Vừa qua, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê Công Thành đã chủ trì cuộc họp về xây dựng giải pháp trữ nước cho đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Trên cơ sở tầm nhìn dài hạn, định hướng chuyển đổi mô hình phát triển ĐBSCL theo tinh thần Nghị quyết số 120/NQ-CP; mang tính chất liên vùng, liên ngành, các đơn vị xây dựng các giải pháp phải triển khai thực hiện.
Đồng chí Lê Công Thành, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường phát biểu tai cuộc họp.
ĐBSCL có vị trí rất quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và là chìa khoá chính trong chiến lược an ninh lương thực quốc gia. Tuy nhiên, vấn đề cấp nước ở ĐBSCL ngày càng khó khăn hơn do sự phát triển kinh tế - xã hội làm gia tăng nhu cầu nước toàn lưu vực và do BĐKH, nước biển dâng làm gia tăng xâm nhập mặn. Hệ thống thuỷ lợi ĐBSCL tuy có nhiều nhưng hầu hết chưa hoàn chỉnh; các hệ thống liên vùng chưa thuận lợi cho việc điều tiết nước và trữ nước; nguồn nước chủ yếu trên sông Tiền và sông Hậu phần lớn theo dòng chính chảy thẳng ra Biển Đông mà khó có thể cấp vào đồng ruộng do địa hình bằng phẳng. Các dự án thuỷ lợi đã và sẽ thực hiện, ngoài xây dựng các hệ thống kênh tưới - tiêu, các cống điều tiết nước trên kênh, trạm bơm cấp nước còn cần có giải pháp trữ nước trên sông chính nhằm ứng phó với BĐKH và suy giảm dòng chảy từ thượng nguồn.
Những tác động của phát triển kinh tế - xã hội, những dự án chuyển nước dự kiến và hệ thống hồ chứa… ở các quốc gia thượng lưu sông Mê Công sẽ có những tác động lớn đến chế độ dòng chảy hằng năm của ĐBSCL, trong đó có nguy cơ lũ nhỏ ngày càng nhỏ hơn, dòng chảy mùa kiệt năm hạn càng kiệt hơn, nước ngọt ngày càng khan hiếm, mặn xâm nhập ngày càng sâu khiến sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản và cấp nước sinh hoạt, công nghiệp… bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Vì vậy, việc trữ nước ở ĐBSCL là cần thiết, đặc biệt cho những năm hạn, nhằm mục đích phục vụ sinh hoạt, công nghiệp, đáp ứng nhu cầu tối thiểu cho nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, góp phần đẩy xâm nhập mặn. Trữ nước ở ĐBSCL nên được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm việc trữ nước làm chậm lũ, trữ nước mùa lũ dùng cho mùa khô, phân ranh mặn - ngọt, trữ nước bằng các biện pháp công trình tại vùng nhiễm mặn…
Tại cuộc họp, các ý kiến trao đổi về kinh nghiệm, giải pháp trữ nước của các quốc gia như Hà Lan, Mỹ, Nhật Bản, Hun-ga-ry, Slo-va-ki-a, Ba Lan, Ca-na-đa; giải pháp tổng thể trữ nước tại ĐBSCL; các nghiên cứu liên quan đến vấn đề trữ nước ở ĐBSCL như nghiên cứu tiềm năng trữ nước ngọt trong mùa mưa, cấp nước cho mùa khô, kiểm soát mặn và phát triển bền vững ĐBSCL trong điều kiện BĐKH - nước biển dâng; nghiên cứu giải pháp quy hoạch vùng Đồng Tháp Mười trở thành vùng trữ nước ngọt cho khu vực ĐBSCL thích ứng với BĐKH; tính bền vững lâu dài của ĐBSCL; đánh giá kinh tế về các giải pháp quản lý nước...
Phát biểu tại cuộc họp, Thứ trưởng Lê Công Thành khẳng định, vấn đề trữ nước ĐBSCL đã được thực hiện từ lâu nhưng chủ yếu nhằm mục đích thủy lợi phục vụ nông nghiệp. Tuy nhiên, những dự án này thường chỉ phục vụ mục tiêu cụ thể của từng ngành, từng khu vực riêng lẻ, chưa có tính tổng thể, liên ngành với tầm nhìn dài hạn. Các dự án, nghiên cứu này cũng chưa chú ý nhiều đến vấn đề địa chất, địa hình của ĐBSCL; cũng như chưa cho thấy sự liên kết giữa nước mặt và nước ngầm của vùng. Đồng chí Lê Công Thành giao Cục BĐKH và Viện Khoa học Tài nguyên nước xây dựng nhiệm vụ nghiên cứu tổng thể về các giải pháp trữ nước ở ĐBSCL; yêu cầu các đơn vị xây dựng các giải pháp trên cơ sở tầm nhìn dài hạn, định hướng chuyển đổi mô hình phát triển ĐBSCL theo tinh thần Nghị quyết số 120/NQ-CP, mang tính chất liên vùng, liên ngành. Kết quả nghiên cứu sẽ là nguồn tư liệu quan trọng để phục vụ các nhà quản lý trong việc ra quyết định đối với vấn đề trữ nước ĐBSCL trong giai đoạn tới.
Diệp Chi