Đưa quá trình hội nhập quốc tế đi vào chiều sâu, phục vụ hiệu quả sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam là tham luận của đồng chí Phạm Bình Minh, Ủy viên Trung ương Đảng khóa XI, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại. Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh nêu rõ: Năm năm qua, trong bối cảnh tình hình khu vực, thế giới có nhiều biến động rất phức tạp, khó lường tác động tới an ninh và phát triển của đất nước, công tác đối ngoại đã được triển khai chủ động, đồng bộ, huy động được sức mạnh tổng hợp của đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, đạt được nhiều thành tựu to lớn trong việc triển khai thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng… Công tác đối ngoại đã góp phần quan trọng vào nhiệm vụ giữ vững chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, bảo vệ an ninh Tổ quốc. Việt Nam đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại đa phương với phương châm chuyển mạnh từ “tham gia tích cực” lên “chủ động đóng góp xây dựng”, qua đó góp phần quan trọng vào việc nâng cao vị thế quốc tế của đất nước. Thành tựu đối ngoại khẳng định sự đúng đắn của đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa, “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” mà Đại hội Đảng lần thứ XI đã đề ra. Các thành tựu đối ngoại đó là kết quả nỗ lực chung của toàn bộ hệ thống chính trị, với sự tham gia và phối hợp tích cực, chủ động của các bộ, ban, ngành, các địa phương, các doanh nghiệp và nhân dân, dưới sự chỉ đạo tập trung, trực tiếp của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh (ảnh trên) nhấn mạnh: Để đưa hội nhập quốc tế đi vào chiều sâu, trên cơ sở quán triệt và thực hiện đúng các quan điểm về hội nhập quốc tế được nêu trong Dự thảo văn kiện Đại hội, đối ngoại cần tập trung làm tốt các công việc sau: Thứ nhất, thực hiện triệt để phương châm “triển khai đồng bộ” các định hướng đối ngoại được Đại hội XII của Đảng thông qua, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình hội nhập quốc tế; nâng cao hiệu quả sự phối hợp giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân, giữa các ngành, các cấp, các địa phương. Thứ hai, trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác, nhất là các khuôn khổ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, đảm bảo môi trường hòa bình, ổn định cho đất nước, thúc đẩy quan hệ chính trị, kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học, công nghệ, tạo thuận lợi cho phát triển đất nước và quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. Thứ ba, nâng cao hiệu quả hội nhập, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, theo đó cần tăng cường công tác phổ biến các cam kết quốc tế ta đã ký kết, đã nội luật hóa và các quy định trong quá trình triển khai; làm cho mỗi tổ chức, mỗi người dân hiểu rõ thách thức, cơ hội mà họ có được từ hội nhập quốc tế để tham gia một cách chủ động và tích cực; biến quá trình hội nhập từ các hoạt động chủ yếu do các cơ quan nhà nước tiến hành thành quá trình tham gia chủ động và tích cực của từng địa phương, tổ chức, doanh nghiệp, người dân. Thứ tư, triển khai các định hướng lớn về hội nhập được nêu trong Văn kiện Đại hội, tập trung thực hiện Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến 2020, tầm nhìn 2030 và các đề án, kế hoạch triển khai Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị; khẩn trương hoàn thiện, nâng cao năng lực các thể chế hội nhập; đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ hội nhập; phấn đấu đến 2020, mức độ hội nhập trên các lĩnh vực của nước ta ở mức độ cao trong ASEAN.
Tăng cường xây dựng quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong công cuộc đổi mới, tham luận của đồng chí Thào Xuân Sùng, Ủy viên Trung ương Đảng khóa XI, Phó Trưởng Ban Dân vận Trung ương đã làm sáng tỏ quan điểm của Đảng về công tác dân vận, hiệu quả công tác dân vận thời gian qua. Đồng chí nhận định, hơn 85 năm qua, đặc biệt qua 30 năm đổi mới (1986-2016), trong xây dựng quan hệ giữa Đảng với Nhân dân, Đảng ta đã đạt được sáu thành tựu quan trọng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Một là, Đảng lắng nghe Nhân dân, vì Nhân dân, dựa vào Nhân dân và Nhân dân tin Đảng trở thành nhân tố bảo đảm sự đúng đắn và thành công của đường lối đổi mới của Đảng. Hai là, Đảng gắn bó với Nhân dân và được Nhân dân ủng hộ, đã làm nên “những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”. Ba là, Đảng chăm lo xây dựng quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân, là nhân tố có ý nghĩa quyết định tạo nên sức mạnh của Đảng. Bốn là, Đảng lãnh đạo phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng và thực hiện ngày càng có hiệu quả Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở. Năm là, Đảng lãnh đạo xây dựng, củng cố, tăng cường và phát huy ngày càng cao sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế. Sáu là, với những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và pháp luật của Nhà nước, Đảng đã lãnh đạo và cùng Nhân dân đấu tranh kiên quyết, kiên trì phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tệ nạn xã hội, tạo được sự chuyển biến tích cực cả về nhận thức và hành động, góp phần củng cố niềm tin của Nhân dân ta đối với Đảng và tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân.
Theo đồng chí Thào Xuân Sùng, Đảng ta cần phát huy thành tựu, tăng cường xây dựng quan hệ mật thiết giữa Đảng và Nhân dân theo Tư tưởng Hồ Chí Minh để tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Đảng chăm lo xây dựng tiềm lực tư tưởng, lý luận, trí tuệ của mình bảo đảm sự đúng đắn trong đường lối, chủ trương của Đảng, ý Đảng hợp lòng dân đi đôi với đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và thực tiễn về quan hệ giữa Đảng và Nhân dân…
Giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ được đồng chí Nguyễn Đắc Vinh (ảnh trên), Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng khóa XI, Bí thư Thứ nhất Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trình bày. Đồng chí Nguyễn Đắc Vinh nêu rõ, giáo dục thanh niên là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, trong đó Đoàn TNCS Hồ Chí Minh có vai trò quan trọng. Trong những năm tới, tình hình thế giới sẽ còn nhiều diễn biến rất phức tạp, nguy cơ "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp rất đáng lo ngại. Những yếu tố đó tác động mạnh mẽ đến thanh thiếu niên và đặt ra yêu cầu cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ.
Để góp phần thực hiện hiệu quả Nghị quyết Đại hội, Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị cần đầu tư đúng mức cho công tác bồi dưỡng, giáo dục thanh thiếu nhi; triển khai nghiêm túc, đồng bộ các giải pháp đã được xác định trong Chỉ thị số 42 - CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ giai đoạn 2015 - 2030”. Đoàn TNCS Hồ Chí Minh xác định tập trung tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, truyền thống cho thế hệ trẻ bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng, với sự tham gia, phối hợp có trách nhiệm của ngành giáo dục, gia đình, đoàn thể và toàn xã hội... Bí thư Trung ương Đoàn nhấn mạnh giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ là nhiệm vụ chiến lược, cần sự quan tâm đặc biệt của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể và toàn xã hội.
Tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng tiếp cận đa ngành gắn với xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng. Trong tham luận của đồng chí Phạm S, Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng nhấn mạnh trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế nói chung và tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ và giải pháp hết sức quan trọng, cần thiết... Trước mắt, tập trung xây dựng Khu nông nghiệp công nghệ cao, Khu công nghiệp - nông nghiệp, Trung tâm sau thu hoạch và Trung tâm giao dịch hoa với sự tham gia của các doanh nghiệp Nhật Bản và một số nước tiên tiến để hình thành những cụm sản xuất đạt chất lượng, tiêu chuẩn đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Tập trung phát triển nông nghiệp công nghệ cao tại các vùng theo quy hoạch; thu hút các nguồn lực đầu tư thông qua các nguồn vốn ODA, vốn đầu tư FDI để đầu tư phát triển sản xuất, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Chủ động lựa chọn, áp dụng các công nghệ tiên tiến của thế giới theo phương thức đi tắt, đón đầu, đặc biệt là công nghệ giống, công nghệ tự động hóa, tin học hóa, công nghệ sau thu hoạch... Để thực hiện có hiệu quả những định hướng, giải pháp nêu trên, tỉnh Lâm Đồng kiến nghị Trung ương tiếp tục có những cơ chế, chính sách để đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; tạo điều kiện thuận lợi để các nhà khoa học, nhà doanh nghiệp hợp tác, gắn bó hơn nữa với nông dân. Nhà nước bố trí vốn trung hạn để triển khai khu nông nghiệp công nghệ cao của các tỉnh, thành nói chung, tỉnh Lâm Đồng nói riêng; có chính sách bảo vệ hàng nông sản của Việt Nam trước sự cạnh tranh của một số nông sản nước ngoài...
Xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam vững mạnh trong khối đại đoàn kết dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh được đồng chí Nguyễn Quốc Cường (ảnh trên), Ủy viên Trung ương Đảng khóa XI, Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam nêu rõ: Sau 30 năm thực hiện đổi mới và hội nhập thế giới, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, giai cấp nông dân, Hội Nông dân Việt Nam đã có những đóng góp to lớn, được Đảng, Nhà nước và xã hội ghi nhận. Vị thế, vai trò của người nông dân, giai cấp nông dân được nâng cao, mở rộng và tham gia ngày một nhiều vào công việc của Đảng, Nhà nước, địa phương và cộng đồng.
Để đạt được mục tiêu “người nông dân là chủ thể của quá trình sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới”, thực hiện thành công công nghiệp hóa - hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam, cần tiếp tục cụ thể hóa chương trình, nội dung trung hạn, dài hạn xây dựng giai cấp nông dân gắn liền với phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới theo nội dung Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về Nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Đầu tư cho “Tam nông” phải duy trì đúng theo Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X), cơ chế, chính sách, phân bổ nguồn lực nên tập trung vào các vấn đề then chốt mà người nông dân sản xuất nhỏ đang mong đợi… Bên cạnh đó, cần tập trung giải quyết khó khăn, tạo sức bật cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn; tổ chức lại sản xuất nông nghiệp bằng tăng cường liên kết, nâng qui mô, phát triển kinh tế hợp tác theo chuỗi giá trị sản phẩm, ngành hàng theo thế mạnh vùng, miền; mở rộng, nâng cao chất lượng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, có lộ trình thích hợp để nông dân tham gia và được hưởng lương hưu; tập trung nguồn lực nâng cao chất lượng giáo dục, dạy nghề, đưa thông tin về cơ sở tới từng địa bàn dân cư; tổng kết lý luận gắn thực tiễn, đề ra các tiêu chí cụ thể xây dựng mẫu hình "người nông dân mới" trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa với các tiêu chí "nhận thức mới, kiến thức mới, ý thức mới, văn hóa mới, quyết tâm mới để có đời sống cao hơn; xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam vững mạnh, phù hợp với yêu cầu của tình hình mới.
Phát huy vai trò người có uy tín trong đồng bào dân tộc, tôn giáo để phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh, trật tự vùng có đông đồng bào dân tộc, tôn giáo trên địa bàn Trà Vinh là tham luạn do đồng chí Sơn Thị Ánh Hồng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND trình bày. Tỉnh cho biết Trà Vinh là địa bàn trọng điểm, là nơi các thế lực thù địch luôn tìm cách lợi dụng vấn đề “dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền” để gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc và chống phá cách mạng. Xuất phát từ những đặc điểm đó, các cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể luôn quan tâm, nâng cao nhận thức và thực hiện nhất quán chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước; đặc biệt là luôn chú trọng xây dựng và phát huy vai trò người có uy tín trong đồng bào dân tộc, tôn giáo để phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội...
Để đạt được mục tiêu như quan điểm về công tác dân tộc, tôn giáo được nêu trong Văn kiện Đại hội đó, theo đồng chí Sơn Thị Ánh Hồng (ảnh trên) cần tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp, giải pháp, một trong những giải pháp không kém phần quan trọng là phát huy tốt vai trò của những người có uy tín trong đồng bào dân tộc, tôn giáo. Từ thực tiễn, kinh nghiệm của Trà Vinh thời gian qua, Phó Bí thư Tỉnh ủy Sơn Thị Ánh Hồng đề xuất quan tâm xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, phát triển đảng viên trong đồng bào dân tộc, tôn giáo và xây dựng cốt cán, người có uy tín trong đồng bào dân tộc, tôn giáo; tiếp tục thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với vùng dân tộc, tôn giáo...
Định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia nhằm đẩy mạnh, nâng cao chất lượng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giai đoạn 2016-2020. Đồng chí Phạm Xuân Đương, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Kinh tế Trung ương khằng điịnh: Qua 30 năm đổi mới, những thành tựu đạt được của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là hết sức quan trọng, có ý nghĩa lịch sử, tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại… Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên trước hết từ việc tổng kết lý luận, thực tiễn về xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia; việc đánh giá, rà soát, sửa đổi, điều chỉnh, bổ sung, ban hành mới chưa đồng bộ, kịp thời trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Theo đồng chí Phạm Xuân Đương, để phát triển đất nước và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với những quan điểm, mục tiêu như: Chính sách phát triển công nghiệp quốc gia phải được xây dựng đồng bộ, tuân thủ đầy đủ các quy luật khách quan của thị trường, gắn liền với quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa... Chính sách công nghiệp quốc gia phải phát huy tối đa các nguồn lực trong nước, đồng thời thu hút có hiệu quả các nguồn lực nước ngoài. Chính sách phát triển công nghiệp quốc gia lấy khoa học và công nghệ là nền tảng để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức. Chính sách phát triển công nghiệp quốc gia phải coi trọng đổi mới sáng tạo, trong đó yếu tố nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Chính sách phát triển công nghiệp phải đảm bảo sự gắn kết giữa phát triển công nghiệp với thương mại, thúc đẩy công nghiệp hoá - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, công nghiệp văn hoá, công nghiệp dịch vụ, công nghiệp du lịch, công nghiệp môi trường và phát triển đô thị. Gắn sản xuất với thị trường, gắn thị trường công nghệ với thị trường sản xuất…
Tại Đại hội thay mặt Ban Kinh tế Trung ương, đồng chí Phạm Xuân Đương xuất một số giải pháp chủ yếu sau: Một là, cần phát huy, sử dụng có hiệu quả các tiềm năng về tài nguyên, lợi thế so sánh và con người để nâng cao chất lượng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Hai là, tăng cường ổn định bền vững kinh tế vĩ mô, nâng cao năng suất lao động quốc gia và đóng góp của năng suất các yếu tố tổng hợp trong mô hình tăng trưởng theo hướng thúc đẩy ứng dụng khoa học, công nghệ và xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo. Ba là, tiến hành phân loại các nhóm chính sách công nghiệp quốc gia để hoàn thiện, bổ sung cho phù hợp và đồng bộ, nhất là nhóm chính sách cho các ngành công nghiệp nền tảng, nhóm chính sách cho các ngành công nghiệp chế biến chế tạo, các ngành công nghiệp vật liệu, vật liệu mới, công nghiệp số và công nghiệp phần mềm. Bốn là, đẩy mạnh đầu tư phát triển khoa học công nghệ, gắn nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật với sản xuất kinh doanh, với nhu cầu của thị trường. Năm là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa...
Công đoàn Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế là tham luận của đại biểu Đặng Ngọc Tùng, Ủy viên trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam. Chủ tịch Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam đã nêu bật những thành tựu của phong trào công nhân và hoạt động Công đoàn Việt Nam đạt được. Cho rằng những thành tựu này là hết sức quan trọng, song người đứng đầu tổ chức Công đoàn cả nước nêu rõ thực tế vẫn còn nhiều vấn đề bức xúc… Đồng chí Đặng Ngọc Tùng cho rằng nếu không tập trung xây dựng được tổ chức công đoàn vững mạnh, để công đoàn phát huy tốt vai trò của mình thì sẽ có nguy cơ ảnh hưởng trực tiếp đến sức sống của Đảng, tiềm ẩn những nguy cơ xói mòn, trực diện vào cơ sở xã hội quan trọng nhất của Đảng, Nhà nước và của cả hệ thống chính trị… Để tổ chức công đoàn thực sự trở thành cơ sở xã hội vững chắc của Đảng, người cộng tác đắc lực của Nhà nước, tạo sức mạnh tổng hợp của dân tộc thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đồng chí nêu một số đề nghị: Phải luôn giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, tăng cường hơn nữa xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, phải đưa ra khỏi Đảng những phần tử thoái hóa, cơ hội biến chất, xu nịnh, cần phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, để bảo đảm vai trò lãnh đạo cầm quyền và Đảng cần phải thực sự chăm lo xây dựng bền vững cơ sở giai cấp, cơ sở quần chúng và cơ sở tổ chức của Đảng. Kết nạp những công nhân ưu tú, những người mang bản chất của giai cấp công nhân thật sự. Đảng cần tập trung lãnh đạo việc tiếp tục tổ chức thực hiện Nghị quyết 20 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước, chỉ đạo thực hiện tốt Chỉ thị số 22-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương về tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ. Vấn đề cốt lõi của xây dựng giai cấp công nhân không chỉ đơn thuần là phát triển số lượng mà là phải tạo cho được sự phát triển về chất lượng chính trị, củng cố niềm tin vào Đảng, Nhà nước, nâng cao kỹ năng nghề nghiệp, xây dựng tác phong công nghiệp… Cần quan tâm hơn nữa và đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Công đoàn…