Việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn

Thưa Quốc hội,

Thưa các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, mặt trận Tổ quốc Việt Nam,

Thưa các đồng chí lão thành cách mạng và các vị khách,

Thưa đồng chí, đồng bào,

Theo Chương trình kỳ họp và thực hiện Nghị quyết số 74/2014/QH13 của Quốc hội, Chính phủ đã gửi đến các vị đại biểu Quốc hội 17 báo cáo kết quả thực hiện 7 nghị quyết về giám sát chuyên đề và 7 nghị quyết về chất vấn từ đầu nhiệm kỳ khóa XIII đến năm 2015.

Theo phân công của đồng chí Thủ tướng, thay mặt Chính phủ, tôi xin báo cáo tổng hợp một số nội dung chủ yếu của các báo cáo nêu trên như sau:

1. Lĩnh vực kế hoạch và đầu tư

Các nội dung giám sát và chất vấn tập trung vào quản lý và sử dụng vốn đầu tư công, ODA, vay ưu đãi, vốn chương trình mục tiêu quốc gia, thu hút vốn đầu tư dưới hình thức đối tác công tư, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và tái cơ cấu kinh tế.

Chính phủ, các Bộ, ngành tiếp tục tập trung hoàn thiện chính sách, pháp luật. Triển khai thực hiện Luật Đầu tư công[1]. Tăng cường quản lý vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ. Xây dựng và thực hiện kế hoạch đầu tư công trung hạn. Bố trí vốn tập trung, khắc phục một bước tình trạng phân tán, dàn trải. Rà soát, đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các công trình, dự án quan trọng. Xác định rõ nguồn và khả năng cân đối vốn trước khi quyết định đầu tư. Kiểm soát, ưu tiên bố trí nguồn thanh toán nợ xây dựng cơ bản và thu hồi vốn ứng trước.

Thực hiện đồng bộ các giải pháp đẩy nhanh giải ngân; tăng cường kiểm tra, giám sát, nâng cao hiệu quả các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi[2].

Quản lý chặt chẽ vốn chương trình mục tiêu quốc gia, tập trung cho các nhiệm vụ thật sự cần thiết, tạo điều kiện cho các Bộ, ngành địa phương chủ động bố trí vốn, bảo đảm hiệu quả. Chính phủ đã báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp này về tình hình thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2011 - 2015 và kế hoạch giai đoạn 2016 - 2020.

Nâng cao hiệu quả huy động các nguồn vốn ngoài nhà nước vào phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông và khuyến khích đầu tư theo hình thức đối tác công tư[3]. Thu hút đầu tư nước ngoài, ưu tiên các dự án có sức lan tỏa, công nghệ tiên tiến, tiết kiệm năng lượng, tài nguyên, thân thiện với môi trường và sản phẩm có sức cạnh tranh cao.

Triển khai tái cơ cấu DNNN, trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty; tập trung cổ phần hóa, thoái vốn đầu tư ngoài ngành và nâng cao hiệu quả hoạt động[4]. Đã sắp xếp 464 DNNN, trong đó cổ phần hóa 404 doanh nghiệp.

Triển khai Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư. Thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính; phấn đấu đến hết năm 2015 các chỉ tiêu môi trường kinh doanh của Việt Nam đạt và vượt mức trung bình các nước ASEAN-6.

Tập trung thực hiện các đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực; tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng từ 79,9% năm 2011 lên 82,5% năm 2015. Rà soát, điều chỉnh các quy hoạch phát triển phù hợp hơn với kinh tế thị trường. Thực hiện Chiến lược Biển, gắn phát triển kinh tế xã hội với bảo vệ chủ quyền biển đảo.

Tuy nhiên, việc chấp hành các quy định về quản lý đầu tư công ở một số nơi còn chưa nghiêm. Vẫn còn tình trạng điều chỉnh tăng tổng mức đầu tư. Tình trạng chậm tiến độ, nợ đọng xây dựng cơ bản ở một số nơi khắc phục chậm. Hiệu quả đầu tư công chưa cao. Thu hút các nguồn vốn ngoài nhà nước tham gia vào đầu tư phát triển chưa thật hiệu quả. Nguồn vốn đối ứng cho các dự án ODA và vay ưu đãi còn hạn hẹp. Thu hút đầu tư xã hội và đầu tư nước ngoài vào cơ sở hạ tầng chưa nhiều. Tái cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm. Việc sắp xếp, cổ phần hóa DNNN ở nhiều ngành, lĩnh vực và sắp xếp, đổi mới nông lâm trường, công ty nông lâm nghiệp chưa đạt tiến độ đề ra; tỷ lệ vốn được cổ phần hóa còn thấp.

2. Lĩnh vực tài chính

Các nội dung giám sát và chất vấn tập trung vào việc quản lý giá, thực hiện lộ trình giá thị trường, tái cấu trúc và phát triển thị trường chứng khoán, bảo hiểm, chống thất thu, bảo đảm cân đối NSNN và quản lý nợ công.

Tích cực triển khai Luật Giá. Thực hiện cơ chế giá thị trường; bình ổn giá đối với hàng hóa và dịch vụ thiết yếu; thực hiện lộ trình giá thị trường đối với điện, xăng dầu, than, dịch vụ y tế, giáo dục... gắn với hỗ trợ đối tượng chính sách, hộ nghèo[5].

Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, thực hiện lộ trình tái cấu trúc và phát triển các thị trường chứng khoán, bảo hiểm[6]. Mức vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt 33% và thị trường trái phiếu đạt 23% GDP[7]. Tổng doanh thu thị trường bảo hiểm giai đoạn 2011 - 2015 tăng bình quân 17%/năm, tính đến cuối năm 2015 bằng khoảng 2% GDP.

Thực hiện các giải pháp bảo đảm thu đúng, đủ, kịp thời vào ngân sách nhà nước; tập trung chống thất thu, nợ đọng thuế, chuyển giá; tăng cường thanh tra, kiểm tra[8]. Hiện đại hoá công tác quản lý; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính; nâng cao phẩm chất, năng lực đội ngũ cán bộ, công chức thuế, hải quan. Đã cắt giảm được 420 giờ nộp thuế; trên 98% các doanh nghiệp đã kê khai thuế qua mạng; 80% doanh nghiệp đã nộp thuế theo phương thức điện tử; trên 98% kim ngạch xuất nhập khẩu đã được thông quan điện tử.

Trong bối cảnh kinh tế phát triển không thuận lợi, tăng trưởng thấp hơn dự kiến trong khi nhu cầu tăng chi ngân sách nhà nước cho con người, bảo đảm an sinh xã hội, quốc phòng an ninh và đầu tư phát triển là rất lớn, Quốc hội cho phép duy trì bội chi NSNN ở mức phù hợp (bình quân giai đoạn 2011 - 2015 là 5,3% GDP, năm 2015 là 5%).

Thực hiện các giải pháp tăng cường quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng nợ công. Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật; ban hành Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về quản lý nợ công. Chỉ sử dụng nợ công cho đầu tư phát triển. Việc điều hành vay và trả nợ thực hiện theo đúng Nghị quyết của Quốc hội và kế hoạch vay, trả nợ hàng năm được phê duyệt. Các chỉ tiêu nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia trong giới hạn quy định. Cơ cấu lại nợ công theo hướng tăng tỷ trọng vốn vay trung và dài hạn với lãi suất hợp lý để giảm áp lực trả nợ trong ngắn hạn. Quản lý chặt chẽ hơn các khoản vay Chính phủ bảo lãnh và vay của chính quyền địa phương. Tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát việc sử dụng vốn vay.

Tăng cường quản lý NSNN, từng bước cơ cấu lại các nhiệm vụ, chương trình, dự án theo hướng lồng ghép, tiết giảm, bảo đảm các nhiệm vụ chi cần thiết, quan trọng và theo đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức quy định; xử lý nghiêm thất thoát, lãng phí.

Tuy nhiên, cân đối ngân sách nhà nước còn nhiều khó khăn, cơ cấu chưa hợp lý, chi thường xuyên lớn, bội chi còn cao. Quản lý và sử dụng NSNN ở một số bộ ngành, địa phương còn chưa chặt chẽ. Còn tình trạng thất thu, nợ đọng thuế, chuyển giá và lãng phí trong chi NSNN. Nợ công tăng nhanh, áp lực trả nợ lớn. Việc sử dụng các khoản vay do Chính phủ bảo lãnh và vay của chính quyền địa phương ở một số dự án hiệu quả còn thấp. Việc thực hiện lộ trình giá thị trường các hàng hóa, dịch vụ thiết yếu nhìn chung còn chậm.

3. Lĩnh vực ngân hàng

Nội dung chất vấn tập trung vào điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng cho nông nghiệp, nông thôn, quản lý, kinh doanh vàng, ngoại tệ, cơ cấu lại các tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu.

Điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng linh hoạt, hiệu quả, phối hợp chặt chẽ, hài hòa với chính sách tài khóa. Điều chỉnh giảm lãi suất phù hợp với diễn biến vĩ mô và lạm phát; mặt bằng lãi suất hiện nay bằng khoảng 40% so với năm 2011[9]. Thị trường tiền tệ dần ổn định, thanh khoản của nền kinh tế và toàn hệ thống được cải thiện. Điều hành chính sách tỷ giá linh hoạt, ổn định thị trường ngoại tệ, tăng dự trữ ngoại hối. Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế giai đoạn 2011 - 2014 tăng 12,6%/năm; dự kiến năm 2015 tăng khoảng 17%[10]; cơ cấu chuyển dịch tập trung hơn cho các lĩnh vực ưu tiên[11].

Tháo gỡ khó khăn, đổi mới quy trình, thủ tục cho vay vốn tín dụng phát triển nông nghiệp, nông thôn[12]; triển khai một số chương trình tín dụng đặc thù như mô hình cho vay liên kết, hỗ trợ ứng dụng công nghệ cao, chính sách cho vay đối với chăn nuôi, thủy sản, cà phê… Ban hành các chính sách mới về tín dụng ưu đãi đối với người nghèo và các đối tượng chính sách[13]. Triển khai 20 chương trình tín dụng của Ngân hàng Chính sách xã hội cho vay hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, học sinh sinh viên, hộ gia đình sản xuất kinh doanh ở vùng khó khăn... và một số các chương trình, dự án do các tổ chức nước ngoài, địa phương ủy thác. Từ năm 2011 đến tháng 9/2015, tổng doanh số cho vay đạt trên 171 nghìn tỷ đồng; tổng dư nợ cho vay trên 137 nghìn tỷ đồng với hơn 8 triệu khách hàng[14].

Hoàn thiện pháp luật về kinh doanh vàng[15]; tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm các vi phạm. Tình trạng “vàng hóa” trong nền kinh tế từng bước được ngăn chặn[16]; biến động của giá vàng không ảnh hưởng nhiều đến ổn định tỷ giá, thị trường ngoại hối và kinh tế vĩ mô. Quan hệ huy động, cho vay vốn bằng vàng đã cơ bản chuyển sang quan hệ mua, bán.

Tập trung triển khai thực hiện Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD). Tình trạng sở hữu chéo, đầu tư chéo, cổ đông/nhóm cổ đông lớn, thao túng, chi phối trong hệ thống các TCTD về cơ bản đã được xử lý và kiểm soát. Đẩy mạnh sáp nhập, hợp nhất, mua lại trên nguyên tắc tự nguyện; giảm 17 tổ chức và 2 chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang trong quá trình thanh lý. Các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế có đánh giá tích cực về việc cơ cấu lại các TCTD của Việt Nam[17].

Thực hiện quyết liệt Đề án xử lý nợ xấu của các TCTD; tăng cường thu hồi, cơ cấu lại, phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro của TCTD; phát huy vai trò của VAMC; nợ xấu đã được kiểm soát, đến cuối tháng 9/2015 còn 2,93%[18]. Năng lực tài chính và hiệu quả hoạt động của các TCTD được nâng lên, bảo đảm an toàn hệ thống.

Tuy nhiên, việc cơ cấu lại một số ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém và xử lý nợ xấu còn khó khăn. Còn một số vụ việc vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động tín dụng, ngân hàng. Việc tiếp cận vốn tín dụng, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa còn khó khăn. Chất lượng tín dụng, quản trị và dịch vụ ngân hàng còn phải tiếp tục cải thiện và tăng cường ngày càng phù hợp hơn với thông lệ, chuẩn mực quốc tế và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

4. Lĩnh vực công thương

Các nội dung chất vấn tập trung vào quy hoạch điện, thủy điện; lộ trình thực hiện thị trường cạnh tranh, chống độc quyền đối với điện, than, xăng dầu; công nghiệp hỗ trợ; quản lý và phát triển thị trường.

Đã phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực[19]. Rà soát quy hoạch các dự án thủy điện, loại bỏ một số dự án hiệu quả thấp, tác động tiêu cực đến môi trường[20]. Tăng cường quản lý quy hoạch, đầu tư xây dựng, vận hành khai thác các công trình thủy điện, bảo đảm an toàn vận hành hồ chứa. Quan tâm trồng rừng thay thế; hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất cho người dân tái định cư các dự án thủy điện. Triển khai Chương trình cấp điện nông thôn miền núi và hải đảo, có trọng tâm, trọng điểm[21].

Thực hiện giá thị trường theo lộ trình đối với xăng dầu, than, điện gắn với hỗ trợ các đối tượng chính sách, hộ nghèo. Thực hiện thị trường phát điện và bán điện cạnh tranh[22]; xóa độc quyền trong kinh doanh xăng dầu[23]; xóa bao cấp giá bán than cho các hộ tiêu thụ trong nước từ quý IV/2012 và cho sản xuất điện từ tháng 4/2014.

Đã ban hành Nghị định, phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp hỗ trợ và một số ngành công nghiệp hỗ trợ công nghệ cao[24]; ban hành danh mục sản phẩm ưu tiên phát triển.

Chủ động, tích cực đàm phán, ký kết các Hiệp định thương mại tự do. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại; tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về tiêu thụ, thúc đẩy mở cửa thị trường xuất khẩu[25]. Tích cực thực hiện Cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam. Triển khai đồng bộ các giải pháp chống buôn lậu, gian lận thương mại; tăng cường kiểm tra, kiểm soát, nhất là tại các địa bàn trọng điểm, khu vực biên giới; phát hiện và xử lý nghiêm vi phạm[26].

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc giải quyết đất ở và đất sản xuất, bảo đảm sinh kế cho người dân tái định cư các dự án thủy điện còn khó khăn; một số dự án nguồn điện chậm tiến độ; chất lượng hệ thống lưới truyền tải điện còn hạn chế. Cơ chế chính sách về phát triển công nghiệp hỗ trợ chậm được ban hành và thiếu đồng bộ. Đổi mới công nghệ, phát triển các ngành có công nghệ, giá trị gia tăng cao còn chậm. Tiêu thụ một số mặt hàng còn khó khăn. Nhập siêu trở lại. Tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại còn diễn biến phức tạp.

5. Lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn

Các nội dung giám sát chuyên đề và chất vấn tập trung vào tái cơ cấu; công tác quy hoạch; quản lý rừng; xây dựng nông thôn mới; cơ chế, chính sách hỗ trợ và đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn; kiểm soát vật tư đầu vào.

Tập trung triển khai Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới và các đề án chuyên ngành cụ thể. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, cơ giới hóa nông nghiệp; tăng cường vai trò của doanh nghiệp[27]; phát triển kinh tế hộ gia đình; bảo vệ và phát triển rừng gắn với hỗ trợ giảm nghèo ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số; khuyến khích hợp tác, liên kết trong sản xuất, nhân rộng các mô hình hiệu quả... Hỗ trợ tín dụng, tháo gỡ khó khăn, thu mua tạm trữ lúa gạo; hỗ trợ giảm tổn thất sau thu hoạch; giảm thuế giá trị gia tăng đối với vật tư nông nghiệp; miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp và thuỷ lợi phí cho các hộ gia đình, cá nhân trồng lúa. Ưu đãi ngư dân phát triển đội tàu đánh bắt cá xa bờ gắn với tổ chức lại hệ thống dịch vụ hậu cần nghề cá.[28]

Triển khai Chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; áp dụng các quy trình sản xuất tốt đối với các loại cây trồng, vật nuôi, thủy sản chính; triển khai các đề án nâng cao giá trị gia tăng hàng nông lâm thủy sản. Tăng tỷ trọng sản phẩm qua chế biến, hạn chế xuất khẩu sản phẩm thô; xây dựng thương hiệu gạo và các sản phẩm nông nghiệp quốc gia. Tăng cường nghiên cứu và chuyển giao các giống có chất lượng, giá trị cao cho nông dân.

Đã phê duyệt 6 quy hoạch nông nghiệp, 12 quy hoạch lâm nghiệp, 15 quy hoạch thủy lợi, 10 quy hoạch thủy sản... Phê duyệt quy hoạch sử dụng đất lúa đến năm 2020, duy trì 3,8 triệu ha đất trồng lúa; tăng cường quản lý, sử dụng linh hoạt, hiệu quả đất lúa, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, tăng thu nhập cho người dân.

Rà soát, công khai quy hoạch 3 loại rừng. Tăng cường quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất lâm nghiệp 5 năm (2011 - 2015) cấp quốc gia[29]. Ban hành quy định về sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các công ty nông lâm nghiệp[30]. Trồng rừng thay thế diện tích rừng chuyển sang mục đích khác[31].

Đã sửa đổi, bổ sung các tiêu chí; ban hành cơ chế chính sách, thực hiện nhiều giải pháp để huy động mọi nguồn lực xã hội cho xây dựng nông thôn mới[32]. Trong giai đoạn 2011 - 2015, đã huy động được khoảng 852 nghìn tỷ đồng[33]. Tính đến tháng 9/2015, cả nước đã có 1.132 xã (12,7 %) và 09 huyện được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới. Dự kiến hết năm 2015 sẽ có khoảng 1.500 xã đạt chuẩn nông thôn mới (16,8%), bình quân đạt 11,9 tiêu chí/xã (tăng 6,94 tiêu chí so với năm 2011).

Đến hết năm 2015, cơ bản hoàn thiện hệ thống các quy chuẩn, tiêu chuẩn vật tư nông nghiệp (phân bón, thức ăn chăn nuôi, giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản...). Hỗ trợ nông dân áp dụng các quy trình sản xuất tiên tiến, hình thành các chuỗi cung ứng nông sản thực phẩm an toàn; tăng cường kiểm soát chất lượng nông sản nhập khẩu.

Đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách thu hút đầu tư xã hội cho phát triển nông nghiệp và cơ sở hạ tầng nông thôn. Vốn đầu tư từ NSNN và trái phiếu Chính phủ cho nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2011 - 2015 đạt trên 610 nghìn tỷ đồng, tăng 1,83 lần so với giai đoạn 2006 - 2010[34]. Vốn đầu tư toàn xã hội cho sản xuất nông, lâm, thủy sản gấp 1,6 lần giai đoạn 2006 - 2010. Tín dụng cho nông nghiệp, nông thôn tăng 21%/năm, cao hơn tăng trưởng tín dụng chung của nền kinh tế (18,5%). Hàng năm, còn chi thêm 7 - 8 nghìn tỷ đồng từ nguồn dự phòng ngân sách trung ương để hỗ trợ khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh.

Tăng trưởng nông nghiệp bình quân giai đoạn 2011 - 2015 đạt 3,1%/năm. Giá trị sản xuất, kim ngạch xuất khẩu, năng suất lao động đều tăng so với  năm 2010[35].

Tuy nhiên, việc thực hiện Đề án tái cơ cấu nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới chưa đạt yêu cầu; sản xuất nông nghiệp nhìn chung hiệu quả chưa cao; chưa xây dựng được nhiều thương hiệu mạnh; tiêu thụ nông sản và đời sống một bộ phận người dân nông thôn còn gặp nhiều khó khăn. Quản lý quy hoạch phát triển nông nghiệp, vùng nguyên liệu còn nhiều vướng mắc. Việc đổi mới, phát triển các mô hình tổ chức, liên kết sản xuất và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu lao động còn chậm; năng suất lao động nông nghiệp còn thấp. Quản lý nhà nước về vật tư nông nghiệp, phân bón, thuốc trừ sâu và bảo đảm vệ sinh an toàn trong sản xuất, chế biến nông sản còn bất cập. Một số tiêu chí nông thôn mới còn chưa phù hợp; vốn đầu tư từ nguồn NSNN chưa đáp ứng được yêu cầu. Thu hút đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế.

6. Lĩnh vực tài nguyên và môi trường

Các nội dung giám sát chuyên đề và chất vấn tập trung vào quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản và bảo vệ môi trường.

Ban hành và triển khai các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật Đất đai năm 2013[36]. Phê duyệt quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 2011 - 2015 các cấp (100% cấp tỉnh, 96,82% cấp huyện, 84,75% cấp xã). Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu đất đai đạt 33,7% tổng số đơn vị cấp huyện; đã lập bản đồ địa chính trên 72,2% diện tích tự nhiên. Cơ bản hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Nghị quyết của Quốc hội. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính về đất đai.

Ban hành và triển khai các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường[37]. Tích cực thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường, Đề án tổng thể bảo vệ môi trường làng nghề, các lưu vực sông lớn. Xây dựng và thực hiện quy trình vận hành liên hồ chứa đối với toàn bộ 11 lưu vực sông. Xử lý cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đạt 89,3%. Hoàn thiện hệ thống cảnh báo thiên tai trong cả nước. Điều chỉnh quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội gắn với ứng phó biến đổi khí hậu.

Chú trọng quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả đất đai, nguồn nước, rừng, khoáng sản, tài nguyên biển. Ban hành các quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật Khoáng sản. Tăng cường công tác điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển, bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học; bảo vệ và phát triển rừng, tỷ lệ che phủ rừng năm 2015 đạt 40,73%. Tích cực thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu.

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản một số nơi còn lãng phí, hiệu quả chưa cao. Tình trạng vi phạm pháp luật đất đai còn nhiều, xử lý chưa nghiêm, gây thất thoát ngân sách. Ô nhiễm môi trường, nhất là tại làng nghề, khu, cụm công nghiệp, lưu vực sông cải thiện chậm. Chế tài xử lý vi phạm pháp luật về môi trường còn thiếu và chưa đủ mạnh. Tình trạng ngập lụt ở một số thành phố khắc phục còn chậm. Nguồn lực cho bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu còn hạn chế.

7. Lĩnh vực giao thông vận tải

Nội dung chất vấn tập trung vào bảo đảm trật tự an toàn giao thông, tái cơ cấu ngành, điều chỉnh chiến lược, quy hoạch và việc triển khai các dự án trọng điểm quốc gia.

Triển khai quyết liệt, đồng bộ nhiều giải pháp bảo đảm trật tự an toàn giao thông. Tập trung hoàn thiện pháp luật[38], đổi mới công tác tuyên truyền. Tăng cường quản lý phương tiện, đăng kiểm, kinh doanh vận tải. Đẩy mạnh tuần tra, kiểm soát và xử lý nghiêm vi phạm. Tập trung đầu tư xây dựng, bảo trì, khai thác kết cấu hạ tầng giao thông. Tổ chức giao thông hợp lý, xóa điểm đen, hoàn thiện hệ thống biển báo, thiết bị an toàn giao thông. Nâng cao chất lượng đào tạo, sát hạch lái xe. Việc kiểm soát tải trọng phương tiện đạt kết quả khá, lượng xe quá tải giảm. Tai nạn giao thông giảm trên cả ba tiêu chí, số vụ giảm từ 44.500 vụ năm 2011 còn 21.900 vụ năm 2015; số người chết giảm từ 11.400 người còn 8.700 người; số người bị thương giảm từ 48.700 người còn 19.900 người. Số người chết giai đoạn 2011 - 2015 giảm 21% so với giai đoạn 2006 - 2010.

Triển khai Đề án tái cơ cấu ngành giao thông vận tải và các đề án tái cơ cấu chuyên ngành. Cơ bản hoàn thành sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn ngoài ngành tại các doanh nghiệp trong lĩnh vực giao thông vận tải[39]. Rà soát, hoàn thiện các chiến lược, quy hoạch, đề án với mục tiêu phát triển thị trường, kết nối hài hòa, phát huy thế mạnh của các phương thức vận tải[40]. Đẩy mạnh xã hội hóa vận tải, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh. Xếp hạng về năng lực, chất lượng hạ tầng giao thông và hoạt động logistics của Việt Nam tăng[41].


Hoàn thành trước thời hạn các dự án mở rộng Quốc lộ 1A và đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên[42]. Triển khai giai đoạn 1 của Đề án xây dựng cầu dân sinh; đã hoàn thành 187 cầu treo dân sinh trên địa bàn 28 tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung và Tây Nguyên. Đã đầu tư xây dựng mới, nâng cấp, cải tạo được trên 131 nghìn km đường giao thông nông thôn.

Tuy nhiên, tai nạn giao thông vẫn còn nghiêm trọng; chưa khắc phục tốt tình trạng ùn tắc giao thông tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh; ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận người tham gia giao thông chưa cao. Công tác quản lý về kinh doanh vận tải và phương tiện chưa đáp ứng yêu cầu; các phương thức vận tải chưa được kết hợp tốt. Chất lượng một số công trình giao thông chưa bảo đảm. Huy động nguồn lực ngoài nhà nước cho phát triển hạ tầng giao thông còn hạn chế.

8. Lĩnh vực xây dựng

Nội dung chất vấn tập trung vào thị trường bất động sản, nhà ở xã hội, chất lượng công trình, hệ thống định mức kinh tế - kỹ thuật, đơn giá đầu tư, quy hoạch xây dựng, quản lý đô thị.

Thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản gắn với Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia, nhất là nhà ở xã hội[43]. Cơ bản hoàn thành việc rà soát, phân loại các dự án phát triển đô thị, nhà ở trên phạm vi cả nước[44]. Cơ cấu sản phẩm nhà ở được điều chỉnh hợp lý hơn, nhiều dự án nhà ở thương mại đã được chuyển đổi sang nhà ở xã hội[45]. Một số chương trình, dự án phát triển nhà ở xã hội có quy mô lớn được triển khai[46]. Diện tích nhà ở bình quân đầu người toàn quốc tăng từ 17,5 m2 năm 2010 lên 22 m2 năm 2015. Tồn kho bất động sản đến nay giảm khoảng 54% so với đầu năm 2013. Gói tín dụng 30 nghìn tỷ đồng, đến tháng 9/2015 đã cam kết cho vay trên 20 nghìn tỷ đồng (đạt tỷ lệ 68,1%) và đã giải ngân trên 12 nghìn tỷ đồng (đạt tỷ lệ 41%).

Tăng cường thanh tra, kiểm tra các dự án, công trình xây dựng[47]. Điều chỉnh thanh toán, xuất toán, thu hồi các khoản chi không đúng quy định; xử lý nhiều tổ chức, cá nhân vi phạm[48]. Đã sửa đổi, bổ sung hơn 13.000 định mức kinh tế - kỹ thuật làm cơ sở cho việc lập đơn giá, quản lý chi phí và thanh, quyết toán công trình.

Đã ban hành Nghị định về Quản lý đầu tư phát triển đô thị. Rà soát, lập, điều chỉnh các quy hoạch vùng, quy hoạch chung các đô thị; triển khai các quy hoạch phân khu theo quy định của Luật Quy hoạch đô thị; đẩy mạnh công tác quy hoạch xây dựng nông thôn mới[49].

Tuy nhiên, tồn kho bất động sản vẫn còn khá lớn. Quản lý xây dựng, phát triển đô thị theo quy hoạch và kế hoạch ở nhiều địa phương còn yếu kém. Chất lượng một số công trình xây dựng còn thấp. Tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng vẫn gây nhiều bức xúc.

9. Lĩnh vực lao động, thương binh và xã hội

Nội dung giám sát chuyên đề và chất vấn tập trung vào giảm nghèo, chính sách người có công, xuất khẩu lao động, đào tạo nghề và bảo hiểm xã hội.

Thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp, ưu tiên nguồn lực cho giảm nghèo bền vững, tập trung vào vùng đồng bào dân tộc thiểu số và địa bàn đặc biệt khó khăn[50]. Hoàn thiện và triển khai các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, học nghề, tạo việc làm, xuất khẩu lao động, nhà ở, bảo hiểm y tế, miễn giảm học phí, hỗ trợ sinh hoạt phí cho học sinh dân tộc thiểu số, tín dụng ưu đãi hộ nghèo, cận nghèo, mới thoát nghèo, học sinh sinh viên... Đã ban hành chính sách hỗ trợ bảo vệ, phát triển rừng gắn với giảm nghèo ở khu vực đồng bào dân tộc thiểu số[51]. Đến cuối năm 2015, tỷ lệ hộ nghèo cả nước còn dưới 4,5%, riêng các huyện nghèo còn dưới 30%.

Tiếp tục hoàn thiện và tích cực thực hiện chế độ, chính sách người có công[52], đẩy nhanh tiến độ xét duyệt hồ sơ tồn đọng. Cơ bản hoàn thành tổng rà soát việc thực hiện chính sách ưu đãi người có công đối với gần 2,1 triệu người[53]; hỗ trợ về nhà ở cho trên 72 nghìn hộ[54]. Tiếp tục tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ; thực hiện các đề án xác định hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin.

Trong giai đoạn 2011 - 2015, đã đưa trên 450 nghìn người đi làm việc ở nước ngoài[55]. Thúc đẩy mở rộng thị trường, nhất là thị trường có thu nhập cao. Đẩy mạnh công tác đào tạo, dạy ngoại ngữ; hỗ trợ các huyện nghèo xuất khẩu lao động. Kịp thời đưa người lao động về nước an toàn khi xảy ra xung đột ở nước sở tại. Tăng cường quản lý nhà nước; thanh tra, kiểm tra, phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm[56].

Tổ chức, sắp xếp lại các trung tâm đào tạo nghề và giáo dục thường xuyên trên địa bàn cấp huyện. Đầu tư cơ sở vật chất, đổi mới chương trình, giáo trình và định hướng dạy nghề theo nhu cầu xã hội. Sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách dạy nghề; ưu tiên hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số và hộ nghèo ở địa bàn đặc biệt khó khăn; nâng cao hiệu quả đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Từ năm 2011 đến nay, tuyển mới dạy nghề đạt khoảng 9,2 triệu lượt người, trong đó hỗ trợ dạy nghề cho gần 2,4 triệu lao động nông thôn.

Triển khai thực hiện chính sách, pháp luật; đẩy mạnh thông tin truyền thông, nâng cao nhận thức, khuyến khích người dân tham gia bảo hiểm xã hội. Số người tham gia bảo hiểm xã hội tăng từ 9,7 triệu năm 2011 lên trên 12 triệu năm 2015.

Tuy nhiên, một số chính sách giảm nghèo còn chồng chéo, tỷ lệ hộ nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn cao. Chưa giải quyết dứt điểm vướng mắc, tồn đọng trong thực hiện chính sách người có công. Còn tình trạng lao động làm việc ở nước ngoài vi phạm pháp luật; chưa đạt mục tiêu đề ra đối với xuất khẩu lao động ở các huyện nghèo. Cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên chưa đáp ứng yêu cầu dạy nghề; chất lượng, hiệu quả đào tạo nghề còn hạn chế, nhất là đối với lao động nông thôn.

10. Lĩnh vực y tế

Nội dung giám sát chuyên đề và chất vấn tập trung vào đầu tư cho y tế, chất lượng khám chữa bệnh, bảo hiểm y tế, quản lý thuốc chữa bệnh và cơ sở y tế tư nhân, vệ sinh an toàn thực phẩm.

Đã ưu tiên bố trí khoảng 7% tổng chi ngân sách nhà nước (7,6% nếu tính cả trái phiếu Chính phủ) và đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích hợp tác công - tư đầu tư phát triển hệ thống cơ sở y tế[57]. Triển khai Đề án giảm quá tải bệnh viện; nâng cấp cơ sở vật chất[58]; phát triển mạng lưới bệnh viện vệ tinh, chuyển giao kỹ thuật, luân phiên cán bộ y tế xuống cơ sở... Ưu tiên sử dụng ngân sách địa phương và nguồn vốn ODA[59] cho các trạm y tế xã. Nâng cao y đức, đề cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ y tế. Tăng cường quản lý hoạt động của các cơ sở y tế tư nhân; kiểm tra, giám sát việc cấp chứng chỉ hành nghề, giấy phép hoạt động.

Tích cực thực hiện Luật Bảo hiểm y tế; nâng mức hỗ trợ mua bảo hiểm y tế cho các đối tượng chính sách, hộ nghèo; khuyến khích mua theo hộ gia đình; góp phần giảm chi phí của người bệnh có bảo hiểm y tế[60]. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế. Đến cuối năm 2015, phấn đấu tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 75% dân số.

Tăng cường các biện pháp quản lý thuốc chữa bệnh, nhập khẩu trang thiết bị, vật tư y tế; thực hiện quy định về kê khai, công bố, niêm yết giá. Cải cách đấu thầu thuốc, bảo đảm công khai, minh bạch, giảm được giá nhiều loại thuốc. Phát triển công nghiệp dược, khuyến khích sử dụng thuốc sản xuất trong nước.

Thực hiện các biện pháp bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm. Triển khai các đề án Đẩy mạnh sản xuất, chế biến và tiêu thụ rau an toàn; bảo đảm vệ sinh an toàn trong vận chuyển, giết mổ gia súc, gia cầm[61]. Triển khai hệ thống cảnh báo nhanh và phân tích nguy cơ về an toàn thực phẩm, ngăn chặn vận chuyển, kinh doanh gia cầm, sản phẩm gia cầm nhập khẩu trái phép. Tăng cường kiểm tra, thanh tra và xử lý nghiêm vi phạm.

Bên cạnh những kết quả đạt được, chất lượng khám chữa bệnh còn chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là ở tuyến cơ sở; tình trạng quá tải bệnh viện tuyến trung ương chưa được khắc phục căn bản. Việc thanh toán khám chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế, quản lý và đấu thầu thuốc, thiết bị, vật tư y tế còn bất cập. Một số cơ sở y tế chưa thực hiện nghiêm việc niêm yết, kê khai giá theo quy định. Bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm còn nhiều yếu kém.

11. Lĩnh vực giáo dục và đào tạo

Triển khai Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân, chú trọng liên thông giữa các cấp học, trình độ, hình thức giáo dục, đào tạo. Đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá; tổ chức kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông quốc gia và xét tuyển đại học, cao đẳng năm 2015. Thực hiện Đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông; hướng dẫn nhà trường, giáo viên xây dựng kế hoạch dạy học phù hợp với đối tượng học sinh và thực tiễn địa phương.

Giai đoạn 2011 - 2015, đã dành 20% tổng chi NSNN cho giáo dục đào tạo, trong đó giáo dục tiểu học chiếm 33%, trung học cơ sở chiếm 22%. Lồng ghép các nguồn vốn, chương trình mục tiêu quốc gia và chương trình, dự án đầu tư khác cho giáo dục[62].

Điều chỉnh quy hoạch mạng lưới các trường và ban hành quy định về thành lập, hoạt động, sáp nhập, chia, tách, giải thể cơ sở giáo dục đại học[63]. Chú trọng đào tạo theo nhu cầu xã hội và yêu cầu hội nhập quốc tế. Thí điểm thực hiện cơ chế tự chủ đối với một số cơ sở giáo dục đại học công lập[64]. Thực hiện công bố chuẩn đầu ra của các ngành, chuyên ngành đào tạo của các cơ sở giáo dục đại học.

Tuy nhiên, giáo dục đại học, đào tạo nghề chưa thực sự gắn với nhu cầu xã hội, chất lượng chậm được cải thiện. Việc sử dụng kết quả kỳ thi trung học phổ thông quốc gia để tuyển sinh đại học, cao đẳng còn lúng túng. Cơ sở vật chất, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý chưa đáp ứng yêu cầu.

12. Lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch

Ban hành và triển khai thực hiện Chương trình hành động về phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú, đa dạng. Phát động nhiều cuộc vận động, phong trào văn hóa[65]. Tăng cường đầu tư, khuyến khích các loại hình văn hóa, nghệ thuật, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc. Hoàn thiện pháp luật về di sản văn hóa[66]. Chú trọng việc tu bổ, phục hồi di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh.

Thực hiện Chiến lược phát triển thể dục thể thao và Đề án tổng thể phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam. Ban hành các chính sách phát triển thể thao thành tích cao. Áp dụng cơ chế quản lý thể thao chuyên nghiệp đối với một số môn thể thao. Tăng cường hợp tác quốc tế trong đào tạo vận động viên.

Thực hiện Chiến lược và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam và quy hoạch các vùng du lịch[67]. Tăng cường liên kết, quảng bá, xúc tiến du lịch trong và ngoài nước gắn với xây dựng thương hiệu du lịch quốc gia Việt Nam. Miễn thị thực cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài và công dân một số nước. Chú trọng công tác bảo đảm an ninh, an toàn cho du khách.

Tuy nhiên, vẫn còn những biểu hiện xấu về đạo đức, lối sống, văn hóa ứng xử; một số hoạt động lễ hội phản cảm, lãng phí; những lệch lạc trong sáng tác, biểu diễn. Công tác kiểm tra, xử lý vi phạm trong hoạt động văn hóa còn bất cập. Nhiều công trình thể thao sử dụng không đúng mục đích. Chất lượng dịch vụ du lịch nhìn chung còn thấp; lượng khách quốc tế đến Việt Nam ở mức thấp so với các nước trong khu vực.

13. Lĩnh vực thông tin và truyền thông

Xây dựng, trình Quốc hội dự án Luật Báo chí (sửa đổi). Ban hành và triển khai các quy định về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng; xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện[68]. Tăng cường quản lý nhà nước; xây dựng, trình Quốc hội dự án Luật An toàn thông tin; triển khai hệ thống giám sát, quản lý, bảo đảm an toàn thông tin và an ninh mạng[69]. Thực hiện Quy hoạch phát triển viễn thông quốc gia[70]. Đầu tư xây dựng, hiện đại hóa hệ thống hạ tầng viễn thông trong nước và kết nối quốc tế. Chú trọng nghiên cứu phát triển sản phẩm thông tin truyền thông có công nghệ cao. Phòng chống mã độc, tấn công mạng và các doanh nghiệp viễn thông, cung cấp dịch vụ mạng. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm.

Tuy nhiên, sai phạm trong hoạt động báo chí còn nhiều; việc ngăn chặn thông tin sai trái, độc hại trên các trang tin điện tử, mạng xã hội rất khó khăn; việc bảo an toàn thông tin, an ninh mạng còn bất cập; chưa xử lý hiệu quả tình trạng tin nhắn rác, sim rác.

14. Lĩnh vực tư pháp

Nội dung chất vấn tập trung vào triển khai thi hành Hiến pháp 2013, công tác xây dựng pháp luật và thi hành án dân sự.

Tập trung triển khai đồng bộ các biện pháp bảo đảm thi hành Hiến pháp 2013. Công tác phổ biến, giáo dục Hiến pháp và pháp luật được tích cực triển khai; công bố và hàng năm tổ chức Ngày pháp luật Việt Nam. Đã rà soát trên 100 nghìn văn bản quy phạm pháp luật và lập danh mục văn bản cần sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới[71]. Tính đến tháng 9 năm 2015, Chính phủ đã trình 90 trong tổng số 99 dự án Luật, Pháp lệnh đã được thông qua (chiếm 91,9%), trong đó có Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (hợp nhất).

Tăng cường kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu và nâng cao chất lượng cán bộ chuyên trách xây dựng pháp luật. Chính phủ đã chú trọng nội dung xây dựng pháp luật tại các phiên họp thường kỳ và tổ chức các phiên họp chuyên đề. Tình trạng nợ đọng văn bản được cải thiện[72]. Công tác kiểm soát thủ tục hành chính trong quá trình soạn thảo văn bản được quan tâm hơn. Kiểm tra, xử lý các văn bản có nội dung trái pháp luật[73]; chủ động phát hiện và tiếp thu phản ánh, kiến nghị; kịp thời xử lý những sai sót, bất cập.

Trình ban hành và triển khai thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự[74]. Tập trung kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức; tăng cường thanh tra, kiểm tra; siết chặt kỷ luật, kỷ cương công vụ trong công tác thi hành án dân sự.

Tuy nhiên, việc chuẩn bị một số dự án Luật, Pháp lệnh vẫn còn chậm. Còn tình trạng nợ đọng văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành. Một số quy định thiếu tính khả thi, chưa bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật. Hiệu quả kiểm soát thủ tục hành chính chưa cao. Quản lý thi hành án dân sự vẫn còn bất cập; năng lực, trình độ, ý thức trách nhiệm của một số công chức thi hành án dân sự chưa đáp ứng yêu cầu; số trường hợp vi phạm, bị xử lý có xu hướng tăng.

15. Lĩnh vực nội vụ

Nội dung chất vấn tập trung vào tổ chức bộ máy biên chế, số lượng cấp phó, chất lượng cán bộ, công chức, viên chức và công tác cải cách hành chính.

Tổ chức, bộ máy cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương được sắp xếp, kiện toàn, cơ bản phù hợp với chức năng, nhiệm vụ. Cơ quan chuyên môn ở địa phương được giữ ổn định[75]. Triển khai thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Quản lý chặt chẽ biên chế công chức, kể cả biên chế dự phòng và số lượng người làm việc tại các đơn vị sự nghiệp công lập. Triển khai xây dựng đề án vị trí việc làm[76]. Thực hiện cơ chế tự chủ đối với đơn vị sự nghiệp công lập; thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động của một số cơ sở giáo dục đại học công lập.

Tổng số cán bộ cấp Thứ trưởng cơ bản không tăng so với đầu nhiệm kỳ; một số cơ quan tăng do sắp xếp tổ chức Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực và yêu cầu của công tác cán bộ; gần đây Bộ Chính trị điều động một số đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng về các Bộ, ngành[77]. Việc tăng số lượng cấp phó các đơn vị thuộc một số bộ, ngành chủ yếu do sắp xếp, hợp nhất tổ chức bộ máy nội bộ đối với những lĩnh vực có phạm vi, đối tượng quản lý rộng. Số lượng cấp phó ở các Bộ, ngành và địa phương sẽ giảm trong quá trình thực hiện Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương.

Triển khai các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức. Ban hành 47 tiêu chuẩn ngạch công chức, 21 bộ tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức. Đổi mới công tác thi tuyển, thi nâng ngạch công chức theo nguyên tắc cạnh tranh; đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức. Thí điểm thi tuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý. Ứng dụng công nghệ thông tin trong thi tuyển và quản lý công chức.

Tích cực triển khai chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước, tập trung vào cải cách thủ tục hành chính. Triển khai mô hình một cửa liên thông hiện đại tại 50% đơn vị cấp huyện; thí điểm tổ chức trung tâm hành chính công ở một số địa phương. Thời gian thực hiện thủ tục hành chính được cắt giảm đáng kể[78]. Triển khai cơ chế một cửa quốc gia[79], hệ thống hải quan điện tử, kết nối kỹ thuật một cửa ASEAN. Bước đầu thực hiện cung cấp dịch vụ công trực tuyến. Xây dựng các cơ sở dữ liệu điện tử trong hoạt động của cơ quan nhà nước. Tăng cường họp, chỉ đạo điều hành trực tuyến và xử lý văn bản, hồ sơ công việc trên môi trường mạng. Triển khai xây dựng cổng thông tin và mạng hành chính điện tử bốn cấp, xây dựng Chính phủ điện tử.

Tuy nhiên, tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, chức năng, nhiệm vụ còn chồng chéo. Việc đổi mới chế độ công vụ, công chức còn chậm; tinh giản biên chế còn khó khăn. Chất lượng của một bộ phận cán bộ, công chức chưa đáp ứng yêu cầu. Thủ tục hành chính trong một số lĩnh vực còn rườm rà. Ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng Chính phủ điện tử còn chậm.

16. Lĩnh vực thanh tra

Nội dung chất vấn tập trung vào giải quyết khiếu nại tố cáo, phòng chống tham nhũng, công tác thanh tra và xây dựng ngành.


Đã ban hành và triển khai thực hiện các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Tiếp công dân[80]. Tập trung giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo tồn đọng, phức tạp, kéo dài; đã giải quyết xong 512/528 vụ việc, đạt tỷ lệ 97%. Rà soát 503 vụ việc tồn đọng khác, trong đó có 254 vụ việc đủ điều kiện chấm dứt thụ lý, 59 vụ việc đã có văn bản thông báo chấm dứt giải quyết. Lãnh đạo các Bộ, ngành, địa phương cơ bản thực hiện tốt việc tiếp công dân theo quy định.

Đã ban hành và triển khai thực hiện các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng, Chương trình hành động của   Chính phủ và Kế hoạch tổng kết 10 năm thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng[81]. Đẩy mạnh phổ biến pháp luật[82] và tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể, cơ quan báo chí và người dân tham gia tích cực vào công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng[83]. Tăng cường hợp tác quốc tế; chủ động, tích cực tham gia các hoạt động trong khuôn khổ Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng.

Tăng cường chỉ đạo, giám sát hoạt động thanh tra, bảo đảm công tâm, khách quan, chính xác, đúng pháp luật; đã phát hiện, chấn chỉnh, xử lý nhiều vi phạm, kịp thời chuyển những vụ việc có dấu hiệu tội phạm đến cơ quan điều tra theo đúng quy định[84]. Ban hành Nghị định về thực hiện kết luận thanh tra, quy định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện và đôn đốc, kiểm tra, bảo đảm xử lý đến cùng kết luận thanh tra[85].

Triển khai xây dựng Chiến lược phát triển ngành Thanh tra; tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy; ban hành các tiêu chuẩn, chế độ, chính sách và chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, phẩm chất của cán bộ, công chức; tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong toàn ngành thanh tra.

Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn xảy ra nhiều vụ khiếu kiện đông người, nhất là liên quan đến đất đai, môi trường. Lãnh đạo một số bộ, ngành, địa phương chưa thực hiện tốt các quy định của Luật Tiếp công dân. Công tác phòng chống tham nhũng chưa đạt yêu cầu đề ra; thu hồi tài sản tham nhũng tuy có khá hơn nhưng vẫn đạt tỷ lệ thấp.

17. Lĩnh vực an ninh, trật tự an toàn xã hội

Ban hành và tích cực triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đẩy mạnh thực hiện phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Giải quyết kịp thời những vấn đề phức tạp về an ninh; bảo vệ tuyệt đối an toàn các mục tiêu, các sự kiện quan trọng của đất nước. Phát hiện, ngăn chặn kịp thời âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, không để bị động, bất ngờ.

Hoàn thiện pháp luật về phòng chống tội phạm và bảo đảm trật tự an toàn xã hội[86]. Tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Chỉ thị của Bộ Chính trị, Nghị quyết của Quốc hội và Chương trình mục tiêu quốc gia về phòng chống tội phạm. Huy động sự vào cuộc của hệ thống chính trị và toàn dân; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc và phát huy vai trò của Ban Chỉ đạo 138/CP trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Triển khai đồng bộ các biện pháp phòng ngừa; mở nhiều đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm theo từng tuyến, địa bàn, loại tội phạm; điều tra khám phá kịp thời các vụ án đặc biệt nghiêm trọng. Từng bước kiềm chế sự gia tăng của các loại tội phạm, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.

Trình Quốc hội ban hành và tập trung triển khai thực hiện Luật Công an nhân dân. Kiện toàn tổ chức bộ máy và tăng cường công tác cán bộ; chú trọng đào tạo nâng cao phẩm chất, trình độ cho cán bộ, chiến sỹ, nhất là các lực lượng trực tiếp chiến đấu, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Tuy nhiên, tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội tại một số địa bàn vẫn còn phức tạp, đã xảy ra một số vụ án đặc biệt nghiêm trọng; một số tổ chức nhen nhóm hình thành trái pháp luật; còn bị động trong xử lý một số trường hợp gây rối trật tự công cộng.

Thưa Quốc hội,

Thời gian qua, Chính phủ, các bộ, ngành đã nghiêm túc triển khai các Nghị quyết của Quốc hội và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều việc đã hoàn thành, cơ bản hoàn thành; một số việc mang tính chất thường xuyên, lâu dài, đang được triển khai tích cực và cũng có những việc triển khai còn chậm, chưa đạt yêu cầu đề ra do có bất cập trong cơ chế, chính sách, việc triển khai chưa quyết liệt, chưa đồng bộ, thiếu nguồn lực cần thiết và cần có thời gian.

Chính phủ tập trung chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương nỗ lực hơn nữa, tiếp tục triển khai thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội trong thời gian tới, nhất là những nội dung còn hạn chế, yếu kém.

Chính phủ xin báo cáo và nghiêm túc tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội.

Xin trân trọng cảm ơn Quốc hội.



----------

Ghi chú:


[1] Luật Đầu tư công năm 2014; Chính phủ đã ban hành Nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 về đầu tư theo hình thức đối tác công tư; Nghị định số 77/2015/NĐ-CP ngày 10/9/2015 về kế hoạch đầu tư trung hạn và hàng năm.

[2] Năm 2012 giải ngân hơn 4.183 triệu USD, năm 2013 là 5.137 triệu USD và năm 2014 là 5.655 triệu USD.

[3] Đến nay đã có 06 dự án được chấp thuận là (1) Dự án đầu tư xây dựng hệ thống cấp nước sông Nhùng trên địa bàn tỉnh Quảng Trị; (2) Dự án đường liên cảng huyện Nhơn Trạch, Đồng Nai; (3) Dự án đầu tư mở rộng công suất nhà máy xử lý nước thải khu công nghiệp An Nghiệp, Sóc Trăng; (4) Dự án đường cao tốc Dầu Giây - Phan Thiết (Bộ Giao thông vận tải); (5) Dự án Ứng dụng thương mại điện tử trong mua sắm chính phủ (Bộ Kế hoạch và Đầu tư); (6) Dự án Cảng hành khách quốc tế Phú Quốc, Kiên Giang.

[4] Nghị định số 99/2012/NĐ-CP ngày 15/11/2012 của Chính phủ về phân công, phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước và vốn Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp; Nghị định số 130/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013 của Chính phủ về sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích; Nghị định số 172/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 của Chính phủ về thành lập mới, tổ chức lại, giải thể công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu; Nghị định số 128/2014/NĐ-CP  ngày 31/12/2014 của Chính phủ về bán, giao và chuyển giao doanh nghiệp 100% vốn nhà nước; Nghị định  số 19/2014/NĐ-CP ngày 14/3/2014 của Chính phủ ban hành điều lệ mẫu của công ty TNHH một thành viên do nhà nước làm chủ sở hữu; Nghị định số 69/2014/NĐ-CP ngày 15/7/2014 của Chính phủ về tập đoàn kinh tế nhà nước và tổng công ty nhà nước; Nghị định số 115/2014/NĐ-CP ngày 03/12/2014 của Chính phủ về quy định chế độ giám sát, kiểm tra việc thực hiện chiến lược, kế hoạch, mục tiêu, nhiệm vụ được giao của doanh nghiệp nhà nước; Nghị định số 93/2015/NĐ-CP ngày 15/10/2015 của Chính phủ về tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp quốc phòng, an ninh; Nghị định số 81/2015/NĐ-CP ngày 18/9/2015 của Chính phủ về công bố thông tin của doanh nghiệp nhà nước.

Quyết định số 74/2013/QĐ-TTg ngày 05/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ về quy chế thí điểm chuyển đổi công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp hoạt động theo mô hình đơn vị sự nghiệp có thu thành công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu; Quyết định số 35/2013/QĐ-TTg ngày 07/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế hoạt động của Kiểm soát viên công ty TNHH một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ; Quyết định số 37/2014/QĐ-TTg ngày 18/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ về tiêu chí, danh mục phân loại DNNN; Quyết định số 36/2014/QĐ-TTg ngày 18/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế công bố thông tin hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu.

[5] Từ năm 2011, các hộ nghèo được hỗ trợ giá điện cho 50kWh/tháng, mức hỗ trợ là 30.000 đồng/hộ/tháng. Từ năm 2014, hộ nghèo được hỗ trợ tiền điện cho mục đích sinh hoạt hàng tháng tương đương tiền điện sử dụng 30kWh tính theo mức giá bán lẻ điện sinh hoạt bậc 1 hiện hành. Kinh phí NSTW hỗ trợ các địa phương thực hiện chính sách khoảng 1.300 - 1.400 tỷ đồng/năm.

Các đối tượng chính sách được hỗ trợ 100% hoặc một phần chi phí đóng BHYT thông qua ngân sách nhà nước, quỹ BHXH (gồm các đối tượng như trẻ em dưới 6 tuổi, người thuộc diện hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội hàng tháng, người thuộc hộ gia đình hộ nghèo, người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn...).

[6] Quyết định số 252/QĐ-TTg ngày 01/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2011-2020; Quyết định số 1826/2012/QĐ-TTg ngày 06/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Tái cấu trúc thị trường chứng khoán và doanh nghiệp bảo hiểm; Nghị định số 58/2012/NĐ-CP ngày 20/7/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán; Nghị định số 108/2013/NĐ-CP ngày 23/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán; Nghị định số 42/2015/NĐ-CP ngày 05/5/2015 của Chính phủ về chứng khoán phái sinh và thị trường chứng khoán phái sinh; Nghị định số 60/2015/NĐ-CP ngày 26/6/2015 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 58/2012/NĐ-CP ngày 20/7/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán.

Nghị định số 98/2013/NĐ-CP ngày 28/8/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh xổ số; Nghị định số 214/2013/NĐ-CP ngày 20/12/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 103/2008/NĐ-CP ngày 16/9/2008 của Chính phủ về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới; Nghị định số 68/2014/NĐ-CP ngày 09/7/2014 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 45/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm.

Nghị định số 90/2011/NĐ-CP ngày 14/10/2011 của Chính phủ quy định về phát hành trái phiếu doanh nghiệp; Nghị định số 01/2011/NĐ-CP ngày 05/01/2011 của Chính phủ về phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương; Nghị định số 37/2013/NĐ-CP ngày 22/4/2013 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 138/2007/NĐ-CP ngày 28/8/2007 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Quỹ đầu tư phát triển địa phương; Nghị định số 88/2014/NĐ-CP ngày 26/09/2014 của Chính phủ về dịch vụ xếp hạng tín nhiệm; Quyết định 507/QĐ-TTg ngày 14/07/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch xếp hạng tín nhiệm đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.

[7] Giá trị phát hành trái phiếu năm 2014 gấp gần 3 lần so với năm 2011; thanh khoản trên thị trường thứ cấp được cải thiện, giá trị giao dịch bình quân năm 2014 gấp 5,6 lần so với năm 2011. Số lượng nhà đầu tư tổ chức nước ngoài tăng 89%, số lượng nhà đầu tư tổ chức trong nước tăng 35%. Giai 2011-2015 quy mô huy động vốn qua thị trường chứng khoán ước tính tăng hơn 4 lần so với giai đoạn 2005-2010

[8] Năm 2012 đã thực hiện thanh tra, kiểm tra đối với 59.419 doanh nghiệp (tăng18% so với năm 2011); xử lý truy thu, phạt và truy hoàn số tiền là 12.121 tỷ đồng (tăng 59% so với năm 2011); giảm lỗ 14.885 tỷ đồng (tăng 37% so với năm 2011); trong đó đã thanh tra, kiểm tra đối với 2.161 doanh nghiệp lỗ, doanh nghiệp có dấu hiệu chuyển giá, doanh nghiệp có hoạt động giao dịch liên kết; xác định lại doanh số của nhiều doanh nghiệp kê khai lỗ sang có lãi và kiến nghị xử lý truy thu, phạt, truy hoàn gần 747 tỷ đồng; giảm lỗ 4.776 tỷ đồng, giảm khấu trừ 144 tỷ đồng.

Năm 2013 đã thực hiện thanh tra, kiểm tra đối với 64.119 doanh nghiệp (tăng 8% so với năm 2012); xử lý truy thu, phạt và truy hoàn số tiền là 13.657 tỷ đồng (tăng 3,3% so với năm 2012); giảm lỗ 15.712 tỷ đồng (tăng 5,6% so với năm 2012); trong đó đã thanh tra, kiểm tra đối với 2.110 doanh nghiệp có giao dịch liên kết, liên tục khai lỗ nhưng vẫn đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, kiến nghị xử lý truy thu, phạt, truy hoàn 988 tỷ đồng; giảm lỗ 4.192 tỷ đồng; giảm khấu trừ 137 tỷ đồng.

Năm 2014, đã thực hiện thanh tra, kiểm tra đối với 67.053 doanh nghiệp; với tổng số thuế tăng thu qua thanh tra, kiểm tra là 12.224 tỷ đồng, trong đó truy thu là 8.022 tỷ đồng, truy hoàn 379 tỷ đồng, xử phạt là 2.920 tỷ đồng. Thanh tra, kiểm tra 3.661 doanh nghiệp lỗ, doanh nghiệp có dấu hiệu chuyển giá và doanh nghiệp có hoạt động giao dịch liên kết, giảm lỗ 7.503 tỷ; truy thu, truy hoàn và phạt 2.045 tỷ đồng.

[9] Lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến ở mức 6-9%/năm, lãi suất cho vay trung và dài hạn ở mức 9-11%/năm, các doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh, minh bạch, có phương án/dự án khả thi thì lãi suất chỉ còn 5-6%/năm.

[10] Tín dụng giai đoạn 2011-2014 tăng bình quân khoảng 12,6%/năm (dự kiến năm 2015 tăng khoảng 17%), thấp hơn rất nhiều so với mức tăng bình quân 33,3%/năm của giai đoạn 2006-2010, nhưng phù hợp với khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế hợp lý (tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2011-2014 vẫn đạt mức bình quân khoảng 5,7%/năm và dự kiến năm 2015 tăng khoảng 6,5%), không thấp hơn nhiều so với mức bình quân 7% của giai đoạn 2006-2010.

[11] Tính đến tháng 9/2015, tín dụng nông nghiệp nông thôn tăng 63,38% so với cuối năm 2011. Đến tháng 8/2015, so với cuối năm 2012, tín dụng xuất khẩu tăng khoảng 21%; tín dụng cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng 13%; tín dụng đối với lĩnh vực công nghiệp ưu tiên phát triển tăng 31%; tín dụng đối với lĩnh vực doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao tăng 117%.

[12] (i) Hỗ trợ các TCTD có tỷ trọng cho vay nông nghiệp, nông thôn lớn (từ 40% trở lên) thông qua tái cấp vốn và giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc; (ii) Tạo điều kiện cho các TCTD mở rộng mạng lưới tại các vùng sâu, vùng xa, các địa bàn nông nghiệp, nông thôn phù hợp với điều kiện thực tế để đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; (iii) Quy định trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn thấp hơn lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực sản xuất thông thường khác; (iv) Chỉ đạo các TCTD thực hiện các giải pháp về đảm bảo nguồn vốn, giảm lãi suất, cơ cấu thời hạn trả nợ, đơn giản hóa các thủ tục hành chính để tăng khả năng tiếp cận vốn của người dân, doanh nghiệp tại khu vực nông thôn theo hướng tiết giảm tối đa thủ tục.

[13] Quyết định số 15/2013/QĐ-TTg ngày 23/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với hộ cận nghèo; Quyết định số 2621/QĐ-TTg ngày 31/12/2013 sửa đổi, bổ sung một số mức hỗ trợ phát triển sản xuất quy định tại Nghị quyết 30a nhằm hỗ trợ các huyện nghèo; Quyết định số 750/QĐ-TTg ngày 01/6/2015 của Thủ tướng Chính phủ về giảm lãi suất một số chương trình tín dụng chính sách; Quyết định số 48/2014/QĐ-TTg ngày 28/8/2014 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ hộ nghèo xây dựng nhà ở phòng, tránh bão, lụt khu vực miền Trung; Quyết định số 28/2015/QĐ-TTg ngày 21/7/2015 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách cho vay đối với hộ mới thoát nghèo…

[14] Dư nợ tập trung ở một số chương trình: Cho vay hộ nghèo đạt 37.084 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 26,9% tổng dư nợ); cho vay học sinh, sinh viên đạt 24.937 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 18,1%); cho vay hộ gia đình sản xuất, kinh doanh vùng khó khăn đạt 15.116 tỷ đồng (chiếm 10,9% tổng dư nợ); cho vay nước sạch vệ sinh môi trường nông thôn đạt 19.046 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 13,8% tổng dư nợ); cho vay hộ cận nghèo đạt 26.222 tỷ đồng (chiếm 19% tổng dư nợ); chương trình cho vay hộ mới thoát nghèo tuy mới triển khai từ 05/9/2015, dư nợ đạt 994 tỷ đồng, với 36.356 khách hàng được vay vốn.

[15] Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng; Nghị định số 96/2014/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh ngoại tệ và vàng.

[16] Đến đầu tháng 7/2013, tất cả các TCTD đã tất toán hoàn toàn số dư huy động vốn bằng vàng, loại trừ cơ bản rủi ro về huy động và cho vay vốn bằng vàng trong hoạt động của hệ thống TCTD, góp phần hạn chế tình trạng đầu cơ và vàng hóa.

[17] Các tổ chức tài chính, tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế đánh giá cao những nỗ lực và kết quả thực hiện cơ cấu lại các TCTD. Kết quả cơ cấu lại ngân hàng trong 3 năm qua góp phần đưa 11 ngân hàng của Việt Nam được lọt vào danh sách 1.000 ngân hàng thế giới năm 2014 do tờ tạp chí The Banker công bố. Trong xếp hạng ngân hàng khu vực Đông Nam Á về Chỉ số an toàn vốn cấp 1, các ngân hàng Việt Nam chiếm đa số trong Top 10. Tháng 9/2015, Hãng xếp hạng tín nhiệm Moody’s phát hành báo cáo xếp hạng đối với 9 ngân hàng Việt Nam gồm VietinBank, VIB, BIDV, Sacombank, Techcombank, ACB, MB, VPBank và SHB. Theo bảng xếp hạng này, VIB và VietinBank là hai ngân hàng có chỉ số sức mạnh tài chính (BCA) cao nhất (ở mức B3) trong số 9 ngân hàng được đánh giá và có triển vọng "ổn định". Triển vọng "ổn định" cũng được Moody’s xếp hạng cho BIDV và SHB trong khi các ngân hàng còn lại được đánh giá triển vọng "tích cực". Xét về tiền gửi nội tệ, VietinBank và BIDV có chỉ số cao nhất ở mức B1, tiếp đến là VIB ở mức B2 và các ngân hàng còn lại ở mức B3. Xét theo tiền gửi ngoại tệ, VietinBank, VIB và BIDV được xếp hạng cao nhất ở mức B2. Các ngân hàng còn lại có mức xếp hạng B3.

[18] Tỷ lệ nợ xấu đến cuối tháng 9/2015 về mức 2,93% tổng dư nợ (từ 2012 đến tháng 9/2015, 98,09% nợ xấu tương đương 455,79 nghìn tỷ đồng đã được xử lý, trong đó bán nợ xấu cho VAMC chiếm 42% và các biện pháp TCTD tự xử lý chiếm 58%). Lũy kế từ năm 2013 đến 30/9/2015, VAMC đã mua 191 nghìn tỷ đồng của 39 TCTD với số lượng 15.257 khách hàng vay và 23.206 khoản nợ; phối hợp với các TCTD thu hồi nợ được 14.846 tỷ đồng (trong đó thu hồi nợ từ khách hàng vay là 10.949 tỷ đồng, bán nợ là 2.789 tỷ đồng, bán tài sản bảo đảm là 1.108 tỷ đồng).

[19] Quyết định số 1208/2011/QĐ-TTg ngày 21/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020 có xét đến năm 2030.

[20] Thực hiện Nghị quyết số 62/2013/NQ-QH13 của Quốc hội, qua rà soát đã loại bỏ 439 dự án; xem xét thu hồi chủ trương đầu tư 47 dự án; không đưa vào quy hoạch 178 vị trí tiềm năng; gia hạn có thời hạn đối với 13 dự án.

[21] Giai đoạn 2011-2015 đã cấp điện đến 40 xã (bằng 70,1% mục tiêu); 2.250 thôn, bản (bằng 90% mục tiêu); số hộ dân được cấp điện gần 166 nghìn (bằng 17% mục tiêu); đã cấp điện lưới cho 11 đảo và xã đảo.

[22] Quyết định số 63/2013/QĐ-TTg ngày 08/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ quy định về lộ trình, các điều kiện và cơ cấu ngành điện để hình thành và phát triển các cấp độ thị trường điện lực tại Việt Nam. Ngày 01/7/2012, thị trường phát điện cạnh tranh được vận hành chính thức. Bộ Công Thương ban hành Quyết định số 6463/2014/QĐ-BCT phê duyệt Thiết kế tổng thể thị trường bán buôn điện cạnh tranh Việt Nam và Quyết định số 8266/QĐ-BCT ngày 10/8/2015 phê duyệt Thiết kế chi tiết Thị trường bán buôn điện cạnh tranh Việt Nam.

[23] Nghị định số 83/2014/NĐ-CP ngày 03/9/2014 của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu. Đến tháng 9/2015 đã có 23 doanh nghiệp đầu mối xuất nhập khẩu xăng dầu.

[24] Nghị định số 111/2015/NĐ-CP ngày 03/11/2015 của Chính phủ về phát triển công nghiệp hỗ trợ; Quyết định số 9028/QĐ-BCT ngày 08/10/2014 của Bộ Công Thương về phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp hỗ trợ đến 2020, tầm nhìn đến 2030.

[25] Quyết định số 2471/QĐ-TTg ngày 28/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011-2020, định hướng đến năm 2030; Quyết định 706/QĐ-TTg ngày 21/5/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển thương hiệu gạo Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quyết định số 1012/QĐ-TTg ngày 03/7/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển hệ thống trung tâm logistics trên địa bàn cả nước đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; Quyết định 1467/QĐ-TTg ngày 24/8/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Phát triển các thị trường khu vực thời kỳ 2015-2020, tầm nhìn đến 2030; Quyết định số 1513/QĐ-TTg ngày 03/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam tham gia trực tiếp các mạng phân phối nước ngoài giai đoạn đến 2020.

[26] Nghị quyết số 41/NQ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về đẩy mạnh công tác đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả trong tình hình mới; Chỉ thị số 30/CT-TTg ngày 30/9/2014 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác đấu tranh chống buôn lậu thuốc lá.

[27] Tới nay cả nước đã có 2.100 doanh nghiệp chế biến nông sản, 3.604 doanh nghiệp chế biến gỗ, gần 600 doanh nghiệp chế biến thuỷ sản quy mô công nghiệp và hàng vạn cơ sở chế biến nhỏ lẻ đảm bảo xay xát, sơ chế hầu hết sản lượng lúa gạo, chế biến hầu hết sản lượng sữa, mía, hạt điều, 70% thuỷ sản, 20% cao su… 

[28] Nghị định số 42/2012/NĐ-CP ngày 11/5/2012 của Chính phủ về quản lý, sử dụng đất trồng lúa; Nghị định số 210/2013/NĐ-CP ngày 19/12/2013 của Chính phủ về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; Nghị định số 36/2014/NĐ-CP ngày 29/4/2014 của Chính phủ về nuôi, chế biến và xuất khẩu sản phẩm cá tra; Nghị định số 67/2014/NĐ-CP ngày 07/7/2014 của Chính phủ về một số chính sách phát triển thủy sản; Nghị định số 89/2015/NĐ-CP ngày 07/10/2015 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2014/NĐ-CP ngày 07/7/2014 của Chính phủ về một số chính sách phát triển thủy sản; Nghị định số 118/2014/NĐ-CP ngày 17/12/2014 của Chính phủ về sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp; Nghị định 35/2015/NĐ-CP ngày 13/4/2015 của Chính phủ về quản lý, sử dụng đất lúa; Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn; Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg ngày 25/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn; Quyết định số 68/2013/QĐ-TTg ngày 14/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp; Quyết định số 50/2014/QĐ-TTg ngày 04/9/2014 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ nâng cao hiệu quả chăn nuôi nông hộ giai đoạn 2015 - 2020; Quyết định số 575/QĐ-TTg ngày 04/5/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể khu và vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; Quyết định số 706/QĐ-TTg ngày 21/5/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển thương hiệu gạo Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quyết định số 193/QĐ-TTg ngày 02/02/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình rà soát quy hoạch xây dựng nông thôn mới; Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành Nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững; Quyết định số 575/2015/QĐ-TTg ngày 04/5/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể khu và vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 06/10/2015 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh thực hiện Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững; Quyết định số 1895/QĐ-TTg ngày 17/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thuộc Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020.

[29] Tổng diện tích đất quy hoạch cho ngành lâm nghiệp đến năm 2020 là 16,245 triệu ha (đất rừng đặc dụng: 2,16 triệu ha; đất rừng phòng hộ: 5,68 triệu ha; đất rừng sản xuất: 8,40 triệu ha). Quy hoạch hệ thống rừng đặc dụng cả nước đến năm 2020 từ 2,2 triệu ha lên 2,4 triệu ha.

[30] Đến nay đã cấp 1.727 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các công ty nông nghiệp (với diện tích 280.440,86 ha) và 973 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các công ty lâm nghiệp (với diện tích hơn 1.100.000 ha).

[31] Đến ngày 10/10/2015, cả nước đã trồng rừng thay thế 18.626 ha, đạt 27%, bao gồm các dự án thủy điện 9.542 ha và các dự án khác 9.084 ha.

[32] Nghị định số 210/2013/NĐ-CP ngày 19/12/2013 của Chính phủ về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; Nghị định số 12/2015/NĐ-CP ngày 12/02/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế và sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về thuế; Nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức đối tác công tư; Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn.  

[33] Trong đó, ngân sách nhà nước chiếm 31,3%, vốn tín dụng 51%, đóng góp của cộng đồng 12,7%, vốn của doanh nghiệp 4,9%, các nguồn khác 2,1%.

[34] Báo cáo số 569/BC-CP ngày 23/10/2015 của Chính phủ về việc thực hiện Nghị quyết số 26/2012/QH13 của Quốc hội về tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật đầu tư công cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

[35] Giá trị sản xuất tăng 3,52%/năm. Kim ngạch xuất khẩu năm 2015 ước đạt 30 tỷ USD, tăng 56,6% so với năm 2010. Năng suất lao động năm 2015 đạt 30 triệu đồng/năm, tăng 84,1% so với năm 2010

[36] Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai; Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về giá đất; Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định thu tiền sử dụng đất; Nghị định số 46/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định thu tiền thuê đất, thuê mặt nước; Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Nghị định số 102/2014/NĐ-CP ngày 14/11/2014 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai; Nghị định số 104/2014/NĐ-CP ngày 14/11/2014 của Chính phủ quy định khung giá đất; Nghị định số 118/2014/NĐ-CP ngày 17/12/2014 của Chính phủ về sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu hoạt động của các công ty nông nghiệp, công ty lâm nghiệp; Nghị định số 35/2015/NĐ-CP ngày 13/4/2015 của Chính phủ về quản lý, sử dụng đất trồng lúa.

[37] Nghị định số 03/2015/NĐ-CP ngày 06/01/2015 của Chính phủ quy định về xác định thiệt hại đối với môi trường; Nghị định số 18/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ về quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường; Nghị định số 19/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường; Nghị định số 127/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ quy định điều kiện của tổ chức hoạt động dịch vụ quan trắc môi trường; Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24/4/2015 của Chính phủ quy định quản lý chất thải và phế liệu; Nghị định số 114/2014/NĐ-CP ngày 26/11/2014 của Chính phủ quy định về đối tượng, điều kiện được phép nhập khẩu, phá dỡ tàu biển đã qua sử dụng; Quyết định số 73/2014/QĐ-TTg ngày 19/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ quy định danh mục phế liệu được phép nhập khẩu từ nước ngoài làm nguyên liệu sản xuất; Quyết định số 16/2015/QĐ-TTg ngày 22/5/2015 của Thủ tướng Chính phủ quy định về thu hồi, xử lý sản phẩm thải bỏ.

[38] Trình Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giao thông đường thủy nội địa năm 2014; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2014; Nghị định số 171/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 của Chính phủ quy định xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt, Nghị định số 93/2013/NĐ-CP ngày 20/8/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải, đường thủy nội địa; Nghị định số 147/2013/NĐ-CP ngày 30/10/2013 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng; Nghị định số 86/2014/NĐ-CP ngày 10/9/2014 của Chính phủ về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô; Nghị định số 107/2014/NĐ-CP ngày 17/11/2014 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 171/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt; Quyết định số 1502/QĐ-TTg ngày 11/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Tổng thể kiểm soát tải trọng xe trên đường bộ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quyết định số 1586/QĐ-TTg ngày 24/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược Quốc gia bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.

[39] Đã cổ phần hóa 143 doanh nghiệp; sắp xếp, tổ chức lại 50 doanh nghiệp; phê duyệt Đề án tái cơ cấu 19 Tổng công ty (Công nghiệp tàu thủy Việt Nam, Hàng hải Việt Nam, Đường sắt Việt Nam, Hàng không Việt Nam...); hoàn thành thoái vốn tại 91 doanh nghiệp.  

[40] Chiến lược phát triển GTVT Việt Nam; Chiến lược bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ quốc gia; Chiến lược phát triển giao thông nông thôn Việt Nam. Điều chỉnh Quy hoạch phát triển GTVT đường bộ Việt Nam; Quy hoạch phát triển mạng đường bộ cao tốc; đường Hồ Chí Minh; hệ thống đường ngang nối với đường Hồ Chí Minh; đường hành lang biên giới Việt - Trung; hành lang biên giới khu vực miền Trung; tuyến đường bộ ven biển; đường bộ cao tốc Bắc Nam phía Đông; tổng thể phát triển đường sắt; đường hàng không; đường thuỷ nội địa; hệ thống cảng đường thủy nội địa khu vực phía Bắc; đường biển; cảng biển; công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam; Quy hoạch phát triển GTVT các vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, phía Nam, miền Trung, đồng bằng Sông Cửu Long, vùng Thủ đô Hà Nội, vùng Thành phố Hồ Chí Minh, đảo Phú Quốc...

[41] Theo báo cáo của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), năm 2015, năng lực và chất lượng của hạ tầng giao thông Việt Nam đứng vị trí 67, tăng 36 bậc so với năm 2010.

Năm 2014, theo xếp hạng của Ngân hàng Thế giới, chỉ số hoạt động logistics (LPI) của Việt Nam đạt 3,5/5 điểm, xếp thứ 48 trong bảng xếp hạng chỉ số LPI của thế giới, tăng 5 bậc so với năm 2010. Tốc độ phát triển của thị trường logistics ở Việt Nam trung bình đạt từ 16 - 20%/năm.

[42] Các dự án nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 1A đã hoàn thành và đưa vào khai thác 33/38 dự án, dự kiến đến hết năm 2015 sẽ hoàn thành và thông xe toàn bộ tuyến, sớm hơn 1 năm so với kế hoạch; đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên đã hoàn thành toàn tuyến và đưa vào khai thác sớm hơn 1,5 năm.

[43] Năm 2014, tại Hà Nội có 11.550 giao dịch thành công (tăng gần 2 lần so với 2013), tại Thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 10.350 giao dịch thành công (tăng gần 1,3 lần so với 2013). Trong 9 tháng đầu năm 2015, tại Hà Nội có khoảng 14.550 giao dịch thành công; tại Thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 13.850 giao dịch thành công (tăng gấp 2 lần so với cùng kỳ 2014).

[44] Trong tổng số 3.978 dự án phát triển khu đô thị, phát triển nhà ở, sau khi rà soát có: 3.172 dự án (chiếm 79,74%) được tiếp tục triển khai; 460 dự án (chiếm 11,56%) cần phải điều chỉnh cơ cấu căn hộ, điều chỉnh quy hoạch; 306 dự án (chiếm 7,69%) phải tạm dừng triển khai.

[45] Đến nay, cả nước đã có 62 dự án đăng ký chuyển đổi từ nhà ở thương mại sang nhà ở xã hội với quy mô xây dựng khoảng 41.769 căn hộ; 88 dự án đăng ký điều chỉnh cơ cấu căn hộ (giảm diện tích) cho phù hợp hơn với nhu cầu thị trường với số lượng ban đầu là 36.113 căn hộ đề nghị điều chỉnh thành 49.199 căn hộ.

[46] Gồm: (1) Đề án nhà ở xã hội tại tỉnh Bình Dương với quy mô 64.000 căn hộ, diện tích xây dựng hơn                2,7 triệu m2 sàn, đã hoàn thành gần 5.000 căn; (2) Dự án nhà ở công nhân khu công nghiệp Nhơn Trạch, Đồng Nai quy mô 3.500 căn, hiện đã hoàn thành đợt 1 với 510 căn, đang triển khai tiếp đợt 2 với gần 1.000 căn; (3) Dự án Khu nhà ở xã hội tại Khu đô thị mới Đặng Xá, Gia Lâm, Hà Nội, đã hoàn thành giai đoạn 1 và 2 với quy mô 1.063 căn hộ, diện tích sàn xây dựng khoảng 84.000 m2, đáp ứng chỗ ở cho khoảng 4.000 người, đang triển khai giai đoạn 3 với khoảng gần 2.000 căn; (4) Dự án nhà ở xã hội Bắc Cổ Nhuế - Chèm đã hoàn thành giai đoạn 1 với 930 căn, đang triển khai giai đoạn 2 với 980 căn.

[47] Trong hai năm 2013, 2014 và 9 tháng đầu năm 2015, Thanh tra Bộ Xây dựng đã triển khai 182 đoàn thanh tra, kiểm tra chuyên ngành xây dựng.

[48] Năm 2013, 2014, Thanh tra Bộ ban hành 94 kết luận, trong đó kiến nghị xử lý về kinh tế các sai phạm là 2.624 tỷ đồng; ban hành 32 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính với tổng số tiền 3,236 tỷ đồng. Trong 9 tháng đầu năm 2015, ban hành 43 kết luận thanh tra, kiến nghị xử lý về kinh tế số tiền gần 573 tỷ đồng; ban hành 26 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính với tổng số tiền xử phạt là 5,83 tỷ đồng.

[49] Đến nay đã có 60/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã phê duyệt quy hoạch xây dựng vùng tỉnh; 770/770 thành phố, thị xã, thị trấn đã có quy hoạch chung được duyệt; tỷ lệ phủ kín quy hoạch phân khu/quy hoạch chi tiết 1/2000 đạt khoảng 70%; quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 đạt khoảng 30% so với diện tích đất xây dựng đô thị; tỷ lệ quy hoạch xây dựng nông thôn mới đạt khoảng 94,5%.

[50] Từ năm 2011 đến nay, ngân sách trung ương đã dành 33 nghìn tỷ đồng để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; trong đó vốn đầu tư là 25 nghìn tỷ đồng, vốn sự nghiệp là 8 nghìn tỷ đồng.

[51] Nghị định số 75/2015/NĐ-CP ngày 09/9/2015 của Chính phủ về cơ chế chính sách hỗ trợ bảo vệ và phát triển rừng, gắn với chính sách giảm nghèo nhanh, bền vững và hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2015-2020.

[52] Trợ cấp thường xuyên trên 1,4 triệu người; trợ cấp một lần gần 55 nghìn người; trợ cấp giáo dục hơn 185 ngàn người; tổ chức điều dưỡng luân phiên cho gần 700 nghìn người, trong đó điều dưỡng tập trung trên 140 nghìn người; nuôi dưỡng, chăm sóc tập trung 1.300 thương bệnh binh nặng.

[53] Tổng rà soát việc thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công 2014-2015 đạt 2.070.151 người, trong đó số đối tượng được hưởng đúng và đủ chính sách là 1.982.108 người (chiếm tỷ lệ 95,75%); số đối tượng hưởng chưa đầy đủ chính sách là 86.201 người (chiếm 4,16%) và có 1.872 người (chiếm 0,09%) thuộc đối tượng hưởng sai chính sách.

Phát hiện 4.057 hồ sơ sai sót tại 25 địa phương, kiến nghị thu hồi ngân sách nhà nước trên 38,7 tỷ đồng.

[54] Trong 2.400 tỷ đồng, ngân sách trung ương là trên 2.200 tỷ đồng. Đến tháng 8/2015, theo báo cáo của các địa phương đã được cấp kinh phí, đã có 52.351 hộ đã hoàn thành việc hỗ trợ theo Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg (trong đó có 33.768 hộ được xây mới nhà ở và 18.583 hộ được sửa chữa, cải tạo lại nhà ở), 10.925 hộ đang triển khai thực hiện (trong đó có 5.680 hộ xây mới nhà ở và 5.245 hộ sửa chữa, cải tạo nhà ở), việc thực hiện hỗ trợ đến nay đạt tỷ lệ 88% số hộ cần hỗ trợ theo kế hoạch.

[55] Năm 2014, cả nước có 106 nghìn người đi làm việc ở nước ngoài, là năm có số lượng người lao động đi làm việc ở nước ngoài lớn nhất từ trước tới nay. Trong 10 tháng đầu năm 2015, tổng số lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài là 99.415 người, vượt 4,65% kế hoạch năm 2015 và bằng 109,1% so với cùng kỳ năm 2014.

[56] Từ năm 2007 đến tháng 6/2015, đã tiến hành 378 cuộc thanh tra, kiểm tra; hướng dẫn, chấn chỉnh các doanh nghiệp hoạt động theo đúng quy định của pháp luật về đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài. Đã xử phạt vi phạm hành chính đối với 187 lượt doanh nghiệp, trong đó phạt tiền 102 lượt doanh nghiệp; phạt cảnh cáo đối với 85 doanh nghiệp; đình chỉ thực hiện hợp đồng có thời hạn từ 3 đến 6 tháng đối với 14 lượt doanh nghiệp; đình chỉ thực hiện hợp đồng và đình chỉ hoạt động đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài từ 3 tháng đến 12 tháng đối với 14 lượt doanh nghiệp; có văn bản chấn chỉnh, nhắc nhở 87 doanh nghiệp. Thu hồi giấy phép của 44 doanh nghiệp do hoạt động không có hiệu quả.

[57] Nghị quyết số 93/NQ-CP ngày 15/12/2014 của Chính phủ về một số cơ chế, chính sách phát triển y tế.

[58] Xây mới 05 bệnh viện: Bệnh viện Việt Đức cơ sở 2, Bệnh viện Bạch Mai cơ sở 2, Bệnh viện chấn thương chỉnh hình trung ương Thành phố Hồ Chí Minh, Bệnh viện Nhi đồng và Bệnh viện Ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh với tổng số 4.500 giường bệnh.

[59] Trong số 287 xã chưa có trạm y tế, các nhà tài trợ ODA đã cam kết xây dựng 70 trạm y tế xã cho 10 tỉnh khó khăn bằng nguồn vốn Chương trình hỗ trợ ngân sách không hoàn lại của EU; cam kết xây dựng 24 trạm y tế xã ở khu vực Tây Nguyên từ nguồn vốn Dự án Hỗ trợ y tế Tây Nguyên 2, vay vốn của ADB.

[60] Thanh toán 100% chi phí khám bệnh, chữa bệnh đối với người có công với cách mạng, cựu chiến binh, trẻ em dưới 6 tuổi, người thuộc diện hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội hằng tháng, người thuộc hộ gia đình nghèo; người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; người đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người đang sinh sống tại xã đảo, huyện đảo, thân nhân của người có công với cách mạng là cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng, con của liệt sỹ; người có công nuôi dưỡng liệt sỹ; 100% chi phí khám bệnh, chữa bệnh và không áp dụng giới hạn tỷ lệ thanh toán một số thuốc, hóa chất, vật tư y tế và dịch vụ kỹ thuật đối với: Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945; người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến ngày khởi nghĩa tháng Tám năm 1945; Bà mẹ Việt Nam anh hùng; thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, thương binh loại B, bệnh binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên; thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, thương binh loại B, bệnh binh khi điều trị vết thương, bệnh tật tái phát; trẻ em dưới 6 tuổi; 100% chi phí khám bệnh, chữa bệnh tại tuyến xã; 100% chi phí khám bệnh, chữa bệnh đối với trường hợp chi phí cho một lần khám bệnh, chữa bệnh thấp hơn 15% mức lương cơ sở; 100% chi phí khám bệnh, chữa bệnh đối với người bệnh có thời gian tham gia bảo hiểm y tế 5 năm liên tục tính từ thời điểm người đó tham gia bảo hiểm y tế đến thời điểm đi khám bệnh, chữa bệnh và có số tiền cùng chi trả chi phí khám bệnh, chữa bệnh lũy kế trong năm lớn hơn 6 tháng lương cơ sở, tính từ thời điểm tham gia bảo hiểm y tế đủ 5 năm liên tục, trừ trường hợp tự đi khám bệnh, chữa bệnh không đúng tuyến; 95% chi phí khám bệnh, chữa bệnh đối với người hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hàng tháng, thân nhân của người có công với cách mạng, trừ thân nhân của người có công với cách mạng là cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng, con của liệt sỹ; người có công nuôi dưỡng liệt sỹ, người thuộc hộ gia đình cận nghèo; 80% chi phí khám bệnh, chữa bệnh đối với các đối tượng khác.

[61] Quyết định số 1267/QĐ/BNN-TY ngày 10/06/2014 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt Đề án “Bảo đảm an toàn thực phẩm trong vận chuyển, giết mổ gia súc, gia cầm giai đoạn 2014-2020”.

[62] Kiên cố hóa trường lớp, xóa bỏ các phòng học ba ca, xuống cấp; triển khai chính sách hỗ trợ trẻ em nghèo, dân tộc thiểu số, miền núi đi học.

[63] Quyết định số 37/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2006-2020; Nghị định số 42/2013/NĐ-CP ngày 09/05/2013 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động thanh tra giáo dục; Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 của Chính phủ về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014-2017.

[64] Thực hiện thí điểm đổi mới cơ chế của 12 trường đại học: Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Tôn Đức Thắng, Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học Hà Nội, Đại học Tài chính - Marketing, Đại học Ngoại thương, Đại học Công nghiệp Dệt may Hà Nội, Đại học Công nghệ Thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Điện lực, Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh.

[65] Các phong trào: “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Gia đình văn hóa, làng văn hóa, tổ dân phố văn hóa”, “Giáo dục chủ nghĩa yêu nước gắn với thi đua yêu nước”, “Người tốt, việc tốt, các điển hình tiên tiến”.

[66] Nghị định số 70/2012/NĐ-CP ngày 18/9/2012 của Chính phủ quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập, phê duyệt quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh; Nghị định                    số 62/2014/NĐ-CP ngày 25/6/2014 của Chính phủ quy định về xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân Nhân dân”,            “Nghệ nhân Ưu tú” trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể.

[67] Ban hành 5/7 quy hoạch vùng, tập trung vào 46 khu du lịch và 41 điểm du lịch quốc gia, 12 đô thị du lịch.

[68] Nghị định số 72/2013/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng thay thế Nghị định số 97/2008/NĐ-CP ngày 28/8/2008 của Chính phủ về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet; Nghị định số 174/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện thay thế Nghị định số 28/2009/NĐ-CP ngày 20/3/2009 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet.

[69] Nghị định số 77/2012/NĐ-CP về việc sửa đổi, bổ sung Nghị định số 90/2008/NĐ-CP về chống thư rác. Trong Quý I/2015, Bộ Thông tin và Truyền thông đã theo dõi và xử lý 5.398 trường hợp tấn công (tăng hơn 6 lần so với cùng kỳ), trong đó có 122 cổng/trang thông tin điện tử của các cơ quan nhà nước (.gov.vn) bị tấn công thay đổi giao diện và cài mã độc.

[70] Quyết định số 32/2012/QĐ-TTg ngày 27/7/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển viễn thông quốc gia đến năm 2020; Quyết định số 45/2012/QĐ-TTg ngày 23/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ về tiêu chí xác định công trình viễn thông quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia.

[71] Đã kiến nghị sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ, dừng thi hành hoặc ban hành mới 282 văn bản quy phạm pháp luật phù hợp quy định của Hiến pháp, trong đó ở Trung ương có 241 văn bản; ở địa phương có 41 văn bản.

[72] Giai đoạn 2001-2010, trung bình mỗi năm chậm ban hành là 78 văn bản; từ giai đoạn 2011 đến nay trung bình là 50 văn bản/năm (năm 2011 chậm ban hành 33 văn bản thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, năm 2012 chậm 27 văn bản, năm 2013 chậm 17 văn bản, năm 2014 chậm 6 văn bản).

[73] Trong giai đoạn 2012-2014, trung bình mỗi năm các Bộ, ngành kiểm tra theo thẩm quyền trên 5.000 văn bản. Năm 2012, kiểm tra 4.879 văn bản, phát hiện 287 văn bản có dấu hiệu vi phạm về nội dung, 25 văn bản sai về thẩm quyền; năm 2013 kiểm tra 4.343 văn bản, phát hiện 323 văn bản có dấu hiệu vi phạm về nội dung, 9 văn bản sai về thẩm quyền; năm 2014 (theo số liệu tổng hợp tại 15/22 Bộ, ngành), kiểm tra 6.304 văn bản, phát hiện 241 văn bản có dấu hiệu vi phạm về nội dung, 30 văn bản sai về thẩm quyền.

[74] Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự.

[75] Cấp tỉnh có 17-20 cơ quan, cấp huyện có 12-13 cơ quan, phù hợp với đặc thù của từng địa phương.

[76] Đã có 22 Bộ, ngành, 52 địa phương đã hoàn thành việc xác định danh mục vị trí việc làm gửi Bộ Nội vụ thẩm định.

[77] Tính đến tháng 11/2015, có 131 Thứ trưởng và tương đương (tăng 9 so với đầu nhiệm kỳ); có 238 Phó Chủ tịch UBND cấp tỉnh (so với quy định nếu không tính 27 người thuộc diện luân chuyển thì vượt 9 người; so với đầu nhiệm kỳ nếu không tính 27 người thuộc diện luân chuyển thì giảm 5 người).

[78] Năm 2015 số lần giao dịch bảo hiểm xã hội từ 12 lần/năm xuống còn 1 lần/năm; thời gian nộp thuế của doanh nghiệp giảm từ 167 giờ xuống còn 117 giờ/năm; thời gian thông quan hàng hóa giảm bình quân từ 21 ngày xuống còn 14 ngày đối với xuất khẩu, 13 ngày đối với nhập khẩu; thời gian tiếp cận điện năng giảm còn 18 ngày.

[79] Đã triển khai chính thức cơ chế một cửa quốc gia tại 5 cảng biển quốc tế (Hải Phòng, Quảng Ninh,             Đà Nẵng, Bà Rịa - Vũng Tàu và Thành phố Hồ Chí Minh).

[80] Nghị định 75/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Khiếu nại; Nghị định số 76/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tố cáo; Nghị định số 64/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiếp công dân.

[81] Nghị định 59/2013/NĐ-CP ngày 17/5/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng; Nghị định 78/2013/NĐ-CP ngày 17/7/2013 của Chính phủ về minh bạch tài sản, thu nhập; Nghị định 211/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 107/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách; Nghị định 90/2013/NĐ-CP ngày 08/8/2013 của Chính phủ quy định trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn; Nghị quyết số 82/NQ-CP ngày 06/12/2012 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Kết luận 21-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về "tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí" giai đoạn 2012-2016.

[82] Tổ chức 2.135 lớp tuyên truyền, quán triệt pháp luật về PCTN cho 144.183 lượt người; duy trì việc tuyên truyền các quy định về phòng, chống tham nhũng trên các phương tiện thông tin đại chúng.

[83] Thanh tra Chính phủ có quy chế phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số ngành về giám sát công tác bảo hiểm xã hội.

[84] Năm 2014, đã triển khai 7.072 cuộc thanh tra hành chính và 233.811 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành; đã kiến nghị thu hồi về ngân sách nhà nước 51.583 tỷ đồng, 1.682 ha đất; xuất toán, loại khỏi giá trị quyết toán và đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý 13.777 tỷ đồng, 1.355 ha đất; xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 3.280 tỷ đồng; kiến nghị xử lý kỷ luật hành chính đối với 2.073 tập thể, 15.449 cá nhân; chuyển cơ quan điều tra xử lý 55 vụ việc.

[85] Nghị định số 33/2015/NĐ-CP ngày 27/3/2015 của Chính phủ quy định về việc thực hiện kết luận thanh tra.

[86] Đã trình quốc hội thông qua Luật Phòng, chống khủng bố 2013; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cư trú 2013; Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài ở Việt Nam 2014; Luật Công an nhân dân 2014; Luật Căn cước công dân 2014; Pháp lệnh Cảnh sát cơ động 2014; Pháp lệnh Cảnh sát môi trường 2014.

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất