1. Quyền làm chủ của nhân dân là làm chủ tập thể và làm chủ cá nhân, cả ở phương diện quyền con người (QCN), quyền, nghĩa vụ của công dân và gắn với quyền dân tộc Việt Nam. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng, Nhà nước luôn xem xét, giải quyết hài hòa, đúng đắn mối quan hệ giữa quyền làm chủ tập thể và QCN, quyền, nghĩa vụ của công dân thông qua việc thực hành, phát huy dân chủ XHCN. Thực tế trong phòng, chống dịch COVID-19 hiện nay, quyền làm chủ của Nhân dân không dừng lại ở quan điểm, định hướng mà đã trở thành động lực, yêu cầu nội tại ngay trong chính các chủ thể của hệ thống chính trị - xã hội và các chủ thể công dân.
Công tác bảo đảm QCN, quyền công dân trong hơn 35 năm đổi mới vừa qua đã thu được nhiều thành tựu nổi bật như: Đã phổ cập giáo dục tiểu học; tất cả các tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn giáo dục THCS từ năm 2011. Trong các năm gần đây, trước khi đại dịch COVID-19 bùng phát, quyền làm chủ của nhân dân, đặc biệt các quyền sinh kế, luôn được bảo đảm tốt. Chẳng hạn, trong năm 2019, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi chỉ còn 2%; trong đó khu vực thành thị là 2,93%, khu vực nông thôn là 1,55%. Việt Nam được quốc tế thừa nhận là đã thực hiện tốt các “mục tiêu thiên niên kỷ” của LHQ (giai đoạn 2001-2015) và đang nỗ lực thực hiện các mục tiêu của chương trình phát triển bền vững giai đoạn 2016-2030.
Mặc dù có sự tác động mạnh mẽ của cơ chế thị trường, nhưng phương châm “không bỏ lại ai ở phía sau” đã được thực thi trong thực tế, từ nhi đồng, thiếu niên, đến thanh niên, phụ nữ, phụ lão, công nhân, nông dân, bộ đội, trí thức, đồng bào DTTS và tôn giáo, người khuyết tật...Kết quả chung là đã mở ra không gian rộng lớn hơn cho việc phát huy các quyền làm chủ của nhân dân cũng như nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện nghĩa vụ của hệ thống chính trị, nhất là bộ máy nhà nước đối với việc bảo đảm QCN.
Còn về hình thức, sự đa dạng trong phương pháp và công cụ thực hành dân chủ ở cả hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, được thể hiện cụ thể trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể nhân dân. Và nó đã cơ bản trở thành phương pháp làm việc, thái độ ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức nhà nước với Nhân dân cũng như của Nhân dân đối với họ. Quyền làm chủ của Nhân dân được thực thi và thể hiện trong thực hành, phát huy dân chủ XHCN ngày càng trở nên thực chất hơn. Nhờ thế, đã hạn chế các xu hướng phân hóa xã hội trong cơ chế kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và bảo đảm quyền phát triển bền vững, bao trùm của dân tộc Việt Nam.
Tuy vậy, Đại hội XIII của Đảng cũng nhận định: “Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ XHCN có lúc, có nơi chưa được quan tâm phát huy đầy đủ”. Nguyên nhân là “... chưa thực sự tôn trọng ý kiến, kiến nghị của Nhân dân và giải quyết kịp thời các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân. Quyền làm chủ của Nhân dân có lúc, có nơi còn bị vi phạm; vẫn còn biểu hiện dân chủ hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật”.
2. Để đẩy mạnh việc bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân đòi hỏi phải tiếp tục hiện thực hóa những phương hướng, giải pháp sau:
Một là, “đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước” nhằm gắn quyền làm chủ của Nhân dân với quyền phát triển phồn vinh, hạnh phúc của đất nước.
Trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lần đầu tiên đã phát triển tư tưởng quyền “tự nhiên” của mỗi cá nhân thành quyền đương nhiên của mọi dân tộc. Cần nhấn mạnh rằng, nguyên tắc về quyền dân tộc tự quyết trong phát triển do Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson (1856-1924) đưa ra năm 1918 và Luận cương về vấn đề dân tộc thuộc địa của V.I.Lê-nin (1870-1924) công bố năm 1920 chưa gắn quyền dân tộc tự quyết trong phát triển với QCN. Và trong luật quốc tế về QCN, phải đến năm 1966, Điều 1 của hai Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa mới ghi nhận quyền này là một QCN. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta xác định dân là chủ thì mới làm chủ và bảo đảm trên thực tế quyền tự do, độc lập của dân tộc - quốc gia gắn với tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền của các cộng đồng dân cư, dân tộc, tôn giáo... vì mục tiêu độc lập, tự do, hạnh phúc của đất nước và của người dân Việt Nam.
Theo tinh thần này, hiện nay phải “khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Thông qua đó, “xây dựng và phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển nhất của đất nước”. Thể chế Nhà nước pháp quyền XHCN không chỉ thể hiện ở mục tiêu bảo đảm quyền lực của dân, do dân, vì dân, mà còn phải được thể chế hóa thành công cụ để đạt được mục tiêu đó một cách hiệu lực, hiệu quả trong thực tế.
Bởi lẽ, trong điều kiện tồn tại nhiều thành phần, khu vực kinh tế và phân hóa giàu nghèo, phân hóa xã hội theo cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế hiện nay, một chủ trương, chính sách phát triển kinh tế cụ thể chỉ có thể nhắm được vào một thành phần, khu vực kinh tế nhất định, mà cùng một lúc rất khó bao phủ được toàn bộ các thành phần, khu vực kinh tế. Do đó, mỗi chủ trương, chính sách phát triển kinh tế chỉ có thể được lựa chọn, xác định chính xác và triển khai, thực hiện một cách hiệu lực, hiệu quả trên thực tế khi: Xuất phát và nhắm đến đúng thành phần kinh tế cần được thụ hưởng quyền lợi khi đề ra, ban hành chủ trương, chính sách đó; Phân rõ chủ thể được bảo đảm quyền lợi và chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm thực hiện quyền lợi đó; Lôi cuốn và huy động được sự tham gia chủ động, tích cực, đông đảo của người dân vào việc thực hiện chủ trương, chính sách đó; Bảo đảm sự công khai, minh bạch trong triển khai, thực hiện. Đây chính là các tiêu chí của cách tiếp cận dựa trên QCN và là công cụ cần phải có trong “nghiên cứu, ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”, nhằm thực hiện mục tiêu của thể chế nhà nước đó.
Nhờ đó sẽ chú trọng tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của Nhân dân, đồng thời cũng nắm bắt, điều tiết được những thách thức mới đang đặt ra ngày càng lớn hơn khi vấn đề QCN đang và sẽ được đề cập trực tiếp ngày càng nhiều hơn, đặc biệt trong các vụ khiếu kiện, điểm nóng thay vì chỉ được giới hạn trong quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân như hiện nay.
Hai là, bảo đảm thực hiện QCN là khâu nối tất yếu giữa lấy con người làm trung tâm và phát triển con người toàn diện. Phương hướng là thực hiện tốt, có hiệu quả trên thực tế cơ chế: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Và một giải pháp cơ bản là hoàn thiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (năm 2007) theo hướng nâng lên thành luật và hoàn thiện các quy chế dân chủ tại doanh nghiệp, cơ quan nhằm kịp thời ghi nhận, bảo đảm, bảo vệ hàm nghĩa mới là “dân giám sát, dân thụ hưởng” trong cơ chế đó.
Ba là, quyền làm chủ của Nhân dân trong điều kiện thể chế Nhà nước pháp quyền XHCN không chỉ là làm chủ tập thể, mà trước tiên và cơ bản là làm chủ bản thân. Cho nên trong phương hướng tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN không chỉ chú trọng xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp quyền của bộ máy Nhà nước, mà đồng thời phải chú ý đúng mức đến việc xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp quyền của con người, của công dân với tính cách là các quan hệ nền tảng và có tính bình đẳng với thể chế pháp quyền của bộ máy Nhà nước. Nếu không chú ý xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế pháp quyền của bộ máy nhà nước và của công dân như vậy trong Nhà nước pháp quyền XHCN thì người dân và cả cán bộ, công chức, viên chức bộ máy Nhà nước quan hệ với Nhà nước chưa phổ biến bằng thể chế pháp quyền, mà có khi quan hệ lệch lạc ở tính “cộng đồng - tình nghĩa”, “cá nhân - cá thể” theo kiểu “lợi ích nhóm” và tính bao cấp. Như vậy, trong việc tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thực hành dân chủ XHCN, phải coi trọng việc tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy thể chế pháp quyền có tính bình đẳng của con người, của công dân và của bộ máy Nhà nước trong Nhà nước pháp quyền XHCN nói chung ở Việt Nam. Thông qua đó, kịp thời nắm bắt, điều tiết những quyền mới phát sinh, như: quyền an ninh và an toàn thông tin mạng, quyền kinh doanh và thanh toán trên nền tảng in-tơ-nét, quyền giáo dục và sinh hoạt tôn giáo, văn hóa trực tuyến, quyền bí mật đời tư, nhất là trên mạng xã hội, quyền an toàn thân thể, danh dự, nhân phẩm của trẻ em, quyền của nhóm LGBTQ...
Bốn là, tích cực, chủ động giải quyết những vấn đề QCN mới nảy sinh trong thực tiễn, nhất là các vấn đề sau:
Giải quyết vấn đề bảo vệ an ninh con người, an ninh quốc gia gắn với “thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân.”.
Giải quyết vấn đề bảo hộ công dân và công tác người Việt Nam ở nước ngoài theo hướng: Tăng cường thực hiện Luật người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và Bộ luật Lao động, nhằm “hỗ trợ để người Việt Nam ở nước ngoài có địa vị pháp lý vững chắc, phát triển kinh tế và đời sống, hòa nhập xã hội nước sở tại. Nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ công dân, quản lý lao động, du học sinh...”. Qua đó, thực hiện trách nhiệm của Nhà nước đối với công dân, góp phần nâng cao vị thế chính trị, uy tín của Nhà nước ta đối với thế giới cũng như trong con mắt Việt Nam ở nước ngoài; khuyến khích, động viên ngày càng nhiều sự đóng góp của đồng bào ở xa Tổ quốc vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp quyền trong hoạt động tư pháp nhằm thực hiện công khai, minh bạch nghĩa vụ bảo đảm công lý, QCN, quyền công dân như văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ QCN, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của tổ chức, cá nhân”.
Trong phương hướng tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN không chỉ chú trọng xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp quyền của bộ máy Nhà nước, mà đồng thời phải chú ý đúng mức đến việc xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp quyền của con người, của công dân với tính cách là các quan hệ nền tảng và có tính bình đẳng với thể chế pháp quyền của bộ máy Nhà nước. |
PGS, TS. Nguyễn Thanh Tuấn
Nguyên Phó Viện trưởng Viện Quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh