Tình yêu của Bác với thương binh và thân nhân liệt sĩ
Tháng 6-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho các cơ quan chọn một ngày trong năm làm Ngày Thương binh để nhân dân ta có dịp tỏ lòng biết ơn, yêu mến, tri ân những người đã hy sinh vì Tổ quốc. Các cơ quan, các ngành ở Trung ương và tỉnh Thái Nguyên đã họp ở xã Phú Minh, huyện Đại Từ, thống nhất lấy ngày 27-7-1947, công bố bức thư đầu tiên của Bác Hồ gửi Ban thường trực của Ban Tổ chức Ngày Thương binh toàn quốc, và ghi nhận sự ra đời Ngày Thương binh toàn quốc. Thư Bác viết: Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp. Cha mẹ, anh em, vợ con thân thích, họ hàng ta bị đe doạ. Của cải, ruộng nương, nhà cửa, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập. Ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù, để giữ gìn đất nước cho chúng ta. Đó là những chiến sỹ mà nay một số thành thương binh. Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu, để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào, mà các đồng chí đó chịu ốm yếu. Vì vậy Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những con người anh hùng ấy… Ngày 27-7 là dịp cho đồng bào ta tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái và tỏ lòng thương yêu thương binh” (sau đổi thành Ngày Thương binh - Liệt sỹ). Bác Hồ cũng gửi tặng một chiếc áo lụa của chị em phụ nữ đã biếu Người, một tháng lương và tiền ăn một bữa của Người và các nhân viên tại Phủ Chủ tịch, tổng cộng là một nghìn một trăm hai mươi bảy đồng đề giúp các chiến sĩ trị thương.
Trong một bức thư nhân Ngày Thương binh - Liệt sĩ Bác viết tràn đầy tình thương yêu và đau xót: “Khi ngoại xâm ào ạt đến, nó như một trận lụt to. Nó sẽ đe doạ tràn ngập cả non sông Tổ quốc. Nó đe doạ cuốn trôi cả tính mệnh, tài sản, chìm đắm cả bố mẹ, vợ con của dân ta. Trước cơn nguy biến ấy, số đông thanh niên yêu quý của nước ta đã dũng cảm xông ra trước mặt trận. Họ quyết đem xương máu của họ đắp thành một bức thành đồng, một con đê vững để ngăn cản nạn ngoại xâm tràn ngập Tổ quốc, làm hại đồng bào.
Họ quyết hy sinh gia đình và tài sản của họ để bảo vệ gia đình và tài sản đồng bào.
Họ quyết liều chết chống địch để cho Tổ quốc và đồng bào sống.
Họ là những chiến sỹ anh dũng của chúng ta”.
Tình thương yêu của Bác Hồ đối với thương binh và gia đình liệt sĩ vô cùng rộng lớn và thiết tha. Khi nhận được tin người con trai Bác sĩ Vũ Đình Tụng hy sinh, Bác viết thư thăm hỏi: “Tôi được biết rằng con trai của Ngài đã oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc. Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là đại gia đình của tôi, tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên, thì hình như tôi đứt một đoạn ruột. Nhưng cháu và anh em thanh niên khác dũng cảm hy sinh để giữ gìn đất nước. Thế là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi. Họ chết cho Tổ quốc sống mãi, tinh thần họ đã luôn luôn sống với non sông Việt Nam”.
Ngay sau ngày Thủ đô được giải phóng, Bác Hồ cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã đến đặt vòng hoa trước đài liệt sĩ mới được dựng trên quảng trường Ba Đình. Lời diễn từ của Người đau thương và xúc động: “Hỡi các liệt sĩ! Trong lúc cả nước vui mừng thì mọi người đều thương tiếc các liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, vì dân tộc. Máu nóng của các liệt sĩ đã nhuộm lá quốc kỳ. Tiếng thơm của các liệt sĩ sẽ muôn đời truyền với sử xanh. Một nén hương thành. Vài lời an ủi…”.
Trong thư gửi cụ Bộ trưởng Bộ Thương binh tháng 7-1951 Bác viết: “… đối với những người con trung hiếu ấy Chính phủ và đồng bào phải báo đáp thế nào cho xứng đáng. Mỗi xã phải tuỳ theo sự cố gắng và khả năng chung mà đón nhận một số anh em thương binh. Giúp họ lâu dài chứ không phải trong một thời gian ngắn”. Người còn căn dặn cặn kẽ: “Đồng bào nên hết sức giúp đỡ anh em thương binh, nên coi đó là một nghĩa vụ của nhân dân đối với những chiến sỹ bị thương, bị bệnh. Không nên coi đó là một việc làm phúc”. Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh” … “Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh, liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu thì chính quyền địa phương phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”… “ Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng, xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta”.
Nhớ lời Bác dặn: "Đầu tiên là công việc đối với con người"
Bác luôn luôn giáo dục cho các thế hệ phải ghi nhớ công ơn của liệt sĩ, thương binh. Trong diễn văn đọc tại buổi lễ kỉ niệm 30 năm thành lập Đảng (1960) khi nói về thương binh, liệt sĩ, Bác viết : “ăn quả phải nhớ kẻ trồng cây. Trong cuộc tưng bừng vui vẻ hôm nay, chúng ta phải nhớ đến những anh hùng, liệt sĩ của Đảng, của dân ta… Máu đào của các liệt sĩ đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do. Nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn các liệt sĩ và chúng ta phải luôn luôn học tập tinh thần dũng cảm của các liệt sĩ để vượt tất cả khó khăn, gian khổ, hoàn thành sự nghiệp cách mạng mà các liệt sĩ chuyển lại cho chúng ta…”.
Bảy mươi tư năm, kể từ Ngày Thương binh - Liệt sỹ đầu tiên đến nay, Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đã triển khai nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp, tổ chức nhiều hoạt động để toàn dân được thực hiện việc “đền ơn đáp nghĩa” như: Pháp lệnh đối với người có công; Pháp lệnh về phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng; thực hiện đề án tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ; phát động các phong trào về chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, đỡ đầu nuôi dưỡng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng; phong trào xây dựng nhà tình nghĩa, hỗ trợ xây dựng sửa chữa nhà cho các đối tượng người có công, bố trí giải quyết việc làm cho con liệt sĩ; tặng sổ tiết kiệm cho các đối tượng khó khăn… Các hoạt động đã được triển khai trong toàn xã hội, từ các cấp ở trung ương đến cơ sở.
Ngày nay do kinh tế đã có bước phát triển nên chúng ta đã có điều kiện để chăm sóc tốt hơn với 9,2 triệu người có công, trong đó có 1,4 triệu người hưởng chế độ ưu đãi hằng tháng, phụng dưỡng 140 nghìn Bà mẹ Việt Nam Anh hùng; tìm kiếm, quy tập, chăm lo cho 1.146.250 phần mộ của liệt sĩ, xây dựng 9.637 công trình ghi công liệt sĩ, chăm sóc hơn 600.000 thương binh. Cùng với việc bảo đảm chế độ trợ cấp ưu đãi thường xuyên, nhiều chính sách hỗ trợ khác đối với người và gia đình có công với cách mạng cũng được ban hành và thực hiện, như: chính sách bảo hiểm y tế; hỗ trợ về nhà ở; ưu đãi trong chính sách giáo dục và đào tạo, việc làm; chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng; vay vốn, hỗ trợ các cơ sở sản xuất - kinh doanh của thương. bệnh binh, thân nhân liệt sĩ và người có công với cách mạng; nâng cấp, đáp ứng yêu cầu nuôi dưỡng, điều dưỡng người có công với cách mạng…
Nét đẹp văn hoá truyền thống Việt Nam
“Đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn” đã trở thành nét đẹp văn hóa truyền thống và có sức lan tỏa trong mỗi thôn làng, trên mọi miền cả nước, ở tất cả các ngành nghề và mọi giai tầng xã hội của đất nước Việt Nam.
Quảng Trị là địa phương có số lượng thương binh, liệt sĩ và người có công khá lớn, chiếm tỷ lệ 19,43% so với dân số trong toàn tỉnh. Nơi đây có 72 nghĩa trang liệt sĩ, trong đó có 2 nghĩa trang liệt sĩ cấp quốc gia, đó là Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn và Nghĩa trang liệt sĩ Đường 9; 7 nghĩa trang liệt sĩ cấp huyện, 60 nghĩa trang liệt sĩ cấp xã và 3 nghĩa trang liệt sĩ cấp thôn quản lý với trên 60 vạn mộ liệt sĩ. Một số nghĩa trang liệt sĩ cấp xã nhưng cũng có gần 2.000 mộ liệt sĩ; có xã có đến 3 nghĩa trang… Toàn tỉnh có 19.172 liệt sĩ, 11.805 thương binh, 2.242 bệnh binh, 2.786 bà mẹ được phong tặng, truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng”, 14.631 người có công với đất nước, 5.064 người tham gia hoạt động kháng chiến bị phơi nhiễm chất độc hóa học.
Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân tỉnh Quảng Trị đã phát động phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” với 5 chương trình tình nghĩa, đó là: Chương trình xây dựng Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”; Chương trình xây dựng nhà tình nghĩa; Chương trình ổn định đời sống thương binh, bệnh binh nặng ở gia đình; Chương trình tặng sổ tiết kiệm tình nghĩa; Chương trình chăm sóc bố mẹ, vợ liệt sĩ già yếu cô đơn, phụng dưỡng “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng” và đỡ đầu con liệt sĩ. Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Quảng Trị luôn tâm niệm không chỉ chăm sóc tốt người có công còn sống mà luôn phải có trách nhiệm cao hơn nữa với con em của 52 tỉnh. thành phố trên cả nước đang yên nghỉ tại quê hương mình để sưởi ấm cho gia đình các thân nhân liệt sĩ. Tỉnh Quảng Trị là địa phương duy nhất trong cả nước có mô hình Trung tâm đón tiếp thân nhân liệt sĩ. Hằng năm, Trung tâm đón tiếp chu đáo hàng nghìn lượt thân nhân liệt sĩ đến thăm viếng phần mộ liệt sĩ tại các nghĩa trang. Quảng Trị tổ chức nhiều hoạt tri ân, tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ như: Lễ hội Thống nhất non sông, Lễ hội Tri ân tháng 7, Lễ hội “Đêm hoa đăng” tưởng niệm liệt sĩ trên sông Thạch Hãn... đã thu hút đông đảo cán bộ, cựu chiến binh và nhân dân trong cả nước
Tỉnh Thanh Hóa có 329.824 người có công, trong đó: 4.573 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng; hơn 56.000 liệt sĩ; gần 62.000 thương, bệnh binh; hơn 18.000 người hoạt động kháng chiến và con của họ bị nhiễm chất độc hóa học… Bên cạnh việc thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế độ chính sách thường xuyên, hằng năm, Ngành Lao động - Thương binh và Xã hội đã tổ chức điều dưỡng tập trung và điều dưỡng tại nhà cho 25.000 - 27.000 người có công, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho 100% người có công và thân nhân của họ. Đời sống của các đối tượng chính sách cơ bản ổn định, 98% số hộ gia đình chính sách có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống bình quân nơi cư trú. Từ năm 2012 đến nay, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Thanh Hóa đã tìm kiếm, cất bốc, quy tập được 40 hài cốt liệt sĩ trong nước, 225 hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hi sinh tại nước bạn Lào đưa về an táng tại các nghĩa trang trong tỉnh. Hàng trăm mẫu ADN đã được xác định, phân tích, qua đó giúp nhiều gia đình liệt sĩ nhận được hài cốt của người thân…
Trong giai đoạn 2013-2020, Ban Chỉ đạo 515 của TP. Hà Nội tiếp nhận, thu thập, kết nối, xử lý thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ, thân nhân liệt sĩ; chỉ đạo các quận, huyện, thị xã tiếp nhận, kết nối, kiểm tra, xác minh, xử lý thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ và thân nhân liệt sĩ của các đơn vị trong toàn quân và các địa phương chuyển đến để tổng hợp, báo cáo các cấp theo quy định. Giải mã ký hiệu, phiên hiệu đơn vị và trích lục thông tin về 3.835 liệt sĩ cho thân nhân gia đình liệt sĩ phục vụ công tác tìm kiếm quy tập; chỉ đạo hướng dẫn tổ chức lễ an táng cho 749 liệt sĩ về các nghĩa trang liệt sĩ trên địa bàn Hà Nội bảo đảm trang trọng, tận tình, chu đáo. Hà Nội đang tập trung thực hiện 4 việc cho các đối tượng chính sách: Cấp xe lăn; giải quyết việc làm cho vợ, con liệt sĩ và thương binh; xây dựng và sửa chữa nhà; cho vay ưu đãi.
Ở Thừa Thiên Huế, toàn tỉnh đã quy tập trên 31.000 mộ liệt sĩ, trong đó có 750 hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hy sinh trên đất nước bạn Lào, đưa về an táng tại 64 nghĩa trang liệt sĩ và gia đình quản lý chăm sóc tại nghĩa trang gia tộc. Các nghĩa trang liệt sĩ, công trình ghi công cơ bản được xây dựng, nâng cấp, chỉnh trang, chăm sóc chu đáo, trang nghiêm, nhiều công trình đã trở thành thiết chế văn hóa ở địa phương như Nghĩa trang liệt sĩ TP. Huế, Nghĩa trang liệt sĩ Hương Điền, Đền Liệt sĩ huyện Quảng Điền. Các nghĩa trang liệt sĩ đều được các trường học nhận chăm sóc. Ngày càng có nhiều công trình ghi công liệt sĩ trở thành địa chỉ sinh hoạt văn hóa ở địa phương góp phần lan tỏa sâu rộng truyền thống anh hùng cách mạng trong mỗi người dân.
Không thể kể hết những cách làm hay, những hành động thật sự ý nghĩa thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của hơn 90 triệu người dân đất Việt. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Bác Hồ chúng ta cần làm tốt hơn nữa công tác “đền ơn đáp nghĩa”, thể hiện sự tri ân, biết ơn sâu sắc với những người có công với Tổ quốc, nhân dân. Đây là trách nhiệm và nghĩa vụ thiêng liêng đối với quá khứ hào hùng của dân tộc và tương lai tươi sáng của các thế hệ mai sau. Cũng là tấm lòng của mỗi người ghi nhớ, học tập và làm theo lời dạy của Bác Hồ.
Trần Công Huyền