Sau thắng lợi của phong trào Đồng Khởi, để kịp thời lãnh đạo phong trào cách mạng ở miền Nam, ngày 23-1-1961, Hội nghị lần thứ ba BCH Trung ương Đảng (khóa III) đã quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam thay thế Xứ ủy Nam Bộ trước đó, đặt dưới sự chỉ đạo của BCH Trung ương Đảng mà thường xuyên là Bộ Chính trị. Lúc này, công tác tư tưởng chính trị, cổ động, tuyên truyền đang đòi hỏi cấp bách một bộ máy tổ chức lãnh đạo với một đội ngũ cán bộ tuyên huấn thích ứng với mọi tình huống trong tình hình mới, ngày 23-11-1961 Hội nghị Trung ương Cục miền Nam đã quyết định thành lập Ban Ban THTƯ Cục MN, nối tiếp nhiệm vụ của Ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ. Bộ Chính trị đã chỉ định đồng chí Nguyễn Văn Linh, Bí thư Trung ương Cục kiêm Trưởng Ban THTƯ Cục.
Khi thành lập Ban THTƯ Cục có khoảng 150 người là những cán bộ ở lại chiến trường sau Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954. Căn cứ yêu cầu phát triển công tác tuyên truyền vận động chính trị trong giai đoạn mới, ngày 30-1-1965 Thường vụ TƯ Cục ra quyết định củng cố, mở rộng Ban THTƯ Cục với các bộ phận tuyên truyền huấn học, văn hóa, văn nghệ, giáo dục; báo, đài phát thanh, thông tấn xã và Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc miền Nam. Lực lượng chi viện trở thành nòng cốt của Ban THTƯ Cục gồm cán bộ lý luận như: Trần Trọng Tân, Võ Quang Trinh, Năm Quảng, Hà Phú Thuận; các nhà báo như: Thép Mới, Tuất Việt, Đinh Phong; các nhà văn, nhạc sĩ như: Nguyễn Văn Bổng, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Hoàng Việt; cán bộ điện ảnh như: Mai Lộc, Trịnh Mai Diêm. Nhiều cán bộ trẻ vừa tốt nghiệp các trường đại học ở Hà Nội được tuyển chọn bổ sung cho Ban THTƯ Cục, đó là nhà thơ Lê Anh Xuân (cùng Đoàn K33 có Nguyễn Khoa Điềm vào khu ủy Trị Thiên - Huế), Phạm Quang Nghị (hiện là Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội)…
Trong kháng chiến, công tác tư tưởng chính trị là mặt trận hàng đầu, đi trước một bước, góp phần quyết định tạo nên phong trào cách mạng. Chấp hành chỉ đạo trực tiếp của Thường vụ TƯ Cục, Ban THTƯ Cục đã chủ động nghiên cứu tình hình, đề ra chủ trương, phương hướng công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng trong và ngoài Đảng, công tác văn hóa, giáo dục quần chúng; biên soạn tài liệu hướng dẫn công tác tuyên truyền cho cấp dưới; chỉ đạo nghiệp vụ cho ngành tuyên huấn các cấp, đào tạo cán bộ cơ sở. Đặc biệt, Ban đã tham mưu kịp thời, sát đúng về công tác chính trị tư tưởng trong từng giai đoạn cách mạng, nhất là những thời điểm bước ngoặt của cách mạng miền Nam: chống chiến tranh đặc biệt, chống chiến tranh cục bộ, chống chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh và cách mạng miền Nam sau khi ký kết Hiệp định Pa-ri...
Dù địch đánh phá ác liệt, Ban vẫn xây dựng được Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc miền Nam, Trường Tuyên huấn miền Nam, đào tạo cán bộ cho khu ủy, tỉnh ủy, cán bộ cho ngành tuyên huấn địa phương Nam Bộ. Cuối năm 1961, ngay những ngày đầu mới thành lập, Trường Nguyễn Ái Quốc miền Nam đã khai giảng khóa đầu tiên đào tạo lý luận trung cao cấp. Hơn 80 đại biểu và 300 học viên đã về dự. Đồng chí Nguyễn Văn Linh, Bí thư TƯ Cục đã chỉ đạo lớp học. Trải qua 14 năm hoạt động, Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc miền Nam đã đào tạo sáu khóa với hơn 1.000 học viên.
Ban THTƯ Cục đã tham mưu và trực tiếp thực hiện nhiều hoạt động thông tin đối ngoại. Ban đã tổ chức đón tiếp nhà báo Uyn-phơ-rết Bớc-séc (Ôt-xtrây-li-a), nữ nhà báo Ma-đơ-len Ríp-phô (Pháp), đoàn nhà báo Liên Xô, Cu-ba, Ba Lan, Trung Quốc, đón đoàn làm phim tài liệu của Tòa án quốc tế Béc-tơ-răng Ru-xen điều tra tội ác chiến tranh của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, đón đoàn đồng chí Van-đéc Vi-vô, Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Cu-ba, đại sứ Cu-ba tại miền Nam Việt Nam (3-1969).
Cán bộ, nhân viên Ban THTƯ Cục không chỉ là chiến sĩ trung thành trên mặt trận tư tưởng chính trị, mà thật sự là chiến sĩ chiến đấu dũng cảm trên chiến trường ác liệt, bảo vệ an toàn căn cứ, đóng góp nhân lực cho lực lượng vũ trang miền, tham gia chiến dịch, chiến đấu trên các mặt trận.
Năm 1964, Ban đã điều động 800 thanh niên từ các đơn vị thuộc Ban bổ sung vào lực lượng vũ trang, xây dựng Trung đoàn 3, Sư đoàn 9 (Sư đoàn chủ lực đầu tiên của chiến trường miền Nam). Cũng năm 1964, từ căn cứ Tây Ninh, Ban đã cử nhiều đoàn xuống địa phương tuyển quân và hành quân về Thạnh Phú - Bến Tre vận chuyển vũ khí của "Đoàn tàu không số" từ miền Bắc vào.
Tháng 4-1967, quân Mỹ mở cuộc hành quân Giăng-xơn Xi-ty nhằm tiêu diệt cơ quan trọng yếu của TƯ Cục và Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, Bộ Chỉ huy miền. Ban đã chủ động tổ chức lực lượng du kích cơ quan chiến đấu. Tại lễ tuyên dương dũng sĩ diệt Mỹ trong trận càn Giăng-xơn Xi-ty, Ban THTƯ Cục là một đơn vị có thành tích cao nhất trong các cơ quan TƯ Cục, tiêu diệt hơn 100 quân Mỹ, diệt 20 xe tăng và xe bọc thép M113, hơn 40 chiến sĩ được phong tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt cơ giới, Dũng sĩ diệt Mỹ. Lực lượng tự vệ Ban được tặng Huân chương Giải phóng hạng Nhất.
Năm 1968, Ban tổ chức lực lượng cán bộ, kỹ thuật viên, phóng viên, quay phim, họa sĩ, các đội tuyên truyền vũ trang đồng loạt tham gia trận đánh Tết Mậu Thân 1968. Đoàn cán bộ của Ban cùng các đơn vị mũi nhọn đánh vào nội thành. Cán bộ, chiến sĩ, văn nghệ sĩ của Ban cùng với các chiến sĩ quân giải phóng đã chiến đấu quả cảm, hy sinh anh dũng. Một số phóng viên và nhân viên của báo Giải Phóng xuống mặt trận Sài Gòn được bổ sung vào đội tuyên truyền võ trang Sài Gòn, đã chiến đấu dũng cảm, lập nhiều thành tích vẻ vang.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử 1975, Ban đã huy động tất cả lực lượng chuyên môn theo các mũi tiến công của các cánh quân tiến vào Sài Gòn, vừa tác nghiệp vừa tiếp quản mục tiêu được phân công.
Ban THTƯ Cục đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của Đảng và Tổ quốc giao phó trong mọi tình huống của cuộc chiến tranh ác liệt, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đã có 548 người con của Ban THTƯ Cục hy sinh, 353 thương binh, hàng trăm chiến sĩ thi đua, dũng sĩ diệt Mỹ và Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Nhiều cán bộ chuyên viên, nhà giáo, cán bộ khoa học kỹ thuật cấp cao và văn nghệ sĩ nổi tiếng được tặng các phần thưởng cao quý. Ba cơ quan thuộc Ban THTƯ Cục là Thông tấn xã Giải phóng, Nhà in Trần Phú, Điện ảnh Giải phóng đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ chống Mỹ, cứu nước.
TL