Đã 2 năm nay, các thầy cô giáo trực tiếp đứng lớp ở huyện vùng cao Phước Sơn phải ở lại để dạy phổ cập và xóa mù cho những người phụ nữ mang cả con đến lớp, vừa ru con ngủ, vừa cặm cụi đọc đọc, viết viết từng con chữ như những đứa trẻ chập chững vào trường học vỡ lòng. Gần nửa đêm, họ mới rời lớp học, rọi đèn pin trở về nhà…
Tìm con chữ - cái khó của người Bhnong
Những con đường bê tông ở thôn, bản vùng cao nhỏ hẹp chạy dài lên đến tận đỉnh núi dẫn chúng tôi đến những bản làng của người Bhnong quanh năm chìm khuất trong sương núi. Cô giáo Phan Thị Kim Mai, giáo viên của Trường Tiểu học và THCS xã Phước Thành, một mình một xe leo lên các con dốc đất đỏ cao, trơn trượt và khấp khểnh, để đến với lớp học phổ cập xóa mù vào buổi tối ở làng Trà Va, Ka Tủ, xã Phước Thành. Trời tối, sương núi giăng kín bốn bề, cô ngồi đợi học trò trong lớp học. Cô Mai có vẻ sốt ruột vì đã hơn 8 giờ tối mà chưa có học sinh đến lớp. Cả ngày hôm nay, làng bản Ka Tủ mất điện, chỉ vừa có điện lại được vài phút, ánh điện yếu ớt, nhạt nhòa cứ lóe lên rồi lại tắt, cô lắc đầu: “Kiểu này là bà con không đi học rồi. Có những hôm đợi học sinh đến mãi tận gần 9h tối mới bắt đầu vào học đấy!”. 20h30, lớp học đêm ở bản Trà Va, Ka Tủ mới bắt đầu. Hôm nay chỉ có gần chục học trò đến lớp nhưng cô giáo Mai vẫn nhiệt tình dạy và uốn nắn tay cầm bút cho từng người. Tiếng đánh vần, tiếng đọc đồng thanh, tiếng viết bảng loẹt xoẹt của những cô, chú học trò đặc biệt, đã xua đi không gian tĩnh lặng trong đêm khuya của thôn, bản nơi miền núi cao. Sương núi ùa vào cửa lớp, quanh quẩn bên ánh điện mờ nhạt.
Những đứa trẻ theo bố mẹ đi học ngồi quấn dưới chân bàn, có em ngồi bên cạnh giúp mẹ đánh vần. Trong số họ, có người chưa một lần biết đến con chữ, cũng có người đã từng được đi học nhưng rồi mải mê thổi sáo gọi người yêu mà quên mất cả con đường đến lớp… Sau nhiều ngày được tiếp cận, nay họ đã quay trở lại với con chữ, họ lại viết được tên của mình, đọc được tên bản làng, tên xã của mình với những niềm vui bất tận. Hồ Văn Si (sinh năm 1970) vừa đọc, vừa mừng rỡ khoe với tôi: “Ngày xưa mải lo tìm kiếm cái ăn, lấy vợ, sinh con nên mình đã quên tìm đến con chữ rồi. Bây giờ mình viết được rồi nhé. Con chữ mình viết thế này có đẹp không?”. Học sinh của lớp học này chủ yếu là các chị, các anh ở độ tuổi từ 25 đến 50. Người trẻ nhất là em Hồ Thị Hiều (sinh năm 1990). Những người phụ nữ Bhnong vùng cao đã lấy chồng từ khi tuổi mới 13, 14, họ lại sinh liền tù tì vài ba, bốn đứa con, rồi quanh năm lam lũ với ruộng nương, với trâu bò, gà lợn mà quên đi cả tuổi xuân của mình. Hầu hết trông họ già trước tuổi, khuôn mặt hằn lên nỗi vất vả, đôi tay gầy guộc, đen đúa vì những tháng ngày ngoài nương rẫy làm bạn với nắng mưa. Với họ, có lẽ việc cầm bút còn khó khăn hơn rất nhiều so với cầm rựa, cầm cuốc, chọc lỗ tra hạt.
Cũng có những người đàn ông rất chăm chỉ đi học. Anh Hồ Văn Lờ (sinh năm 1970) nói: “Phải đi học thôi. Con cái lớn hết rồi mà mình không biết chữ thì xấu hổ lắm”. Bà Hồ Thị Sớt, năm nay đã ngoài 50 tuổi, hằng ngày ở nhà, trông cháu, công việc nương rẫy và làm việc nhà. Đồng tiền 2.000 đồng hay 1.000 đồng bà không biết đọc ra con số, chỉ có thể phân biệt qua các hình vẽ trên đó, nhiều lúc bị nhầm lung tung. Từ ngày có lớp học xóa mù chữ, bà bảo với các con: “Chúng mày cho tao đi học, tao phải học để biết con số trên đồng tiền nữa chứ. Đi chợ mà cứ nhầm tiền thế này thì khổ quá rồi”. Thế là bà Sớt theo học lớp xóa mù chữ ở bản Ka Tủ và trở thành người học trò già nhất của lớp. Theo học mấy tháng trời rồi, bà Sớt đã biết được con chữ, con số, đã nói tiếng Kinh sõi hơn một chút: “Bây giờ tao đã biết đọc chút chút rồi, biết viết từ từ rồi”. Ông Hồ Văn Mọi, chồng của bà Sớt đứng bên cạnh lắc đầu: “Trời ơi, đọc chậm lắm, không nghe được đâu”.
Phước Thành là xã nghèo diện 135 của huyện vùng cao Phước Sơn với 100% là đồng bào dân tộc Bhnong, Ca Dong. Toàn xã có 985 hộ thì có đến 538 hộ nghèo và 57 hộ cận nghèo. Họ nghèo nàn về vật chất bởi cái thời tiết, khí hậu khắc nghiệt của vùng núi cao. Họ nghèo hơn cả về trình độ nhận thức, học vấn. Tỉ lệ người dân mù chữ trong độ tuổi 35 - 60 chiếm gần 1/5 dân số toàn xã. Đồng chí Hồ Văn Phiên, Bí thư Đảng ủy xã cho biết: “Việc xóa mù chữ là giải pháp đầu tiên để nâng cao sự hiểu biết cho người dân. Nhà nhà đi học, người người đi học, già trẻ gái trai đều học. Rồi cũng phải có hiệu quả thôi”. Cũng theo đồng chí Hồ Văn Phiên, người Bhnong ít sử dụng tiếng Việt trong sinh hoạt hằng ngày, họ cũng ít dùng đến con chữ, lâu ngày, con chữ cứ chìm sâu vào những lớp mây mù, sương núi dày đặc ở xứ này. Có nhiều người dùng điện thoại cực tốt nhưng bảo đọc, viết thì lắc đầu quầy quậy; ký giấy tờ thì chỉ biết điểm chỉ thôi. Những lớp học này phải gọi là tái xóa mù mới đúng. Tìm con chữ là cái khó của người Bhnong.
Vừa học vừa chăm con
Một khó khăn cho công tác vận động của cán bộ vùng cao, ấy là những người phụ nữ đã luống tuổi ở xã vùng cao Phước Thành này họ rất ngại đi học. Họ ngại nói chuyện, thấy xấu hổ khi mình đã già rồi vẫn còn phải cắp sách đến lớp như thời con trẻ. Năm 2015, xã Phước Thành có 2 lớp với 17 người độ tuổi từ 25 đến 50 tuổi tham gia học lớp học xóa mù, phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở. Học xong, những người đạt tiêu chuẩn đều được cấp chứng chỉ hẳn hoi. Được nhận chứng chỉ trong ngày tốt nghiệp, họ vui lắm. Một người phụ nữ Bhnong cười bảo: “Đi học, được nhận chứng chỉ, thế là mình được làm người biết chữ rồi. Thấy vui lắm”.
Năm 2016, hai lớp học xóa mù chữ tiếp tục được triển khai tại xã với hai điểm trường Ka Tủ và Trà Va cũng với 17 học sinh từ hè năm học 2014-2015 và 2015-2016, vậy nên mới xuất hiện những người phụ nữ Bhnong, Ca Dong đã lên chức bà, dù không nói được một câu tiếng Kinh nào, họ vẫn còn cầm bút tập viết như các cháu. Ở lớp học xóa mù chữ bản Trà Va, chuyện cô giáo nói một thứ tiếng, học trò nói một thứ tiếng, hay chuyện những người phụ nữ Bhnong bế con đến lớp, cho con bú ngay giữa lớp học không phải là chuyện lạ nữa. Cô giáo Mai tâm sự: “Mỗi ngày thường có khoảng từ 13 đến 17 người đến lớp, có ngày nhiều hơn một chút, cũng có ngày chỉ có vài ba học sinh như hôm nay. Bà con nói tiếng Việt không sõi nên họ tiếp thu bài cũng khó. Học vài tháng thì bắt đầu biết viết vài chữ, biết đánh vần, biết đọc. Cả hè thì dạy chữ, tiếng Việt. Hết hè, lên lớp 3, 4, 5 thì học toán”. Dù chưa thấy được ngay, nhưng chắc chắn, những lớp học xóa mù chữ hay “tái xóa mù” như thế này sẽ có hiệu quả trong đời sống của người Bhnong. Họ ý thức được việc học cái chữ sẽ đem ánh sáng đến với gia đình, với bản làng của mình. Có cái chữ, đời sống của họ sẽ bớt mù mịt và tăm tối hơn.
Các cô giáo Mai, Diễm Linh, Bích Hạnh, Hồ Thị Nha… trực tiếp đứng lớp dạy chữ cho đồng bào vùng cao cũng thấy được những biến chuyển đáng kể trong đời sống, trong việc giao tiếp hằng ngày của đồng bào. Cô Mai tự hào kể: “Mình không nói quá đâu, nhưng học sinh ở Phước Thành học rất khá. Các anh, chị rất có ý thức. Gặp người lớn lúc nào cũng chào rất lễ phép, mình cho họ cái gì, các anh chị cũng nhận bằng hai tay và nói “mình xin cô”. Làm giáo viên cắm bản, có những lứa học trò miền núi học tốt và ngoan ngoãn là niềm vui và cũng là niềm tự hào của mình”.
Đêm ấy, trời mưa rất to, tôi và cô giáo Mai, Linh, Hạnh… phải ở lại điểm trường Ka Tủ, giấc ngủ của chúng tôi cứ chập chờn trong tiếng mưa ào ào dữ dội xé trời của miền núi. Vừa ngủ, vừa lo nước sẽ cuốn phăng mình đi đâu đó. Nhưng rồi, buổi sáng diễn ra thật yên bình ở cái bản làng nhỏ bé này. Những người học trò tối qua đến lớp rất sớm, họ nghĩ cô giáo đã xuống núi nên đến lớp vãi lúa, vãi ngô chăm cho những đàn gà, tăng gia của các cô giáo. Sương núi đặc quánh vẫn giăng kín lối đi...
ThS. Trần Cao Anh
Học viện Chính trị khu vực III