Giải pháp quản lý và phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội trong doanh nghiệp
Hoạt động sản xuất tại một Công ty may.

Giải pháp về chính sách

Tiếp tục chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp và duy trì hoạt động của doanh nghiệp nhằm thu hút người lao động vào làm việc trong doanh nghiệp

Gắn với một nền kinh tế phát triển đòi hỏi phải có một hệ thống các doanh nghiệp phát triển. Doanh nghiệp là nơi trực tiếp tạo ra các giá trị sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cung cấp cho thị trường trong nước và nước ngoài; đồng thời, doanh nghiệp là nơi thu hút tạo việc làm và thu nhập cho người lao động. Theo định hướng phát triển của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), trong giai đoạn hiện nay, là cố gắng bảo toàn lực lượng doanh nghiệp có tiềm năng cạnh tranh hiện có, khuyến khích thúc đẩy phát triển thêm nhiều doanh nghiệp mới, hướng tới mục tiêu có 1,5-2 triệu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả vào năm 2020.

Từ góc độ chính sách vĩ mô, Chính phủ chỉ đạo tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, lành mạnh và bình đẳng thúc đẩy doanh nghiệp phát triển, theo phương châm: “Doanh nghiệp Việt Nam - Động lực phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”. Việc tích cực tạo hành lang pháp lý thuận lợi nhất cho lập nghiệp, khởi nghiệp cũng như duy trì và phát triển hoạt động của khối doanh nghiệp để xây dựng nền móng vững chắc cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; cùng với sự phát triển của doanh nghiệp sẽ tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, sẽ tạo ra nhiều chỗ làm việc, tạo việc làm, thu nhập cho người lao động trong xã hội.

Xây dựng chính sách khuyến khích duy trì hoạt động trong các giai đoạn chuyển đổi nhằm giữ người lao động làm việc tại các doanh nghiệp

Trong nền kinh tế thị trường, việc duy trì ổn định, phát triển sản xuất luôn là mục tiêu cũng như mong muốn của cả chủ sử dụng lao động và người lao động. Tuy nhiên, những tình trạng bất thường vẫn có thể xảy ra tùy theo từng loại hình doanh nghiệp, quy mô và công nghệ, mặt hàng sản xuất, kinh doanh như tạm ngừng sản xuất do chờ đợi hợp đồng xuất, nhập khẩu; do thay đổi kỹ thuật, công nghệ; do thay đổi sản phẩm hàng hóa, chuyển đổi cơ cấu; do thu hẹp sản xuất… Sự ngừng hoặc hạn chế hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc làm, thu nhập của người lao động, ảnh hưởng đến an sinh xã hội. Vì vậy, bên cạnh các quyền lợi của chính sách BHTN, còn các quyền lợi khác nhằm hỗ trợ doanh nghiệp trong thời kỳ chuyển đổi như tiền chi trả cho người lao động bị thu hẹp thời gian làm việc nhằm hỗ trợ cho doanh nghiệp giữ người lao động trong thời kỳ tạm ngừng hoặc hạn chế sản xuất, kinh doanh, tránh việc xa thải người lao động. Những quyền lợi này rất có ý nghĩa đối với người lao động vì họ vẫn được bù đủ phần tiền lương mất đi do doanh nghiệp không đủ tiền chi trả do hạn chế việc làm, hạn chế thời gian làm việc, tránh bị thất nghiệp do yếu tố hạn chế hoặc mất việc làm từ phía doanh nghiệp; giúp doanh nghiệp giữ lại người lao động vượt qua giai đoạn chuyển đổi và tiếp tục ổn định hoạt động sản xuất, kinh doanh do đã sử dụng tiếp người lao động đã làm quen ở doanh nghiệp với kiến thức tay nghề, kinh nghiệm đã được tích lũy. Bên cạnh đó, còn những chế độ khác hỗ trợ cho doanh nghiệp nhằm giữ người lao động lại làm việc như trợ cấp của Nhà nước về chi phí tiền lương giúp cho doanh nghiệp giữ lại làm việc đối với người lớn tuổi nhưng chưa đủ tuổi nghỉ hưu; trợ cấp tiền cho chủ doanh nghiệp tham gia liên kết và nhận thêm lao động; trợ cấp khuyến khích việc làm cho phụ nữ, cho người tàn tật... Những khoản hỗ trợ này sẽ thuộc về nội dung của chính sách thị trường lao động tích cực. Vì vậy, cần sớm nghiên cứu xây dựng chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhằm giữ và ổn định việc làm cho người lao động vượt qua giai đoạn khó khăn của doanh nghiệp, phải đề cập một cách cụ thể, chi tiết trong hoàn cảnh thị trường lao động ở nước ta và được đặt trong khuôn khổ của Luật Việc làm.

Sớm triển khai thực hiện Bộ Luật Hình sự trong đó có điều khoản quy định về tội trốn đóng BHXH cho người lao động

Hiện nay, mặc dù đã có nhiều quy định kiểm soát việc tham gia BHXH cho người lao động của chủ sử dụng lao động nhưng vẫn tồn tại tình trạng trốn đóng BHXH BHYT, BHTN xảy ra ở hầu hết các địa phương, ngày càng nhiều và phổ biến nhất vẫn ở doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Thực trạng này gây ảnh hưởng không nhỏ tới việc thực thi pháp luật trong lĩnh vực BHXH, tới quyền và lợi ích cho người lao động, đảm bảo công bằng xã hội. Việc hình sự hóa hành vi trốn đóng BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động đáp ứng yêu cầu đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động, bảo vệ các quan hệ pháp luật, quy định trong lĩnh vực lao động được nghiêm chỉnh thực thi (tội trốn đóng BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động đã được quy định tại Điều 216 Bộ luật Hình sự).

Nghiên cứu xu hướng cân đối ngắn hạn các quỹ ốm đau thai sản, quỹ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp và quỹ BHTN nhằm điều chỉnh tỷ lệ đóng góp một cách hợp lý. Ở Việt Nam, việc đảm bảo cân đối dài hạn quỹ hưu trí, tử tuất là hợp lý và cần thiết. Tuy nhiên, đối với các quỹ ngắn hạn như quỹ ốm đau và thai sản; quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và Quỹ BHTN cần phải được xem xét về thời hạn cân đối hợp lý hơn. Theo kết quả thực tế và tính toán dự báo cho thấy, chỉ riêng quỹ ốm đau và thai sản mất cân bằng thu – chi vào năm 2016, sau đó phải sử dụng một phần nguồn tiền tồn tích để chi trả chế độ, nguồn quỹ sẽ mất khả năng thanh toán vào năm 2022 – 2023; còn các quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, Quỹ BHTN sẽ đảm bảo cân đối lâu dài.

Vì vậy, cần thiết phải cân đối có thời hạn nhất định đối với các quỹ BHXH này với mong muốn có thể giảm bớt được mức đóng góp trước mắt đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, cần thận trọng trong việc xác định thời gian cân đối là bao nhiêu năm cho phù hợp và phải nhận được sự đồng thuận chung của toàn xã hội với phương châm sẵn sàng tham gia điều chỉnh mức đóng góp, kể cả tăng hoặc giảm, để đảm bảo nguồn chi cho từng năm nhưng về cơ bản vẫn phải đảm bảo tính bền vững tài chính của từng chính sách, chế độ BHXH.

Như vậy, việc đề xuất xu hướng cân đối ngắn hạn các quỹ ốm đau và thai sản; quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, Quỹ BHTN nhằm điều chỉnh cho phù hợp hơn tỷ lệ đóng góp BHXH trong khoảng thời gian nhất định, trong những điều kiện kinh tế - xã hội và mức độ tuân thủ pháp lý nhất định, hạn chế tình trạng cân đối dài hạn các quỹ BHXH ngắn hạn nhằm giải quyết hài hòa vấn đề sản xuất kinh doanh, tiêu dùng trước mắt của doanh nghiệp, người lao động với vấn đề tích lũy lâu dài trong nền kinh tế quốc dân.

