“Phủ Biên tạp lục” là cuốn
sách do Lê Quý Đôn (1726-1784), một nhà bác học Việt Nam, biên soạn năm 1776. Lê Quý Đôn
mô tả tỉ mỉ tình hình địa lý, tài nguyên ở Hoàng Sa và Trường Sa và công việc
khai thác của Chúa Nguyễn đối với hai quần đảo này.
Trong cuốn sách đó Lê Quý
Đôn viết như sau:
“Phủ Quảng Ngãi, ở ngoài
cửa biển xã An Vinh, huyện Bình Sơn có núi gọi là cù lao Ré, rộng hơn 30 dặm,
trước có phường Tứ Chính, dân cư trồng đậu ra biển bốn canh thì đến; phía ngoài
nữa lại có đảo Đại Trường Sa, trước kia có nhiều hải vật và những hóa vật
của tàu, lập đội Hoàng Sa để lấy, đi ba ngày đêm thì mới đến, là chỗ gần Bắc
Hải.
Phủ Quảng Ngãi, huyện
Bình Sơn có xã An Vĩnh, ở gần biển, ngoài biển về phía Đông Bắc có nhiều cù
lao, các núi linh tinh hơn 130 ngọn, cách nhau bằng biển, từ hòn này sang hòn
kia hoặc đi một ngày hoặc vài canh thì đến. Trên núi có chỗ có suối nước ngọt.
Trong đảo có bãi cát vàng, dài ước hơn 30 dặm, bằng phẳng rộng lớn, nước trong
suốt đáy. Trên đảo có vô số yến sào; các thứ chim có hàng nghìn, hàng vạn, thấy
người thì đậu vòng quanh không tránh. Trên bãi vật lạ rất nhiều. Ốc vân thì có
ốc tai voi to như chiếc chiếu, bụng có hạt to bằng đầu ngón tay, sắc đục, không
như ngọc trai, cái vỏ có thể đẽo làm tấm bài được, lại có thể nung vôi xây nhà;
có ốc xà cừ, để khảm đồ dùng; lại có ốc hương. Các thứ ốc đều có thể muối và
nấu ăn được. Đồi mồi thì rất lớn. Có con hải ba, tục gọi là Trắng bông, giống
đồi mồi nhưng nhỏ hơn, vỏ mỏng có thể khảm đồ dùng, trứng bằng đầu ngón tay
cái, muối ăn được. Có hải sâm tục gọi là con đột đột, bơi lội ở bến bãi, lấy về
dùng vôi sát qua, bỏ ruột phơi khô, lúc ăn thì ngâm nước cua đồng, cạo sạch đi,
nấu với tôm và thịt lợn càng tốt.
Các thuyền ngoại phiên bị
bão thường đậu ở đảo này. Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người
xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng ba nhận giấy sai đi, mang lương
đủ ăn sáu tháng, đi bằng năm chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển ba ngày, ba đêm thì
đến đảo ấy. Ở đấy tha hồ bắt chim, bắt cá mà ăn. Lấy được hóa vật của tàu như là
gươm ngựa, hoa bạc, tiền bạc, vòng sứ, đồ chiên, cùng là kiếm lượm vỏ đồi mồi,
vỏ hải ba, hải sâm, hột ốc vân rất nhiều. Đến kỳ tháng tám thì về, vào cửa Eo,
đến thành Phú Xuân để nộp, cân và định hạng xong mới cho đem bán riêng các thứ
ốc vân, hải ba, hải sâm, rồi lĩnh bằng trở về. Lượm được nhiều ít không nhất
định, cũng có khi về người không. Tôi đã xem số của cai đội cũ là Thuyên Đức
Hầu biên rằng: năm Nhâm Ngọ lượm được 30 hốt bạc; năm Giáp Thân lượm được 5100
cân thiếc; năm Ất Dậu được 126 hốt bạc, từ năm Kỷ Sửu đến năm Quý Tỵ năm năm ấy
mỗi năm chỉ được mấy tấm đồi mồi, hải ba. Cũng có năm được thiếc khối, bát sứ
và hai khẩu súng đồng mà thôi.
Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao
nhiêu suất, hoặc người thôn Thứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương,
ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu và các tiền tuần đò,
cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên,
tìm lượm vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai
đội Hoàng Sa kiêm quản. Chẳng qua là lấy các thứ hải vật, còn vàng bạc của quý
ít khi lấy được.
Nguồn:
Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Trang Biên giới Lãnh thổ - Bộ Ngoại giao