Nhóm tác giả đoạt giải A - Giải Báo chí toàn quốc về xây dựng Đảng (mang tên Búa liềm vàng) lần thứ VI - năm 2021
LTS: Nhìn lại 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị, bên cạnh những kết quả đạt được còn nhiều vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn cần phải giải quyết. Vừa qua, Trung ương Đảng đã thành lập Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết và sẽ trình Hội nghị Trung ương 6 (khóa XIII). Để làm rõ hơn những thành tựu, hạn chế và những vấn đề cần giải quyết, những điểm mới khi thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X), Tạp chí Xây dựng Đảng xin gửi tới bạn đọc loạt bài 2 kỳ với nhan đề Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của TS. Trần Thị Minh và nhóm tác giả Viện Khoa học Tổ chức, cán bộ, Ban Tổ chức Trung ương.
Bài 1: Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam
Lần đầu tiên trong các kỳ đại hội Đảng, Đại hội XIII bổ sung nội dung nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng vào 5 quan điểm chỉ đạo của Đại hội. Đây là yêu cầu khách quan, là giải pháp quan trọng để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, đáp ứng nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới với nhiều biến động khó lường.
Quan niệm về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền và năng lực cầm quyền của Đảng
Đảng cầm quyền là một khái niệm được sử dụng rộng rãi ở các nước phương Tây ngay khi hình thành các đảng chính trị. Ở nước Nga Xô-viết trước đây, V.I.Lê-nin cho rằng, đảng cầm quyền là “đảng nắm chính quyền” bằng và thông qua những người đại diện của đảng trực tiếp thực hiện công việc quản lý trong bộ máy nhà nước. Đảng cầm quyền chỉ mối quan hệ giữa đảng với nhà nước mà cốt lõi là quá trình đưa đảng viên nắm giữ các vị trí then chốt của bộ máy nhà nước để chỉ đạo mọi hoạt động của nhà nước theo định hướng của đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền là thuật ngữ dùng để chỉ vị trí của Đảng từ khi Đảng giành được chính quyền - sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và toàn dân tộc, là đại biểu trung thành lợi ích của toàn dân. Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền là Đảng nắm chính quyền, Đảng có quyền lực trong thực tế. Những cán bộ, đảng viên của Đảng trực tiếp thi hành những nhiệm vụ quản lý trong bộ máy nhà nước là những người được nhân dân “ủy thác”, bầu ra để phục vụ nhân dân. Do vậy, ở nước ta Đảng là lực lượng tiêu biểu, đại diện cho nhân dân nắm chính quyền. Chủ thể quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, cán bộ, đảng viên chỉ là người thay mặt nhân dân trong thực thi quyền lực đó.
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn được Nhân dân tin tưởng, được thừa nhận là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Vai trò lãnh đạo, vị trí cầm quyền của Đảng được Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân; dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng; đoàn kết và lãnh đạo Nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng lãnh đạo, tôn trọng và phát huy vai trò của Nhà nước, mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Đồng thời, Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng đã hiến định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.
Năng lực cầm quyền của Đảng là những điều kiện cần và đủ để Đảng có khả năng thực hiện hiệu quả sự cầm quyền của mình gồm: Khả năng nắm, giữ chính quyền; khả năng phát huy vai trò, vị thế cầm quyền của mình; khả năng tác động, chi phối hoạt động của Nhà nước, mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân thực hiện thắng lợi Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng trong từng thời kỳ, từng bước thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, mục tiêu là xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nói cách khác, năng lực cầm quyền của Đảng chính là năng lực lãnh đạo Nhà nước và xã hội nhằm xây dựng, phát triển đất nước theo con đường, mục tiêu mà Đảng đã xác định; được thực hiện thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên nắm giữ các vị trí lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị, gắn kết, huy động và phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, được sự ủng hộ và góp sức của Nhân dân.
Phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền bằng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.
Nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, kết hợp giữa xã hội pháp quyền với đặc thù hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nền tảng tư tưởng về tổ chức, vận hành của bộ máy Nhà nước và quản lý xã hội là Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng lãnh đạo thể chế hóa Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... Pháp luật thể hiện ý chí và nguyện vọng của Nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Các cơ quan nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo đảm vị trí tối thượng của Hiến pháp, pháp luật trong đời sống xã hội.
Mục tiêu của Đảng cầm quyền là phải tổ chức xây dựng Nhà nước pháp quyền thực sự của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả gắn với tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
Phương thức cầm quyền này đòi hỏi Đảng phải chăm lo xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, tôn trọng và phát huy vai trò của Nhà nước trong quản lý xã hội bằng pháp luật. Việc thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc xây dựng và vận hành của Nhà nước. Chất lượng, hiệu quả hoạt động của Nhà nước phục vụ Nhân dân, bảo vệ Tổ quốc là thước đo năng lực cầm quyền của Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền bằng hệ thống tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ.
Đảng thiết lập hệ thống tổ chức đảng trong bộ máy nhà nước từ Trung ương đến cơ sở, giới thiệu những đảng viên ưu tú ứng cử vào các chức danh chủ chốt của bộ máy nhà nước, bảo đảm cho mọi tổ chức và hoạt động của Nhà nước thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng. Các tổ chức đảng chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; đồng thời, trực tiếp lãnh đạo đội ngũ cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà nước. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ là điều kiện quyết định bảo đảm vững chắc vai trò cầm quyền của Đảng và hoạt động của hệ thống chính trị. Là đảng cầm quyền, Đảng ta đặc biệt quan tâm chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ thật sự trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có trình độ, trí tuệ, năng lực lãnh đạo, quản lý giỏi, trình độ chuyên môn cao, phong cách làm việc khoa học, dân chủ và được nhân dân tín nhiệm.
Trên cơ sở quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, Đảng giới thiệu cán bộ để nhân dân bầu vào các vị trí chủ chốt trong bộ máy nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp, các ngành, trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Toàn bộ các hoạt động quản lý đội ngũ cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị nói chung, trong các cơ quan nhà nước nói riêng phải được thực hiện theo Điều lệ Đảng, các quy định, hướng dẫn của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Đảng cầm quyền bằng xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, phát huy vai trò của mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội thực hành quyền dân chủ, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đảng lãnh đạo xây dựng cơ chế hoạt động của mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội; xây dựng cơ chế hoạt động và mối quan hệ giữa Đảng với các cơ quan nhà nước; xác định quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các tổ chức xã hội và Nhân dân đối với bộ máy nhà nước. Phương thức cầm quyền của Đảng phải dân chủ, khoa học, hiện đại. Một trong những nội dung cơ bản, then chốt của phương thức cầm quyền dân chủ là phát huy vai trò của mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong giám sát, phản biện xã hội đối với hoạt động của Nhà nước. Bởi mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội là cơ quan đại diện cho lợi ích, quyền làm chủ của nhân dân trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước hướng, tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Giải pháp nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam đáp ứng yêu cầu của tình hình mới
Một là, tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và đạo đức, bảo đảm các tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh.
Đảng kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng vận dụng và phát triển sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; kiên định đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Đồng thời, Đảng xác định giữ vững bản chất giai cấp công nhân; tiếp tục nâng cao lập trường, bản lĩnh chính trị, trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp, nhất là cấp chiến lược. Thực hiện nghiêm các nguyên tắc, quy định, thực hành dân chủ gắn liền với tăng cường kỷ luật, kỷ cương của Đảng.
Phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy địa phương, cơ quan, đơn vị. Kiên quyết đấu tranh phòng, chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại, giáo điều, bảo thủ, bè phái, những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Thực hiện nghiêm tự phê bình và phê bình từ Trung ương đến cơ sở. Kết hợp giữ vững kỷ luật, kỷ cương của Đảng, đề cao pháp luật của Nhà nước với giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng nhân cách, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên.
Hai là, tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Đảng tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ với đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Hoàn thiện thể chế, bảo đảm đồng bộ, liên thông giữa pháp luật của Nhà nước với quy định của Đảng về tổ chức bộ máy, biên chế của hệ thống chính trị. Đánh giá, hoàn thiện mô hình tổ chức theo ngành, lĩnh vực và những nơi có đặc điểm riêng. Đẩy mạnh thực hiện tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ theo vị trí việc làm. Nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế lựa chọn, đánh giá, sàng lọc để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Làm tốt công tác tư tưởng; giải quyết kịp thời chế độ, chính sách đối với các trường hợp bị ảnh hưởng trong quá trình sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế để tránh những tâm tư không đáng có.
Ba là, đổi mới công tác cán bộ, chuyển từ hệ thống công vụ chức nghiệp sang hệ thống công vụ theo vị trí việc làm. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức về phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ.
Vấn đề quan trọng nhất, then chốt của then chốt hiện nay là xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với nhân dân. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ. Giữ vững kỷ luật, kỷ cương trong thực thi công vụ; đồng thời có cơ chế khuyến khích, bảo vệ những cán bộ, đảng viên dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động, vì lợi ích chung.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế Đảng lãnh đạo công tác cán bộ, cải cách thủ tục hành chính và đẩy mạnh phân cấp, phân quyền về công tác cán bộ. Kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong từng khâu của công tác cán bộ, nhất là đối với người đứng đầu cấp ủy đồng thời là thủ trưởng cơ quan, đơn vị, chủ tịch UBND. Giữ vững kỷ luật, kỷ cương; tăng cường kiểm tra, giám sát, chống chạy chức, chạy quyền. Không để lọt những người không xứng đáng, không bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện, có biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhưng cũng không để sót những cán bộ thực sự có đức, có tài. Kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực trong công tác cán bộ.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo động lực cho cán bộ phấn đấu, toàn tâm, toàn ý với công việc. Xây dựng và thực hiện có hiệu quả Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài; Chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Xây dựng và hoàn thiện quy định, quy chế, quy trình nhằm siết chặt kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát. Cải tiến, đổi mới phương pháp, kỹ năng, quy trình công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, bảo đảm khách quan, dân chủ, đồng bộ, thống nhất, chặt chẽ, khả thi. Tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những lĩnh vực, địa bàn dễ xảy ra tiêu cực, tham nhũng, nơi người dân có nhiều bức xúc, dư luận xã hội quan tâm; xử lý kịp thời, kiên quyết, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm. Kết hợp chặt chẽ và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với thanh tra, kiểm toán nhà nước và điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Tăng cường sự phối hợp giám sát của Đảng với thanh tra của Nhà nước và giám sát của mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội để phát huy sức mạnh tổng hợp trong việc nâng cao hiệu lực giám sát, tránh chồng chéo, trùng lặp, lãng phí nguồn lực quốc gia.
***
Kỳ 2: Nội dung đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền là yêu cầu tất yếu nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng, quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, đưa đất nước phát triển bền vững, bứt phá trong thời gian tới.
Những bước phát triển về nhận thức
Từ khi xuất hiện trên vũ đài chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn thể hiện là một đảng cách mạng chân chính, có khả năng hội tụ sức mạnh của dân tộc, giai cấp. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được nêu rõ tại các văn kiện của Hội nghị hợp nhất Đảng tháng 2-1930, trong đó Sách lược vắn tắt của Đảng khẳng định: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”(1). Đảng lãnh đạo quần chúng nhân dân có nghĩa là Đảng phải vạch đường, xác định được mục tiêu đúng đắn trên cơ sở đáp ứng lợi ích và nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân. Đồng thời phải có uy tín cao để vận động, thuyết phục quần chúng nhân dân ủng hộ, đi theo Đảng. Trước khi có chính quyền, phương thức lãnh đạo của Đảng chủ yếu là do các tổ chức đảng và đảng viên trực tiếp tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương đến các hội, đoàn thể, quần chúng. Đảng lấy uy tín của mình là một đảng “đạo đức và văn minh” để thuyết phục quần chúng nhân dân đi theo, ủng hộ, thực hiện các cương lĩnh, đường lối, chỉ thị, nghị quyết của Đảng.
Phương thức lãnh đạo của Đảng khi đã giành được chính quyền khác so với khi chưa có chính quyền. Thông qua chính quyền, đường lối, chủ trương của Đảng trở thành hiện thực cuộc sống, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội. Đại hội III của Đảng lần đầu tiên đặt ra vấn đề “cải tiến công tác lãnh đạo”, các cấp ủy phải nắm vững tình hình để đề ra chủ trương công tác đúng, kịp thời; tổ chức thực hiện thiết thực, hiệu quả, có kế hoạch từng bước, giải thích kỹ chủ trương. Ngoài cách thức tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân, Đảng lãnh đạo chính quyền thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật và tổ chức thực hiện. Ngay cả khi giành được chính quyền, có quyền lực chính trị, được pháp luật thừa nhận, có vai trò chi phối hoạt động của Nhà nước thì Đảng vẫn phải lãnh đạo xã hội bằng những ảnh hưởng tích cực với đường lối đúng đắn, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên trong sạch, vững mạnh, giữ được uy tín thì Nhân dân mới tin tưởng, trao quyền cho Đảng nắm giữ những vị trí quan trọng trong cơ quan nhà nước thông qua bầu cử. Khi Đảng là lực lượng duy nhất lãnh đạo xã hội thì càng cần phải thể hiện vị thế cầm quyền bằng chính nội lực của mình. Xây dựng Đảng phải gắn với xây dựng chính quyền Nhà nước. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng phải gắn với nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là nhân tố quyết định sức mạnh và hiệu quả quản lý của Nhà nước. Mặt khác, Nhà nước ngày càng vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả là điều kiện đầu tiên bảo đảm để hoàn thành mọi nhiệm vụ do Đảng đề ra, là một biện pháp cơ bản tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội.
Đại hội VI của Đảng mở đầu thời kỳ đổi mới ở nước ta. Đại hội khẳng định: “Quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng và khoa học”(2). Một trong những biểu hiện của đổi mới tư duy chính trị là việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Thay vì lãnh đạo một cách trực tiếp, giờ đây “Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng Cương lĩnh, đường lối, quan điểm, chủ trương, các nghị quyết, nguyên tắc giải quyết các vấn đề lớn, có ý nghĩa chính trị quan trọng”(3). Đảng lãnh đạo nhưng không bao biện, làm thay Nhà nước; trái lại, phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo của Nhà nước trong việc quản lý đất nước, quản lý xã hội. Đây là một bước tiến quan trọng trong nhận thức, tư duy lý luận của Đảng ta về phương thức lãnh đạo, cầm quyền.
Đại hội VII lần đầu tiên đề cập đến “đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo”, xác định đây là một trong những “vấn đề quan trọng và bức xúc”(4). Nhận thức về phương thức lãnh đạo và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng ngày càng rõ, cụ thể và phù hợp hơn, thể hiện qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991: “Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể”(5).
Đại hội X của Đảng nhìn thẳng sự thật thừa nhận đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị mà trọng tâm là đối với Nhà nước còn chậm và lúng túng; phê phán hai khuynh hướng lệch lạc trong giải quyết mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước là buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng hoặc bao biện, làm thay Nhà nước. Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 30-7-2007 về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị, trong đó nhấn mạnh quan điểm: “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị phải được đặt trong tổng thể nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng, tiến hành đồng bộ với đổi mới các mặt của công tác xây dựng Đảng, với đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; đồng bộ với đổi mới kinh tế, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN, thích ứng với những đòi hỏi của quá trình CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước”. Phương thức lãnh đạo của Đảng ngày càng rõ hơn, thể hiện ở Cương lĩnh năm 2011: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị”.
Đại hội XII của Đảng tiếp tục có những bổ sung, phát triển mới về phương thức lãnh đạo của Đảng. Đại hội khẳng định nhiệm vụ nâng cao hiệu quả thực hiện và tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, đặc biệt là với Nhà nước. Tiếp tục cụ thể hóa phương thức lãnh đạo được xác định trong Cương lĩnh năm 2011 ở tất cả các cấp bằng những quy chế, quy định, quy trình cụ thể. Đẩy mạnh việc phân cấp, phân quyền; có cơ chế để các địa phương phát huy quyền chủ động, sáng tạo, gắn với đề cao trách nhiệm, đồng thời bảo đảm sự lãnh đạo, quản lý thống nhất của Trung ương. Nội hàm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong phát triển kinh tế - xã hội tiếp tục được làm sáng rõ hơn.
Đại hội XIII của Đảng thể hiện bước phát triển quan trọng trong quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng. Lần đầu tiên trong các kỳ đại hội, vấn đề nâng cao năng lực cầm quyền được đặt bên cạnh yêu cầu về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, trở thành mục tiêu tổng quát trong nhiệm kỳ là “nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng”. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong thời gian vừa qua được đánh giá có kết quả tích cực trên nhiều phương diện. Đảng đã ban hành các chủ trương, nghị quyết bám sát thực tiễn, gắn với các nhiệm vụ trọng tâm, đột phá chiến lược; đồng thời, chỉ đạo quyết liệt việc thể chế hóa và tổ chức thực hiện; phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng có nhiều đổi mới theo hướng bám sát thực tiễn, sâu sát cơ sở; việc phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng, đảng viên, nhất là người đứng đầu được coi trọng và đẩy mạnh.
Đại hội XIII cũng thẳng thắn nhìn nhận một số mặt còn hạn chế: Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị còn chậm đổi mới, có mặt còn lúng túng. Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ; hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Việc thể chế hóa, cụ thể hóa một số chủ trương, nghị quyết của Đảng thành pháp luật của Nhà nước chưa đầy đủ, kịp thời. Tình trạng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng còn xảy ra ở một số nơi. Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa thật sự tiên phong, gương mẫu...
Giải pháp để đổi mới
Một là, thể chế hóa các nguyên tắc chung về phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị.
Việc thể chế hóa các nguyên tắc về phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng phải bám sát Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Hiến pháp 2013 và Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Đổi mới phương thức lãnh đạo phải nhằm giữ vững, nâng cao vai trò và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, xây dựng tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; bảo đảm và nâng cao vai trò, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước pháp quyền; nâng cao chất lượng hoạt động của mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; phát huy mạnh mẽ vai trò và quyền làm chủ của Nhân dân. Đổi mới phương thức lãnh đạo - cầm quyền của Đảng phải quán triệt nguyên tắc pháp quyền, thượng tôn pháp luật, “các tổ chức đảng và đảng viên phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Hai là, nâng cao năng lực xây dựng và ban hành các chủ trương, nghị quyết của Đảng.
Xây dựng và ban hành các chủ trương, nghị quyết của Đảng trong thời gian tới cần được thực hiện một cách bài bản, khoa học, trên cơ sở nâng cao năng lực nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, phân tích tình hình và dự báo, là sản phẩm kết tinh của trí tuệ tập thể, bảo đảm khả thi, dễ hiểu, tạo thuận lợi cho quá trình thể chế hóa, tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát. Do đó, cần đổi mới phương pháp, phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tham mưu, bám sát thực tiễn, trọng dân, gần dân, hiểu dân, vì dân.
Ba là, lãnh đạo, chỉ đạo hiệu quả việc thể chế hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng.
Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng phải thông qua thể chế hóa thành quy định của pháp luật, bảo đảm thực hiện đồng bộ, thống nhất trong toàn xã hội, khắc phục tình trạng bao biện, làm thay, nhưng không buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng. Do đó, cần đề cao vai trò, trách nhiệm và nâng cao năng lực của các cấp ủy, tổ chức đảng trong các cơ quan của Quốc hội và Chính phủ trong lãnh đạo, chỉ đạo ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, kế hoạch, tổ chức thực hiện có hiệu quả các chị thị, nghị quyết của Đảng. Đồng thời, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, bảo đảm không trùng lắp, chồng chéo.
Bốn là, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát.
Cải tiến, đổi mới phương pháp, quy trình, kỹ năng thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Trong đó, tập trung vào các cơ chế, biện pháp chủ động phát hiện sớm, phòng ngừa, ngăn chặn từ xa những khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên. Phát huy và tăng cường vai trò giám sát, phản biện xã hội của các cơ quan và đại biểu dân cử, mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan truyền thông, báo chí và nhân dân trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Cần sớm cụ thể hóa những quy định của Đảng, đồng thời lãnh đạo, chỉ đạo Nhà nước hoàn thiện các quy định về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, quy định về kiểm soát quyền lực công khai, minh bạch để mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi người dân đều có thể tích cực tham gia vào công tác kiểm tra, giám sát, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Năm là, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Hiệu quả, thành bại trong công tác lãnh đạo của Đảng đều nằm ở chất lượng đội ngũ cán bộ, do vậy, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng thông qua công tác cán bộ là một trong những giải pháp quan trọng nhất. Trong điều kiện mới, cần xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, năng lực nổi trội, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự tiên phong, gương mẫu, là hạt nhân đoàn kết. Vì vậy, cần sớm ban hành các văn bản cụ thể hóa quy định của Đảng về trách nhiệm nêu gương, chức vụ càng cao càng phải gương mẫu. Sớm cụ thể hóa, đưa chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung vào cuộc sống. Khơi dậy khát vọng cống hiến, tinh thần đổi mới, sáng tạo của đội ngũ cán bộ. Nâng cao chất lượng đảng viên phải kết hợp với việc nâng cao chất lượng tổ chức đảng, kịp thời rà soát, sàng lọc những cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức, mất tín nhiệm trong nhân dân.
Sáu là, đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về đổi mới phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền của Đảng.
Đổi mới phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền của Đảng đòi hỏi sự dày công nghiên cứu về quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng ta qua từng giai đoạn. Đồng thời, phải có cái nhìn sâu sắc, toàn diện về bối cảnh, tình hình, dự báo, phân tích đầy đủ những thuận lợi, nguy cơ trong giai đoạn cách mạng mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”(6). Lãnh đạo là vấn đề sống còn của Đảng, là chức năng, vai trò xuyên suốt, là sứ mệnh lịch sử của Đảng. Giai đoạn mới của cách mạng nhiều khó khăn, thách thức cũng như thời cơ, thuận lợi, đòi hỏi Đảng ta phải tiến bộ nhiều hơn nữa, “mài sắc” tư duy lý luận, ý chí chiến đấu, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền để tiếp tục đưa đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc.
-----
(1), (2), (3), (4), (5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, NXB CTQG, 2002, tập 2, tr.4; tập 47, tr.544; tập 65, tr.355; tập 50, tr.503; tập 51, tr.147. (6) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, H.2011, tập 3, tr.168.
Trần Minh - Hoàng Quý - Thái Hà - Văn Tuân (Ban Tổ chức Trung ương)