Giải pháp về tổ chức thực hiện

Xây dựng kế hoạch phát triển đối tượng tham gia BHXH trình UBND tỉnh, thành phố phê duyệt làm cơ sở pháp lý để các ngành, UBND các quận, huyện cùng phối hợp với BHXH tỉnh, thành phố triển khai thực hiện tại các địa phương

Việc xây dựng kế hoạch cần phải được tính toán cụ thể cho từng năm; xây dựng kế hoạch từ cơ sở lên, từ xã phường lên đến quận, huyện và tổng hợp chung cho toàn tỉnh, thành phố. Sau khi dự thảo kế hoạch phát triển đối tượng tham gia BHXH cho từng năm một cách khả thi đã hoàn chỉnh, BHXH các tỉnh, thành phố trình UBND tỉnh, thành phố phê duyệt. Trên cơ sở kế hoạch giao, UBND tỉnh, thành phố và UBND các quận, huyện sẽ tích cực sát sao chỉ đạo công tác phát triển đối tượng tham gia BHXH, chỉ đạo các ngành chức năng cùng với Ngành BHXH để tổ chức hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch đã được phê duyệt. Bên cạnh đó, UBND tỉnh, thành phố và UBND các quận, huyện cũng cần có quy định đưa chỉ tiêu hoàn thành kế hoạch phát triển đối tượng tham gia BHXH vào xét thi đua khen thưởng. Đối với khối các doanh nghiệp, sẽ không xét khen thưởng đối với tập thể, thủ trưởng đơn vị còn vi phạm trốn đóng, nợ đọng BHXH cho người lao động.

Tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, vận động, giáo dục với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, thiết thực nhằm nâng cao nhận thức của cấp ủy đảng, chính quyền, các cơ quan, tổ chức, đoàn thể, chủ sử dụng lao động, người lao động về ý nghĩa và tuân thủ chính sách pháp luật BHXH

Trong thực tế, việc thực hiện đóng góp BHXH cho người lao động phần nhiều phụ thuộc vào ý thức trách nhiệm của chủ sử dụng lao động. Nếu chủ sử dụng lao động tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của chính sách, pháp luật BHXH thì người lao động sẽ được tham gia BHXH đúng quy định. Nhìn nhận khoản đóng góp BHXH cho người lao động dưới góc độ kinh tế thì đây là một khoản chi phí sản xuất, làm tăng giá thành sản phẩm và đương nhiên sẽ làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu chủ sử dụng lao động coi khoản chi phí đóng BHXH là khoản chi phí tất yếu, không thể trốn tránh được trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, khoản chi phí ấy phải được xã hội thừa nhận thì ý thức tự giác tuân thủ pháp luật về BHXH của chủ sử dụng lao động sẽ trở thành một hành vi đương nhiên, cần thiết. Sự đồng thuận và tự giác tuân thủ pháp luât BHXH của mọi chủ sử dụng lao động và người lao động sẽ làm cơ sở cho tính minh bạch và tăng tính cạnh tranh, bình đẳng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi mọi người lao động có việc làm, có thu nhập đều tham gia BHXH, được xã hội bảo vệ, thì việc tham gia BHXH là một “tiêu chuẩn sống” hay “chuẩn mực sống mới” cho mọi người lao động trong xã hội. Vì vậy ở nước ta, khi xác định những chỉ số phát triển kinh tế - xã hội, cần đưa tỷ lệ người lao động có việc làm, có thu nhập được tham gia BHXH trên tổng số nguồn lao động xã hội là chỉ số đánh giá chất lượng sống của người lao động hay đánh giá mức độ An sinh xã hội của quốc gia.

Thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ BHXH cho người lao động. Dựa trên cơ sở pháp lý về quyền và nghĩa vụ BHXH của người lao động, người lao động có quyền yêu cầu chủ sử dụng lao động thực hiện đăng ký tham gia BHXH, tuân thủ các chế độ chính sách BHXH trong quá trình lao động. Bên cạnh đó, với vai trò bảo vệ quyền lợi cho người lao động, tổ chức công đoàn của doanh nghiệp, tổ chức công đoàn cấp trên trực tiếp, công đoàn cấp quận, huyện cùng phối hợp chia sẻ thông tin với Ngành BHXH để có đủ số liệu về danh sách người lao động thuộc diện phải tham gia BHXH mà chưa được tham gia BHXH trong từng doanh nghiệp. Từ đó, các tổ chức công đoàn địa phương có biện pháp xử lý kịp thời theo quy định của pháp luật để bảo vệ đến cùng quyền lợi BHXH cho người lao động. BHXH các cấp cần chuẩn bị đầy đủ hồ sơ cần thiết và cung cấp cho Liên đoàn Lao động đồng cấp tại địa phương tiến hành khởi kiện ra Tòa án đối với các đơn vị nợ đọng, trốn đóng BHXH nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động.

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về trốn đóng, nợ đọng BHXH

Theo Luật BHXH (sửa đổi) 2014, từ ngày 1-1-2016, ngành BHXH có thêm chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH. Căn cứ vào kế hoạch, chỉ tiêu thanh tra do BHXH Việt Nam giao, BHXH tỉnh, thành phố tổ chức triển khai một cách tích cực. Công tác thanh tra, kiểm tra phải đảm bảo tuân thủ trình tự, thủ tục khi tiến hành thanh tra, kiểm tra theo quy định của pháp luật, bao gồm chuẩn bị thanh tra; tổ chức thực hiện thanh tra và kết thúc thanh tra. Tổ chức thi hành các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý sau thanh tra có hiệu lực pháp luật và tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong công tác thanh tra. BHXH tỉnh, thành phố cần chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch phối hợp với các ngành hữu quan như ngành lao động, công đoàn, thuế, kế hoạch đầu tư… và triển khai thực hiện kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách BHXH trên địa bàn. Kịp thời chấn chỉnh và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH nhằm khắc phục tình trạng trốn đóng, chậm đóng, nợ đọng BHXH. Tổ chức thực hiện tốt các hoạt động theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý sau thanh tra.

Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính và nâng cao chất lượng phục vụ của đội ngũ cán bộ, viên chức ngành BHXH

BHXH các tỉnh, thành phố xác định rõ nhiệm vụ là cơ quan phục vụ chuyên nghiệp và hiệu quả góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo thực hiện đầy đủ các chế độ, chính sách BHXH cho nhân dân, người lao động. Vì vậy, BHXH mỗi địa phương cần phải kế hoạch hóa cải cách thủ tục hành chính, sử dụng dịch vụ công trực tuyến, ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong quản lý, nâng cao chất lượng phục vụ với một lộ trình cụ thể trong từng giai đoạn cho phù hợp. Việc giảm các thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp gây khó khăn trong việc tham gia BHXH của doanh nghiệp cũng là một biện pháp có ý nghĩa tích cực nhằm mở rộng đối tượng tham gia BHXH của doanh nghiệp vì thực tế cho thấy, do nhiều khi gặp vướng mắc trong việc giải quyết hồ sơ, đơn vị phải gửi đi gửi lại hồ sơ nhiều lần dẫn đến tâm lý ngại tham gia BHXH do sợ phiền hà. Đối với các doanh nghiệp quy mô nhỏ, số lao động ít, không có cán bộ chuyên trách làm công tác BHXH, phần lớn là kiêm nhiệm nên việc hướng dẫn cụ thể, chi tiết và đơn giản thủ tục hành chính sẽ giúp doanh nghiệp tích cực tham gia BHXH hơn.

Đi đôi với động thái quyết liệt cải cách thủ tục hành chính và hoàn thiện các quy trình nghiệp vụ chuyên môn thì vai trò con người vận hành guồng máy hoạt động đó luôn giữ vai trò quan trọng. Nhiều năm nay, ngành BHXH có sự chuyển biến mạnh mẽ về phong cách làm việc từ hành chính sang phục vụ, coi doanh nghiệp, người lao động là khách hàng và coi trọng sự hài lòng của đối tượng phục vụ. Vì vậy, đòi hỏi đội ngũ cán bộ cơ quan BHXH phải luôn cập nhật chế độ chính sách, hiểu biết sâu sắc và tính hệ thống của các chế độ chính sách, về quy trình nghiệp vụ chuyên môn và sử dụng thành thạo các phần mềm quản lý; có đạo đức nghề nghiệp, luôn tận tình, chu đáo trong việc hướng dẫn chủ sử dụng lao động và người lao động tham gia đóng góp và hưởng thụ các quyền lợi của chính sách BHXH. Mỗi cán bộ, viên chức phải tự đặt ra kế hoạch phấn đấu, học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, đặc biệt chú trọng đến hình thức tự học, tự rèn luyện cũng như học hỏi, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm lẫn nhau trong từng đơn vị phòng, quận huyện đến BHXH tỉnh, thành phố và trong phạm vi toàn Ngành. Cũng cần chú ý rằng, việc tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, người lao động tham gia đóng góp BHXH cũng như việc giải quyết đúng, đầy đủ, kịp thời các chế độ BHXH cho người lao động chính là tạo ra sự tin tưởng và kích thích doanh nghiệp tham gia đầy đủ số lao động làm việc tại doanh nghiệp.

Tăng cường, nâng cao chất lượng các hoạt động phối hợp quản lý người lao động trong các doanh nghiệp giữa BHXH tỉnh, thành phố và các ngành có liên quan tại địa phương

Thông tư liên tịch số 04/2015/TTLT-BKHĐT-BTC-BNV ngày 28-5-2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và Bộ Nội vụ ban hành Quy chế phối hợp mẫu giữa các cơ quan chức năng trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp sau đăng ký thành lập về những nội dung sau:

Tăng cường trao đổi, cung cấp, công khai thông tin doanh nghiệp gồm thông tin đăng ký doanh nghiệp (tên doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở chính, ngành, nghề kinh doanh, người đại diện theo pháp luật,…); thông tin về tình trạng hoạt động của doanh nghiệp (đang hoạt động, đã giải thể, tạm ngừng kinh doanh,…); thông tin về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (báo cáo tài chính, doanh thu, lao động,…); thông tin về xử lý doanh nghiệp có hành vi vi phạm pháp luật (kết luận và kết quả xử lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền).

Phối hợp trong thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp, thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, xử lý doanh nghiệp có hành vi vi phạm quy định về ngành, nghề kinh doanh có điều kiện. Phối hợp trong báo cáo về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp sau đăng ký thành lập.

Việc tích cực triển khai thực hiện quy chế phối hợp công tác giữa Ngành BHXH và ngành Thuế tại địa phương là giải pháp cần thiết, tiếp để nắm bắt thông tin, quản lý doanh nghiệp. Phòng Thu của BHXH tỉnh, thành phố và bộ phận Thu của BHXH các quận, huyện cần tích cực, chủ động, thường xuyên liên hệ với Phòng Thanh tra Thuế, Chi cục Thuế các quận, huyện tương ứng để tiếp nhận, trao đổi thông tin. Khảo sát cho thấy, danh sách người lao động tham gia BHXH và danh sách người lao động kê khai thuế thu nhập cá nhân còn chênh lệch nhau khá lớn trong từng doanh nghiệp. Vì vậy, việc chia sẻ thông tin, phân tích sự khác biệt giữa danh sách người lao động tham gia BHXH – danh sách người lao động kê khai thuế thu nhập cá nhân để tìm ra trường hợp thuộc diện phải tham gia nhưng chưa tham gia BHXH, giải trình lý do là một trong các giải pháp cần thiết để nhắc nhở, vận động doanh nghiệp thực hiện tham gia BHXH đầy đủ cho người lao động.

Xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung dựa trên hệ thống công nghệ thông tin trong cả nước về dân số và người lao động

Việc xây dựng, triển khai cơ sở dữ liệu chung về doanh nghiệp và người lao động là yêu cầu cần thiết, khi hoàn thiện sẽ có cơ sở dữ liệu mà tất cả các ngành liên quan trong bộ máy hành chính nhà nước cùng chia sẻ, sử dụng thông tin. Từ đó, góp phần cải cách thủ tục hành chính, hạn chế tới mức thấp nhất thông tin quản lý mà doanh nghiệp, người lao động cần đăng ký tại nhiều cơ quan khác nhau, giảm bớt sự phiền hà, tốn kém chi phí, thời gian đi lại của doanh nghiệp, người lao động - Đây là giải pháp lâu dài nhằm xây dựng Chính phủ điện tử. Đương nhiên việc xây dựng cơ sở dữ liệu về dân số, người lao động thống nhất trong cả nước đòi hỏi một sự đầu tư lớn về công nghệ thông tin; trong đó, bao gồm đầu tư về phần cứng (trang thiết bị máy chủ, đường truyền, máy tính…), phần mềm nghiệp vụ; phải đảm bảo an ninh, an toàn và bảo mật hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu toàn quốc gia.

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất