuyển biến của thời cuộc. Do vậy, ngày 30-4-1976,
Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam ra Nghị quyết về tăng cường giúp đỡ và
hợp tác với cách mạng Lào trong giai đoạn mới, xác định việc tăng cường
đoàn kết, giúp đỡ, hợp tác đối với Lào là một trong những nhiệm vụ quốc tế hàng
đầu của Đảng và nhân dân Việt Nam.
Từ ngày
15 đến 18-7-1977, Đoàn đại biểu cao cấp Đảng và Chính phủ Việt Nam do Tổng Bí
thư Lê Duẩn và Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu sang thăm hữu nghị chính thức
Lào. Hai bên đã trao đổi ý kiến về các vấn đề quốc tế quan trọng hai bên cùng
quan tâm, cũng như các vấn đề nhằm phát triển mối quan hệ hữu nghị, hợp tác
giữa Đảng, Chính phủ và nhân dân hai nước trên cơ sở đáp ứng nguyện vọng thiết
tha và lợi ích sống còn của hai dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc
và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngày 18-7-1977, hai nước chính thức ký kết Hiệp
ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa dân
chủ nhân dân Lào. Đây là Hiệp ước toàn diện, mang tính chiến lược lâu dài, tạo
cơ sở chính trị và pháp lý quan trọng để củng cố và tăng cường tình đoàn kết,
mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào. Hiệp ước nêu rõ “Hai bên cam kết ra sức
bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, không ngừng tăng
cường tình đoàn kết và tin cậy lẫn nhau, sự hợp tác lâu dài và giúp đỡ lẫn nhau
về mọi mặt trên tinh thần của chủ nghĩa quốc tế vô sản và theo nguyên
tắc hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, không can thiệp vào công việc
nội bộ của nhau”. Việc ký kết hiệp ước là cột mốc lịch sử quan trọng
trong quan hệ giữa hai nước, đồng thời có ý nghĩa quan trọng, nêu cao tinh thần
quốc tế trong sáng giữa hai nước đang cùng hướng tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội
và phát huy ảnh hưởng tích cực trong khu vực.
Vượt
qua muôn vàn khó khăn do hậu quả chiến tranh để lại, trước sự bao vây, cấm vận
và chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch nhưng hai nước vẫn dành cho
nhau sự giúp đỡ to lớn về mọi mặt trong những ngày đầu giành chính quyền cách
mạng. Mối quan hệ sắt son, thủy chung trong sáng đó đã hun đúc ý chí, quyết tâm
của Đảng, Chính phủ và nhân dân hai nước, là nền tảng vững chắc để trên chặng
đường mới, nhân dân hai nước lại cùng nhau “chia ngọt sẻ bùi”, cùng kề
vai sát cánh bên nhau, đưa công cuộc xây dựng và phát triển mỗi nước sánh vai
cùng các nước và vun đắp cho quan hệ đặc biệt Việt - Lào trường tồn cùng năm
tháng.
Đẩy mạnh hợp tác toàn diện
Trong
chuyến thăm nước ngoài đầu tiên trên cương vị Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào nhiệm kỳ 2021-2026, nhìn lại truyền thống quan hệ đặc
biệt giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam - Lào, đồng chí
Thoong-lun Xỉ-xu-lít đã khẳng định: “Trong giai đoạn cùng chiến đấu khốc
liệt, hàng chục nghìn quân tình nguyện Việt Nam đã gác lại gia đình, họ hàng,
quê hương của mình, cùng nhau vác súng, đeo ba lô hành quân vượt dãy Trường Sơn
hùng vĩ sang nước Lào chúng tôi thực hiện nghĩa vụ quốc tế cùng quân đội và
nhân dân Lào đấu tranh chống thực dân kiểu cũ và mới... Sự gian khổ, sự kiên
cường và sự hy sinh của cán bộ, chiến sĩ hai nước chúng ta trước đây đã để lại
di sản quý báu, đó là đất nước Lào, Việt Nam độc lập, tự do, toàn vẹn lãnh thổ;
nhân dân có cuộc sống yên bình trên Tổ quốc mến yêu...”.
Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định “Chúng ta vô cùng tự hào về mối quan hệ
đặc biệt Việt Nam - Lào không ngừng phát triển và đơm hoa kết trái. Mối quan hệ
này đã trở thành quy luật phát triển, là nhân tố quan trọng bảo đảm thắng lợi
của sự nghiệp cách mạng của mỗi nước và là tài sản chung vô giá của hai Đảng,
hai dân tộc mà thế hệ hôm nay cần giữ gìn, bảo vệ, vun đắp và truyền tiếp cho
muôn đời con cháu mai sau”. Vì vậy, “chúng tôi nguyện sẽ làm hết sức
mình cùng với Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào bảo vệ, giữ gìn và vun đắp mối
quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào ngày càng phát triển mạnh mẽ, thiết thực, hiệu
quả trên tất cả các lĩnh vực, vì sự phồn vinh và hạnh phúc của nhân dân hai
nước, vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới”.
Nhìn
lại chặng đường phát triển quan hệ ngoại giao hai nước hơn 60 năm qua, chúng ta
đều có quyền tự hào khi nhận thấy, dưới ánh sáng soi đường của Đảng Cộng sản
Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, tình đoàn kết đặc biệt thủy chung và
sự hợp tác toàn diện Việt-Lào đã và đang được Đảng, Chính phủ và các tầng lớp
nhân dân hai nước củng cố, đổi mới và phát triển sâu rộng, góp phần thiết thực
vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ tổ quốc và phát triển của mỗi nước. Mỗi bước
tiến của hai nước, hai dân tộc ngày hôm nay đều ghi nhận ở đó sự đóng góp tích
cực của hai bên, làm cho quan hệ đặc biệt Việt - Lào ngày càng keo sơn, bền chặt
và không ngừng đơm hoa kết trái. Chính từ ý nghĩa đó, sự hợp tác toàn diện giữa
hai nước trong những năm qua đã giành được những thành tựu to lớn. Nội dung hợp
tác ngày càng thực chất, sâu rộng, hiệu quả hơn và không ngừng phát triển toàn
diện trên các lĩnh vực. Chúng ta vui mừng nhận thấy quan hệ chính trị ngày càng
được củng cố vững chắc, giữ vai trò nòng cốt, định hướng trong tổng thể quan hệ
hợp tác Lào - Việt Nam. Hai bên đã xây dựng được cơ chế gặp gỡ cấp cao thường
xuyên, tạo điều kiện để tăng cường trao đổi và thống nhất các vấn đề chiến lược
cũng như xử lý những tình huống, vấn đề mới nảy sinh. Đặc biệt ngay cả trong
giai đoạn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong công tác phòng chống đại
dịch Covid-19, nhờ sự phối hợp linh hoạt và hình thức đa dạng, nhiều thỏa thuận
quan trọng mang tính chiến lược, định hướng cho quan hệ hai nước duy trì được
tiến độ và bảo đảm hiệu quả. Hợp tác về lý luận giữa hai Đảng đã giúp mỗi nước
học được kinh nghiệm của nhau trên con đường phát triển đất nước và xây dựng xã
hội chủ nghĩa ở mỗi nước.
|
Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc trao mô hình Toà Nhà Quốc hội mới cho Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Thoong-lun Xỉ-xu-lít - biểu tượng của mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, tình đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Lào (10-8-2021). Ảnh TTXVN.
|
Hợp
tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa hai nước về quốc phòng-an ninh thực sự là trụ cột
ngày càng vững chắc cả quan hệ Việt Nam - Lào, góp phần quan trọng trong việc giữ
vững ổn định, an ninh chính trị mỗi nước. Trong thời gian qua, mối quan hệ hợp
tác truyền thống vẻ vang giữa hai quân đội được phát huy ngày càng chặt chẽ,
hiệu quả, thiết thực, đi vào chiều sâu trên mọi lĩnh vực, góp phần bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ mỗi
nước, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định sự nghiệp xây dựng và phát
triển của hai nước, góp phần bảo vệ hòa bình, ổn định ở khu vực và thế giới.
Đồng thời, hai nước hợp tác hiệu quả trong việc ngăn chặn, phòng chống các loại
tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm ma túy.
Hợp tác
kinh tế, đầu tư, thương mại, văn hóa, khoa học kỹ thuật tiếp tục được mở rộng
và đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả hơn. Việt Nam tiếp tục là một trong
những nhà đầu tư lớn nhất tại Lào. Nhiều dự án viện trợ của Chính phủ Việt Nam
cho Lào và dự án đầu tư, thương mại của các doanh nghiệp Việt Nam triển khai
tốt và hiệu quả cao, góp phần quan trọng phát triển kinh tế Lào, tạo nhiều công
ăn việc làm và gia tăng thu nhập cho người dân. Nhiều doanh nghiệp thực hiện
tốt công tác an sinh xã hội, giúp xây dựng nhiều công trình phúc lợi xã hội, hỗ
trợ tốt công tác xóa nghèo và nâng cao hiểu biết cho người dân. Việc kết nối
hai nền kinh tế, nhất là kết nối hạ tầng, giao thông vận tải được đẩy mạnh;
tăng cường hợp tác năng lượng. Thành quả nổi bật có ý nghĩa chiến lược lớn là
Việt Nam đã tạo điều kiện để nước Lào anh em có đường ra biển, mở ra hướng phát
triển kinh tế mới cho Lào. Món quà chân thành mà Đảng, Chính phủ và nhân dân
Việt Nam dành cho Đảng, Chính phủ và nhân dân Lào một công trình vĩ đại được
Tổng bí thư, Chủ tịch nước Lào Thoong-lun Xỉ-xu-lít đánh giá có bốn “điểm nhất”:
“hiện đại nhất, hài hòa bản sắc dân tộc nhất, vững chắc nhất, có giá tri đầu tư
lớn nhất” in bóng bên Quảng trường Thạt-luổng linh thiêng, trở thành một biển
biểu tượng lớn cho quan hệ Việt Nam - Lào.
Hợp tác
giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực nhận được sự quan tâm đặc biệt của hai Đảng,
hai Chính phủ và là một lĩnh vực đang trên đà phát triển tích cực, hiệu quả
trong hợp tác hai nước; không chỉ ở cấp độ Chính phủ mà ngày càng mở rộng đến
cấp bộ, ngành và địa phương. Song song với sự hỗ trợ, giúp đỡ của Việt Nam dành
cho Lào trong lĩnh vực này, Việt Nam đang tăng cường giúp đỡ Lào xây dựng cơ sở
vật chất trường học, biên soạn giáo trình giảng dạy ở các bậc từ phổ thông đến
cao đẳng, đại học và hợp tác nghiên cứu khoa học. Cùng với các đồng nghiệp Lào,
nhiều giáo viên Việt Nam đã được cử sang giảng dạy tiếng Việt trong các trường
nội trú, các cơ quan, tổ chức Nhà nước của Lào. Với điều kiện cơ sở vật chất,
trang thiết bị khá đồng bộ, đội ngũ giáo viên có năng lực, chất lượng dạy và
học ở các trường phổ thông dân tộc nội trú đã được Bộ Giáo dục và Thể thao Lào
đánh giá tốt. Ngày càng nhiều cán bộ các cơ quan, tổ chức của Lào sử dụng hiệu
quả tiếng Việt trong giao tiếp và xử lý công việc, góp phần tích cực trong công
tác phối hợp nhanh, hiệu quả trong quan hệ hợp tác với Việt Nam và đã được các
lãnh đạo Lào đánh giá cao và tin tưởng. Thời gian qua, hàng chục nghìn học
sinh, sinh viên Lào đã và đang học tập, nghiên cứu tại Việt Nam và hàng nghìn
lưu học sinh Việt Nam đang học tập tại Lào. Nhiều con em các dân tộc Lào sau
khi học tập ở Việt Nam về nước, đã có đóng góp tốt cho Đảng và Chính phủ Lào,
đóng góp tích cực vào mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào.
Song
song với đó, quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa các ban Đảng, các ủy ban
của Quốc hội, các bộ, ngành và các tổ chức quần chúng và nhân dân hai nước ngày
càng được phát triển rất mạnh mẽ, đem lại nhiều kết quả thiết thực cho hai bên.
Hợp tác phát triển không chỉ giữa các tỉnh có chung đường biên giới hay các
tỉnh kết nghĩa mà còn được mở rộng giữa các tỉnh khác của hai nước giúp cho hợp
tác và hỗ trợ lẫn nhau giữa hai nước ngày càng sâu rộng, toàn diện và hiệu quả
hơn.
Không
chỉ gia tăng hợp tác trong khuôn khổ song phương, Việt Nam và Lào còn ngày càng
chú trọng tăng cường hợp tác, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau trên các diễn khu vực và
quốc tế như: Liên hợp quốc, Tổ chức Cộng đồng Pháp ngữ, ASEAN, AIPO, ASEM, GMS,
CLV, CLMV... Tại đây, hai bên đã góp phần gìn giữ hòa bình thế giới, an ninh,
ổn định ở các khu vực, đặc biệt ở châu Á, Đông Nam Á, gia tăng hợp tác quốc tế…
Hai nước đã phối hợp tốt thúc đẩy triển khai các hoạt động nhằm tăng cường hợp
tác Tiểu vùng Mekong mở rộng, thu hẹp khoảng cách phát triển và đồng hành góp
phần xây dựng Cộng đồng ASEAN gắn kết, hợp tác tốt tại các tổ chức như Ủy hội
sông Mekong quốc tế, Ủy ban liên chính phủ ASEAN về nhân quyền (AICHR). Cơ chế
thường xuyên tham khảo lẫn nhau về các vấn đề quan tâm được củng cố, bảo đảm
hiệu quả hợp tác trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, anh em đồng chí
thân thiết, tin cậy. Sự phối hợp chặt chẽ, toàn diện trên các diễn đàn đa
phương giữa Việt Nam và Lào đã góp phần quan trọng nâng cao vai trò và vị thế
của mỗi nước trên trường quốc tế và khu vực.
Thời
gian tới, mặc dù tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp và
khó lường, tác động lớn đến mỗi nước và quan hệ hai nước Việt Nam - Lào theo cả
chiều tiêu cực và tích cực. Song với những kết quả đáng tự hào mà hai nước đã
đạt được trong suốt thời gian qua, chúng ta hoàn toàn có cơ sở để khẳng định
mối quan hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai Đảng,
hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam - Lào sẽ tiếp tục phát triển, năng
động, hiệu quả và thiết thực hơn. Trong quá trình phát triển đó, có sự đóng góp
hết sức quan trọng của Bộ Ngoại giao hai nước Việt Nam và Lào, dưới sự lãnh đạo
của hai Đảng, hai Nhà nước và sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân hai nước. Quan
hệ đặc biệt Việt Nam - Lào trong lĩnh vực đối ngoại chắc chắn sẽ không ngừng
được củng cố, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và phát triển ở mỗi
nước và đưa mối quan hệ đặc biệt hiếm có giữa hai nước lên tầm cao mới.
Tại Lễ
kỷ niệm 60 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Lào (1962-2022)
và 45 năm Ngày ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác giữa hai nước (1977-2022) vào
tháng 7 vừa qua tại thủ đô Viêng-chăn, Đồng chí Tổng Bí thư - Chủ tịch nước
Thoong-lun Xỉ-xu-lít đã chia sẻ về 4 chữ tình vô cùng đáng quý giữa Việt Nam và
Lào, đó là: Tình đồng chí cùng chung lý tưởng cộng sản; Tình anh em cùng chung
một cha mẹ là Đảng Cộng sản Đông Dương; Tình bạn là những người bạn thân thiết,
vui buồn có nhau; và Tình đoàn kết đặc biệt, keo sơn gắn bó, thủy chung son
sắt. Đó chính là đánh gía hết sức có ý nghĩa về nguồn gốc và chặng đường phát
triển của mối tình đoàn kết Việt Nam - Lào trong hơn 60 năm qua.