Theo Báo cáo kết quả giám sát việc thi hành Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng nguồn vốn trái phiếu chính phủ (TPCP) cho đầu tư xây dựng cơ bản giai đoạn 2006-2012 do Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội Phùng Quốc Hiển trình bày, việc phân bổ vốn TPCP trong giai đoạn 2006-2012 còn dàn trải; bổ sung nhiều mục tiêu, số lượng dự án và tổng mức đầu tư tăng nhanh, dẫn đến thiếu vốn; nhiều dự án đang triển khai phải cắt, giảm, giãn, hoãn tiến độ, chuyển đổi hình thức đầu tư, gây lãng phí nguồn lực.
Trong đó, cơ chế phân bổ vốn TPCP chưa hợp lý, không có tiêu chí phân bổ cụ thể mà phân bổ theo dự án, dẫn tới chưa thực sự công bằng giữa các vùng, miền, giữa các địa phương, dễ tạo ra cơ chế “xin - cho”; nhiều dự án chưa bảo đảm tính cấp bách, cần thiết phải đầu tư bằng nguồn vốn TPCP theo mục tiêu ban đầu mà Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã quyết định.
Chất lượng quy hoạch phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội ở một số bộ, ngành và địa phương chưa cao, thiếu sự phối hợp, lồng ghép. Nhiều dự án trước khi quyết định đầu tư chưa xác định rõ nguồn vốn đầu tư, không cân đối đủ vốn, vượt quá khả năng kinh tế, dẫn tới thiếu vốn nghiêm trọng, nợ đọng, dở dang, lãng phí.
Công tác quản lý, phân bổ, cấp phát, thanh toán và quyết toán vốn có lúc, có nơi còn buông lỏng, chưa tuân thủ quy định...
Mặt khác, công tác quy hoạch hiện đang được điều chỉnh bằng nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, nhiều văn bản quy phạm pháp luật chưa bảo đảm tính cụ thể, minh bạch.
Trong ngày làm việc, đã có 37 đại biểu Quốc hội của 30 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phát biểu. Các ý kiến thảo luận tập trung vào những nội dung sau:
Một, đánh giá việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến việc thực hiện vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2006-2012.
Hai, đánh giá việc tổ chức thực hiện nguồn vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2006-2012, trong đó phân tích những mặt được và những tồn tại hạn chế trong quản lý sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ.
Ba, đánh giá việc thi hành Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong việc sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ cho đầu tư xây dựng cơ bản giai đoạn 2006-2012, trong đó cần tập trung đánh giá những mặt được, những tồn tại, hạn chế dựa trên các quy định từ Điều 26 đến Điều 34 của Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và phân tích những nguyên nhân tồn tại, hạn chế.
Bốn, phân tích, đánh giá trách nhiệm của các cơ quan có liên quan đối với các sai phạm hạn chế trong quản lý sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ.
Năm, về các giải pháp xử lý tồn tại hạn chế, trong đó có giải pháp về hoàn thiện hệ thống pháp luật và phương án xử lý đối với các dự án đang triển khai còn thiếu vốn, đề nghị đại biểu Quốc hội tập trung phân tích đánh giá kỹ những vấn đề này và xin báo cáo thêm với Quốc hội chủ trương phát hành trái phiếu Chính phủ để đầu tư các công trình, dự án quan trọng của đất nước về giao thông, trong đó có các dự án giao thông đường tuần tra biên giới phục vụ cho quốc phòng. Các dự án về thủy lợi, về y tế, giáo dục đào tạo là một chủ trương đúng đắn nhằm nâng cấp đầu tư xây dựng mới hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và có tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và của từng địa phương nói riêng.
Chủ trương phát hành trái phiếu Chính phủ cho đầu tư các lĩnh vực công trình dự án quan trọng là đúng đắn
Đa số ý kiến đại biểu cơ bản đồng tình với báo cáo của Ủy ban thường vụ Quốc hội về kết quả giám sát việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ cho đầu tư xây dựng cơ bản giai đoạn 2006-2012. Qua báo cáo giám sát và thực tế tại địa phương cho thấy việc Chính phủ, Quốc hội quyết định chủ trương phát hành trái phiếu Chính phủ cho đầu tư các lĩnh vực công trình dự án quan trọng là rất đúng đắn. Đây là nguồn lực to lớn để nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư, nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trên phạm vi của cả nước. Việc sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ đã đạt được kết quả rất tích cực đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và của từng địa phương, nhất là các địa phương miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ đã góp phần hoàn thiện các tuyến đường giao thông, thủy lợi, bệnh viện, kiên cố hóa trường lớp học. Tạo điều kiện cho việc nâng cao chất lượng giáo dục, giảm nguy cơ bỏ học của học sinh. Đảm bảo các điều kiện cho công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân được tốt hơn, góp phần xóa đói giảm nghèo, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Trong giai đoạn 2006 - 2012 đã bố trí vốn trái phiếu Chính phủ để thực hiện 2.682 dự án. Với tổng mức đầu tư ban đầu là 409.415 tỷ. Đến hết 2012 đã hoàn thành được 2.029 dự án đạt 70%. Trong các lĩnh vực giao thông, thủy lợi, y tế và giáo dục đào tạo. Về cơ bản các bộ, ngành và địa phương đã chấp hành các quy định về sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, các dự án hoàn thành phát huy hiệu quả đang được khai thác sử dụng góp phần hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, kinh tế - xã hội của đất nước. Đặc biệt là các địa phương khó khăn và vùng núi, vùng sâu, vùng xa.
Vẫn còn hạn chế, lãng phí và chưa thật hiệu quả.
Đại biểu Phương Thị Thanh - Bắc Kạn nhấn mạnh thêm về công tác quy hoạch thì chất lượng các công tác quy hoạch chưa cao, tình trạng quy hoạch chồng lấn, quy hoạch chậm được rà soát và khắc phục. Giữa quy hoạch ngành, quy hoạch xây dựng của từng dự án cụ thể chưa có sự gắn kết với các tiêu chí để đạt được các chuẩn ban hành chẳng hạn như đầu tư kiên cố hoá trường lớp học phải gắn với quy hoạch xây dựng chuẩn về cơ sở vật chất của trường chuẩn quốc gia để tránh lãng phí nguồn lực đầu tư. Các văn bản hướng dẫn về tiêu chí để rà soát các hạng mục công trình để đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ thiếu cụ thể. Thời gian để các địa phương rà soát là quá thấp, nhất là giai đoạn đầu của chương trình kiên cố hoá trường lớp học dẫn tới phải điều chỉnh về số lượng dự án, công trình đã đăng ký nhiều lần.
Đại biểu Lê Văn Học - Lâm Đồng: các số liệu về kết quả đạt được sử dụng trái phiếu Chính phủ nêu trong báo cáo giám sát gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội chủ yếu là nêu số lượng dự án chưa thể hiện tham số và tiêu chí kỹ thuật đạt được của từng dự án; về phân bổ kinh phí đầu tư cho các lĩnh vực, cho các dự án có tính cấp thiết và cấp bách thì không có các tiêu chí để làm cơ sở cho việc phân chia kinh phí đầu tư, cũng như chưa có kênh riêng cho các tỉnh miền núi khó khăn so với các tỉnh đồng bằng; việc điều chỉnh tổng mức kinh phí so với dự toán ban đầu được duyệt là quá lớn, không tuân thủ Nghị quyết 881 Quốc hội Khóa XII như không được tăng quy mô, không được thay đổi tiêu chí và định mức kỹ thuật của công trình, nhưng tổng số vốn đầu tư cho các dự án đã được điều chỉnh tăng rất lớn từ 388.705 tỷ lên 6.840.794 tỷ, tăng số ban đầu là 77%, trong đó cho các dự án về giao thông tăng 70%, thủy lợi tăng 110%, y tế tăng 37% và riêng các dự án thuộc lĩnh vực giáo dục đào tạo thì không được tăng.
Theo Đại biểu Ngô Văn Hùng (Lào Cai), công tác ban hành hệ thống văn bản QPPL về thực hiện Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí còn hạn chế, bất cập. Theo đó, nhiều văn bản Chính phủ ban hành vượt thẩm quyền quy định của pháp luật.
Trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, qua nhiều năm, văn bản ban hành hướng dẫn nhiều nhưng thiếu tính ổn định, thống nhất bổ sung dẫn đến phức tạp, khó áp dụng hoặc áp dụng một cách tùy tiện dẫn đến không đáp ứng được yêu cầu, gây lãng phí, tiêu cực, thất thoát nguồn vốn trái phiếu Chính phủ.
Các văn bản quy định về tạm ứng vốn, đầu tư xây dựng cơ bản được điều chỉnh nhiều lần nhưng quy định không chặt chẽ dẫn đến nhà thầu lợi dụng cơ chế để ứng vồn, khi chưa có khối lượng thực hiện; sử dụng nguồn vốn TPCP không đúng mục đích, không phát huy được năng lực nhà thầu; triển khai công trình không đúng tiến độ, chất lượng công trình không cao, gây tiêu cực, thất thoát lãng phí lớn, có trường hợp không thu hồi được vốn.
Các quy định về mở thầu, đấu thầu, chỉ định đấu thầu đầu tư xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn TPCP chưa xác định rõ năng lực quản lý của chủ đầu tư, tiêu chuẩn, trách nhiệm, bảo đảm chất lượng công trình của dự án; văn bản hướng dẫn không rõ ràng, cụ thể dẫn đến chủ đầu tư tổ chức đấu thầu không đúng quy định, minh bạch nên có việc chạy thầu, thông thầu. Đây là khâu yếu ảnh hưởng lớn đến hiệu quả, chất lượng các công trình, dự án.
Trong khi đó, một số điều khoản của Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí chưa có hướng dẫn cụ thể. ví dụ: Điều 34 của Luật quy định về trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, tổ chức vi phạm về đầu tư xây dựng cơ bản phải bồi thường. Theo đại biểu Ngô Văn Hùng, trên thực tế, các trường hợp vi phạm này là nhiều, nhưng do chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể nên đến nay chưa xử lý được trường hợp nào.
Kiến nghị của đại biểu
Các đại biểu đề nghị sớm sửa đổi đồng bộ Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng, ban hành Luật Đầu tư công gắn với thực hành tiết kiệm, chống lãng phí theo hướng: Pháp điển hóa, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, tránh trùng lắp giữa các văn bản liên quan, khắc phục các tồn tại, khiếm khuyết trong hệ thống các văn bản như đã được nêu trong Báo cáo. Cụ thể hóa tối đa các quy định liên quan nhằm tạo căn cứ pháp lý đầy đủ cho tổ chức thực hiện, tránh vận dụng tùy tiện gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước; rà soát, bãi bỏ các quy định không còn phù hợp, các quy định vượt thẩm quyền
Đại biểu Nguyễn Thành Tâm - Tây Ninh đề xuất: Một, báo cáo giám sát nên bổ sung thêm phần phân tích sâu hơn những tồn tại, hạn chế trong thực hiện chức trách nhiệm vụ của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội để làm rõ nguyên nhân, biện pháp khắc phục giống như phần đánh giá đối với Chính phủ, bộ, ngành, địa phương. Đây sẽ là kinh nghiệm quý báu để Quốc hội hoàn thiện tốt hơn nhiệm vụ của mình trong thời gian tới. Hai, Quốc hội nên xem xét đưa nguồn vốn trái phiếu Chính phủ vào trong cân đối ngân sách Nhà nước để việc quản lý, sử dụng được chặt chẽ, có cơ sở pháp lý vững chắc và phản ánh đúng bản chất của nguồn vốn này. Ngoài ra, tôi cũng biểu thị sự tán đồng cao đối với các kiến nghị trong Báo cáo giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đặc biệt là những vấn đề về tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến vấn đề giám sát. Thứ hai là việc chưa nên phát hành thêm nguồn vốn trái phiếu, khi chưa có kết quả tổng kết lại toàn bộ chương trình trái phiếu Chính phủ đã được quyết định làm cơ sở cho Quốc hội cân nhắc, xem xét. Và việc Chính phủ tiếp tục cần phải chỉ đạo thực hiện nghiêm túc việc rà soát, thanh tra, kiểm tra các dự án sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ cả về tài chính và trách nhiệm của các bên liên quan để xử lý kiên quyết sai phạm nhằm khắc phục về hậu quả kinh tế, đồng thời khôi phục lại niềm tin với người dân.
T.H