Hội nghị giao ban công tác tổ chức xây dựng đảng các tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc
Toàn cảnh Hội nghị.

Khu vực miền Bắc có 28, tỉnh, thành phố, đến tháng 6-2014, toàn khu vực có 515 đảng bộ trực thuộc tỉnh ủy, thành ủy; 158.127 TCCSĐ (24.853 đảng bộ cơ sở, 133.274 chi bộ cơ sở), với 2.332.718 đảng viên. 6 tháng đầu năm 2014, với tinh thần nỗ lực phấn đấu, chủ động khắc phục khó khăn, các ban tổ chức cấp uỷ các cấp khu vực phía Bắc đã tham mưu cấp uỷ triển khai kịp thời, thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm và cấp bách, đồng thời triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ thường xuyên của Ngành tổ chức xây dựng Đảng với yêu cầu cao và khối lượng công việc lớn:

Về thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.

Các cấp ủy và tổ chức đảng trong khu vực đã sơ kết 2 năm thực hiện Nghị quyết; đồng thời, tích cực chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chương trình, kế hoạch, nhất là có các giải pháp khắc phục, sửa chữa những yếu kém, khuyết điểm hằng năm gắn với việc thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW, ngày 14-5-2011 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Việc tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết và các chỉ thị, kế hoạch, hướng dẫn của Trung ương một cách nghiêm túc ở các cấp đã giúp các cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng; thấy rõ tính cấp bách và sự cần thiết phải tiếp tục đổi mới và chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh. Nhiều vấn đề nổi cộm, bức xúc đã được giải quyết dứt điểm. Đa số các tỉnh ủy, thành ủy sau kiểm điểm đã sửa đổi quy chế làm việc; phân cấp quản lý, rà soát, bổ sung các văn bản, quy định làm rõ chức năng, nhiệm vụ và có nhiều đổi mới trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành... Bên cạnh những  kết quả đạt được, vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, khuyết điểm: Trong kiểm điểm, tự phê bình và phê bình nhiều cấp ủy, tổ chức đảng còn nể nang, né tránh, ngại va chạm. Một số nơi trong kiểm điểm còn nặng về đánh giá tình hình nhiệm vụ, công tác chuyên môn, chưa đi sâu làm rõ những hạn chế, khuyết điểm theo ba vấn đề cấp bách nêu trong Nghị quyết, nhất là suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Một số cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên chưa nhìn nhận đúng mức và xác định trách nhiệm cá nhân trước những yếu kém, khuyết điểm của tập thể, những vấn đề thuộc phạm vi, lĩnh vực của mình được phân công phụ trách. Việc đề ra kế hoạch, giải pháp sửa chữa, khắc phục khuyết điểm của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa cụ thể, có nơi còn chậm, chưa thật sự quyết liệt. Một số nơi, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh còn hình thức, chưa đi vào chiều sâu và trở thành nền nếp thường xuyên của cán bộ, đảng viên.

Triển khai thực hiện Kết luận số 64-KL/TW, ngày 28-5-2013 của BCH Trung ương (khóa XI) “Một số vấn đề tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở”.

Các ban tổ chức tỉnh ủy, thành ủy đã tham mưu cấp ủy ban hành chương trình hành động, đề án, kế hoạch triển khai thực hiện; đồng thời tham mưu chỉ đạo, hướng dẫn các cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị trực thuộc triển khai tổ chức thực hiện. Trong đó, tập trung nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức chính trị xã, phường, thị trấn. Rà soát, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy định về quản lý cán bộ, công chức. Phân cấp quản lý cán bộ, bổ nhiệm cán bộ và giới thiệu cán bộ ứng cử; tăng cường tính công khai, minh bạch, trách nhiệm trong hoạt động công vụ. Xây dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý gắn với tiêu chí đánh giá để làm căn cứ cho đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ. Xây dựng chế độ, chính sách phù hợp để thu hút người có trình độ cao về địa phương công tác; tạo nguồn cán bộ có chất lượng, nhất là cấp cơ sở. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức gắn đào tạo, bồi dưỡng theo chức danh; tăng cường cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ người dân tộc thiểu số. Thực hiện thi tuyển các chức danh lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện (Quảng Ninh, Thanh Hoá, Ninh Bình, Thái Bình, Hải Phòng, Hà Nội, Hà Giang, Hà Tĩnh, Sơn La, Phú Thọ…).

Công tác tham mưu cấp ủy trong thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định, hướng dẫn của Trung ương về công tác tổ chức xây dựng đảng.

Các ban tổ chức tỉnh ủy, thành ủy đã tích cực, chủ động và phối hợp các ban đảng tham mưu giúp BTV cấp ủy xây dựng chương trình, kế hoạch công tác, nhằm thực hiện các nghị quyết, quy định, hướng dẫn của Trung ương về công tác tổ chức xây dựng đảng; phối hợp có hiệu quả với các đoàn kiểm tra, khảo sát của Trung ương về thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định, hướng dẫn của Trung ương, phục vụ cho công tác chuẩn bị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII và tổng kết 30 năm đổi mới. Tham mưu cấp ủy triển khai thực hiện thí điểm chủ trương của Trung ương về bố trí tăng thêm chức danh phó bí thư, phó chủ tịch UBND cấp tỉnh, cấp huyện ở 16/17 địa phương (17 phó bí thư, 11 phó chủ tịch UBND tỉnh, thành phố; 52 phó bí thư, 72 phó chủ tịch UBND cấp huyện). Bố trí một số chức danh cán bộ chủ chốt không phải là người địa phương: Cấp huyện là 130, cấp xã là 929 đồng chí.

                             

Thực hiện nhiệm vụ thường xuyên.

Về công tác tổ chức: Các ban tổ chức tỉnh ủy, thành ủy đã tham mưu cấp ủy tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của các cơ quan đảng, đoàn thể; thành lập mới và điều chỉnh lại chức năng, nhiệm vụ của một số tổ chức, cơ quan, đơn vị trực thuộc cho phù hợp: Kiện toàn cơ quan Văn phòng Tỉnh ủy và các ban xây dựng Đảng theo Quy định số 219-QĐ/TW của Ban Bí thư; chỉ đạo ban thường vụ các huyện, thị ủy thực hiện Quy định số 220-QĐ/TW của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc huyện ủy, quận ủy, thị ủy, thành ủy. Kiện toàn tổ chức bộ máy Ban Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ tỉnh; cơ quan Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh.

Về công tác cán bộ: Thực hiện Quyết định số 286-QĐ/TW của Bộ Chính trị và Hướng dẫn số 22-HD/BTCTW ngày 04-11-2013 của Ban Tổ chức Trung ương, các ban tổ chức tỉnh ủy, thành ủy đã tham mưu cấp uỷ chỉ đạo, hướng dẫn, các cấp ủy, các cơ quan ban, ngành, đơn vị trực thuộc tiến hành kiểm điểm, tự phê bình và phê bình năm 2013. Nhìn chung, công tác kiểm điểm, đánh giá cán bộ được thực hiện nghiêm túc, khách quan, việc đánh giá xếp loại đối với từng cá nhân đồng chí uỷ viên BTV tỉnh uỷ, thành ủy được thực hiện bằng hình thức bỏ phiếu kín. Trong tổng số 421 đồng chí tham gia kiểm điểm có 356 hoàn thành xuất sắc chức trách, nhiệm vụ, chiếm 84,5% (năm 2012 là 87%); 62 hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ, chiếm 14,7% (năm 2012 là 12%) và 03 hoàn thành nhiệm vụ (năm 2012 có 02 đồng chí hoàn thành nhiệm vụ).

Các ban tổ chức tỉnh ủy, thành ủy đã tham mưu cấp uỷ rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ nhiệm kỳ 2010-2015 và nhiệm kỳ 2015-2020 đảm bảo đúng quy trình, dân chủ, công khai, từng bước nâng cao chất lượng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương; nguồn bổ sung quy hoạch phong phú, đa dạng hơn, bảo đảm cơ cấu cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số… Đến hết tháng 6-2014, 13/28 tỉnh, thành phố hoàn thành việc rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch BCH, BTV tỉnh ủy, thành ủy và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của tỉnh, thành phố nhiệm kỳ 2010-2015 và nhiệm kỳ 2015-2020.

Trên cơ sở quy hoạch cán bộ, nhiều tỉnh uỷ, thành uỷ đã thực hiện luân chuyển  để đào tạo, rèn luyện cán bộ, chuẩn bị trước một bước công tác nhân sự phục vụ cho việc củng cố, kiện toàn trong nhiệm kỳ 2010-2015 và chuẩn bị nhân sự cho Đại hội Đảng các cấp, nhiệm kỳ 2015-2020. Kết quả, 6 tháng đầu năm 2014, các địa phương trong khu vực đã thực hiện luân chuyển trên 200 lượt cán bộ diện BTV tỉnh uỷ, thành uỷ quản lý.

Công tác nhân sự thường xuyên được các tỉnh uỷ, thành uỷ thực hiện kịp thời, đúng nguyên tắc, thẩm quyền, quy trình, quy định về phân cấp quản lý cán bộ, góp phần củng cố, kiện toàn, bổ sung đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp, các ngành. 6 tháng đầu năm 2014, trong toàn khu vực đã bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, điều động và giới thiệu ứng cử trên 600 lượt cán bộ thuộc diện BTV tỉnh uỷ, thành uỷ quản lý. Thực hiện quy trình bổ sung 29 đồng chí ủy viên BCH đảng bộ tỉnh, bầu bổ sung 22 đồng chí ủy viên BTV tỉnh ủy. Kiện toàn các chức danh cán bộ lãnh đạo diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý từ nguồn nhân sự tại chỗ trong quy hoạch.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được các tỉnh uỷ, thành uỷ quan tâm. 6 tháng đầu năm, đã cử 357 đồng chí đi học sau đại học, hơn 6.000 đồng chí học lý luận chính trị, nhiều đồng chí được cử đi bồi dưỡng kiến thức an ninh - quốc phòng và chuyên môn, nghiệp vụ. Có 5/28 tỉnh, thành uỷ tổ chức lớp đào tạo, bồi dưỡng nguồn cán bộ được quy hoạch BCH đảng bộ tỉnh và các chức danh chủ chốt của tỉnh, nhiệm kỳ 2015-2020, theo mô hình lớp đào tạo nguồn cán bộ của Trung ương Tiếp tục thực hiện đề án đào tạo cán bộ có trình độ chuyên môn cao tại nước ngoài bằng ngân sách của địa phương.

Công tác chính sách cán bộ luôn được các tỉnh ủy, thành ủy chú trọng, thực hiện kịp thời, bảo đảm đúng quy định về nâng lương, chuyển ngạch, nghỉ hưu, tuyển dụng, chế độ thăm, trợ cấp ốm đau đối với cán bộ diện ban thường vụ cấp ủy quản lý. 6 tháng đầu năm, đã xét, công nhận 456 trường hợp người hoạt động cách mạng theo Hướng dẫn số 30-HD/BTCTW của Ban Tổ chức Trung ương.

Công tác cơ sở đảng và đảng viên: Trên cơ sở các chỉ thị, hướng dẫn của Trung ương, việc đánh giá chất lượng TCCSĐ và đảng viên ngày càng phản ánh thực chất hơn. Năm 2013, có 24.693/24.853 TCCSĐ được đánh giá, phân loại (bằng 99,35% tổng số TCCSĐ trong khu vực). Trong đó, có 18.704 TCCSĐ trong sạch, vững mạnh (75,7%); 4.585 TCCSĐ hoàn thành tốt nhiệm vụ (18,6%); 1.311 TCCSĐ hoàn thành nhiệm vụ (5,3%) và  93 TCCSĐ yếu kém (0,4%). Có 2.084.496/2.332.718 đảng viên được đánh giá, phân loại (bằng 89,36% ). Trong đó, 278.455 đảng viên đủ tư cách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ (13,36%), 1.493.158 đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ (71.63%), 300.827 đủ tư cách, hoàn thành nhiệm vụ (14,43%) và 12.056 đảng viên vi phạm tư cách hoặc không hoàn thành nhiệm vụ (0,58%). Có 02 đảng bộ có tỷ lệ đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên 15% tổng số đảng viên được đánh giá là: Thanh Hoá 22.1%; Sơn La 15,38%.

Đến tháng 6-2014, toàn khu vực đã kếp nạp hơn 30.000 đảng viên; trong đó nhiều đảng viên là học sinh, sinh viên, người dân tộc thiểu số, trí thức, nữ, góp phần nâng cao chất lượng, trẻ hoá đội ngũ đảng viên. Một số ban tổ chức tham mưu cấp ủy ban hành chỉ thị, kế hoạch, đề án giảm dần số cơ quan, đơn vị, thôn, bản, tổ dân phố chưa có tổ chức đảng và đảng viên. Nhiều tỉnh, thành ủy thực hiện Hướng dẫn số 17-HD/BTCTW, ngày 30-01-2013 của Ban Tổ chức Trung ương về việc thực hiện thí điểm việc kết nạp những người là chủ doanh nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩn vào Đảng. Hầu hết các địa phương trong khu vực đã thực hiện tốt việc tặng, truy tặng Huy hiệu Đảng vào dịp 3-2 và 19-5 cho 36.483 đồng chí; phát thẻ cho 13.212 đảng viên.

Công tác bảo vệ chính trị nội bộ, được các cấp ủy đảng triển khai thực hiện nghiêm túc. Thẩm tra, xác minh, đánh giá, tham mưu kết luận về vấn đề lịch sử chính trị và chính trị hiện nay phục vụ công tác rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ nhiệm kỳ 2010 - 2015; nhiệm kỳ 2015 - 2020; phục vụ đề bạt, bổ nhiệm, tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; công tác phát triển đảng viên mới và giải quyết những đơn thư khiếu nại, tố cáo của cán bộ, đảng viên. 6 tháng đầu năm, đã có trên 2.500 lượt cán cán bộ được thẩm tra, xác minh, thẩm định tiêu chuẩn chính trị.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong công tác tổ chức xây dựng Đảng vẫn còn một số khó khăn, hạn chế cần khắc phục, đó là: Việc tham mưu tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) nhìn chung chưa tạo được chuyển biến rõ nét, vẫn còn một số cấp ủy đảng chưa thực sự quan tâm thường xuyên và đúng mức; chưa thực sự kiên quyết, kiên trì trong chỉ đạo, xử lý một số vụ việc nổi cộm, còn có biểu hiện đánh giá chưa thật sự khách quan, còn  nể nang, ngại va chạm; các giải pháp khắc phục ở một số nơi còn chung chung, chưa cụ thể, chưa xác định được vấn đề phải sửa chữa, khắc phục ngay. Một số địa phương chậm xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện Kết luận số 64-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI).

Công tác tổ chức, cán bộ chưa có những giải pháp mới mang tính đột phá; việc rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch cán bộ vẫn còn lúng túng, chưa thống nhất; luân chuyển cán bộ còn chậm và chưa đồng bộ; chất lượng cán bộ ở một số lĩnh vực còn bất cập; tỷ lệ cán bộ nữ, trẻ còn thấp, năng lực của đội ngũ cán bộ ở cơ sở còn hạn chế. Chính sách cán bộ chưa thật phù hợp. Công tác tuyển dụng cán bộ, công chức có nơi còn phát sinh tiêu cực, nặng về bằng cấp, chưa có nhiều hình thức tuyển dụng phù hợp để lựa chọn người tài.

Một số cấp uỷ cấp trên trực tiếp chưa kiên quyết chỉ đạo xây dựng kế hoạch cụ thể để củng cố, kiện toàn TCCSĐ yếu kém; công tác phát triển đảng viên còn gặp nhiều khó khăn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng đồng bào có đạo và trong các doanh nghiệp ngoài khu vực Nhà nước; chất lượng đảng viên chưa đa dạng về thành phần, phát triển đảng viên là công nhân, nông dân, người dân tộc thiểu số, người sản xuất kinh doanh giỏi còn hạn chế; việc đánh giá chất lượng TCCSĐ và đảng viên ở một số nơi chưa được kiểm tra, giám sát chặt chẽ, còn biểu hiện chiếu cố, chạy theo thành tích; tỷ lệ TCCSĐ trong sạch, vững mạnh, trong sạch vững mạnh tiêu biểu và tỷ lệ đảng viên đủ tư cách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của một số địa phương vượt quá tỷ lệ quy định của Trung ương.

Nhiều cấp uỷ, chi bộ chưa thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt định kỳ, nội dung nghèo nàn, sinh hoạt chuyên đề còn ít, chất lượng chưa cao. Tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt chi bộ ở nhiều nơi còn yếu, chưa thực chất, chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra.

Việc nắm tình hình chính trị nội bộ còn khó khăn, nhất là vấn đề chính trị hiện nay, công tác nắm tình hình để tham mưu cho cấp uỷ các cấp trong xử lý vấn đề chính trị hiện nay vẫn còn bị động, lúng túng. Một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa quan tâm chỉ đạo đúng mức công tác này; chậm kiện toàn tổ chức, bổ sung cán bộ làm công tác bảo vệ chính trị nội bộ.

Việc tổ chức triển khai thực hiện sơ kết, tổng kết các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương ở một số nơi chưa sâu hoặc nội dung báo cáo chưa đạt yêu cầu về chất lượng, chưa đảm bảo tiến độ thời gian quy định.

Tại Hội nghị, đại diện lãnh đạo các ban tổ chức tỉnh, thành ủy nêu nhiều ý kiến thiết thực, những vấn đề đang quan tâm về công tác tổ chức xây dựng đảng ở cơ sở và trao đổi, thảo luận xung quanh vấn đề chuẩn bị đại hội đảng bộ các cấp. Lãnh đạo các vụ, đơn vị của Ban Tổ chức Trung ương trao đổi, giải đáp một số nội dung về chính sách cán bộ, việc thi hành các quy định của Điều lệ Đảng, công tác tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công tác bảo vệ chính trị, những vấn đề trong dự thảo hướng dẫn triển khai thực hiện Chỉ thị số 36-CT/TW của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XII của Đảng.

Phát biểu kết luận Hội nghị, đồng chí Trần Lưu Hải biểu dương các đại biểu phát biểu nhiều ý kiến tâm huyết, cụ thể, thiết thực vào các vấn đề đang vướng mắc, đang được quan tâm; về những kết quả và những kinh nghiệm trong công tác tổ chức xây dựng đảng của các địa phương trong khu vực, đánh giá cao việc phối hợp chuẩn bị Hội nghị của Vụ Địa phương I, Ban Tổ chức Trung ương và Ban Tổ chức Tỉnh ủy Nghệ An. Đồng chí Trần Lưu Hải nêu những nhiệm vụ trọng tâm các ban tổ chức tỉnh, thành ủy trong khu vực cần tham mưu cho cấp ủy địa phương trong thời gian tới là:

Một là, tiếp tục tham mưu triển khai và tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Trong đó tập trung tham mưu thực hiện tốt việc lấy phiếu tín nhiệm đối với thành viên lãnh đạo cấp ủy và cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan của hệ thống chính trị theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 9 vừa qua.

Hai là, chủ động, tích cực tham mưu kế hoạch, hướng dẫn của địa phương để triển khai thực hiện Chỉ thị số 36 của Bộ Chính trị về công tác chuẩn bị nhân sự đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XII của Đảng để khi Hướng dẫn chính thức được ban hành thì cập nhật bổ sung cho phù hợp.

Ba là, tích cực triển khai Kết luận 64 của Trung ương về “Một số vấn đề tiếp tục đổi mới hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở”.

Bốn là, tiếp tục thực hiện việc kiểm tra thi hành Điều lệ Đảng.

Năm là, tổ chức rà soát, đánh giá lại các cấp ủy, tổ chức đảng để kịp thời phát hiện và tham mưu cấp uỷ củng cố, ổn định tình hình nội bộ những nơi có vấn đề trước đại hội nhằm giải quyết triệt để những mâu thuẫn tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định.

Sáu là, thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ các quy định của Bộ chính trị, hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương về công tác bảo vệ chính trị nội bộ để phục vụ công tác cán bộ và công tác phát triển đảng viên. Tập trung tham mưu hoàn thành việc rà soát tiêu chuẩn chính trị của cán bộ quy hoạch cấp ủy khóa tới trước khi tiến hành quy trình công tác nhân sự đại hội.

Bảy là, tiếp tục xây dựng, củng cố và kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tổ chức xây dựng Đảng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất