Nhìn lại một nhiệm kỳ công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên


                   Lãnh đạo Tỉnh ủy Vĩnh Phúc tặng Cờ thi đua xuất sắc cho các tổ chức đảng.

Trước những yêu cầu ngày càng cao và cấp bách, đòi hỏi toàn Đảng phải tiếp tục thực hiện đồng bộ, quyết liệt nhiều nhiệm vụ, giải pháp để không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng và mỗi đảng viên, bảo đảm vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở.

Những kết quả nổi bật

Hiện nay, toàn Đảng có trên 54.000 TCCSĐ với hơn 5,2 triệu đảng viên, giảm trên 3.000 TCCSĐ và tăng hơn 387.000 đảng viên so với đầu nhiệm kỳ. Trực thuộc các đảng ủy cơ sở có trên 250.000 chi bộ thuộc các loại hình TCCSĐ: xã, phường, thị trấn; cơ quan đảng, nhà nước, mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội; các đơn vị sự nghiệp; các loại hình doanh nghiệp; các đơn vị quân đội, công an; các đơn vị ở ngoài nước.

Nhiệm kỳ qua, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã chỉ đạo tổng kết một số nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương về xây dựng TCCSĐ, đảng viên, ban hành chủ trương mới; rà soát, bổ sung, sửa đổi và ban hành quy định về chức năng, nhiệm vụ của một số loại hình TCCSĐ: Kết luận số 38-KL/TW ngày 13-11-2018 của Bộ Chính trị về tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 2-2-2008 của BCH Trung ương khóa X về “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên”; Chỉ thị số 28-CT/TW ngày 21-1-2019 của Ban Bí thư về nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên và rà soát, sàng lọc, đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng, Chỉ thị số 33-CT/TW ngày 18-3-2019 của Ban Bí thư về tăng cường công tác xây dựng Đảng trong các đơn vị kinh tế tư nhân… Đây là hệ thống văn bản rất quan trọng, làm cơ sở để các cấp ủy, tổ chức đảng đề ra chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các TCCSĐ và chất lượng đội ngũ đảng viên.

Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đảng viên được các cấp ủy, tổ chức đảng đề cao. Việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng có nhiều đổi mới, được tổ chức dưới hình thức trực tuyến từ Trung ương đến cơ sở đã tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động trong toàn Đảng, sớm đưa các nghị quyết vào cuộc sống. Công tác tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, khóa XII) dần đi vào nền nếp; cấp ủy cấp trên gương mẫu thực hiện nghiêm túc, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, chú trọng gợi ý, dự chỉ đạo kiểm điểm đối với những tập thể, cá nhân thuộc quyền quản lý; coi trọng kiểm tra việc sửa chữa, khắc phục hạn chế, khuyết điểm của cấp dưới. Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị được đẩy mạnh, trở thành nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên với nhiều cách làm hay, sáng tạo đem lại hiệu quả thiết thực. Việc thực hiện trách nhiệm nêu gương có tiến bộ, nhiều cán bộ, đảng viên đã đề cao tinh thần trách nhiệm, giữ gìn phẩm chất, đạo đức, lối sống, gương mẫu đi đầu, tận tụy với công việc, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức đảng khá đồng bộ với đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Qua sắp xếp đã giảm trên 3.000 TCCSĐ ở các loại hình, trong đó giảm 565 đảng bộ xã, phường, thị trấn và giảm trên 10.000 chi bộ trực thuộc đảng ủy xã, phường, thị trấn do sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã, sáp nhập thôn, tổ dân phố, góp phần tinh gọn hệ thống chính trị ở cơ sở, giảm chi ngân sách nhà nước cho hoạt động của các tổ chức đảng. Kết thúc hoạt động của trên 11.000 chi bộ cơ quan xã, phường, thị trấn, chuyển đảng viên về sinh hoạt tại chi bộ khu dân cư đã đem lại hiệu quả nhiều mặt và góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của các chi bộ khu dân cư. Việc đẩy mạnh thực hiện chủ trương bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố hoặc trưởng ban công tác mặt trận ở trên 57.000 thôn, tổ dân phố đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động, giảm số lượng, nâng cao thu nhập cho người hoạt động không chuyên trách ở thôn, tổ dân phố. Tình trạng thôn, bản chưa có tổ chức đảng đã cơ bản được khắc phục, đến nay còn 1.582 (1,6%) thôn, tổ dân phố chưa có tổ chức đảng. Việc xây dựng tổ chức đảng trong các đơn vị kinh tế tư nhân là nhiệm vụ khó nhưng đã được nhiều cấp ủy quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và có chuyển biến tích cực.

Chất lượng cấp ủy cơ sở từng bước được nâng lên; bồi dưỡng nghiệp vụ công tác đảng cho đội ngũ cấp ủy viên, cán bộ chuyên trách công tác đảng được tăng cường. Trong nhiệm kỳ đã tổ chức trên 3.000 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác đảng cho trên 325.000 lượt cấp ủy viên, bí thư cấp ủy và cán bộ chuyên trách làm công tác đảng. Đại hội đảng bộ, chi bộ cơ sở nhiệm kỳ 2020-2025 đã bầu được 298.846 cấp ủy viên. Trong đó: Tỷ lệ nữ chiếm 20,8% (cao hơn nhiệm kỳ trước 1,1%), dân tộc thiểu số 11%  (cao hơn nhiệm kỳ trước 0,8%), dưới 35 tuổi 10,6%. Các tỷ lệ trên đều cao hơn yêu cầu tại Chỉ thị 35-CT/TW. Tốt nghiệp cao đẳng, đại học trở lên 93,8% (cao hơn nhiệm kỳ trước 15,6%), trình độ trung cấp lý luận chính trị trở lên 86,8% (cao hơn nhiệm kỳ trước 8,0%). Có 1.677 đảng bộ cơ sở thực hiện chủ trương thí điểm bầu trực tiếp bí thư tại đại hội, các đồng chí bí thư cấp ủy bầu trực tiếp tại đại hội đều trúng cử với số phiếu cao, một số đồng chí trúng cử với số phiếu 100%.

Chất lượng sinh hoạt chi bộ từng bước được nâng lên. Nhiều cấp ủy đã hướng dẫn nội dung sinh hoạt đối với từng loại hình chi bộ, ban hành tiêu chí cụ thể đánh giá chất lượng sinh hoạt chi bộ, tăng cường kiểm tra, giám sát chuyên đề việc chấp hành nền nếp, đổi mới nội dung, nâng cao chất lượng sinh hoạt. Nhiều chi bộ đưa việc tự phê bình và phê bình, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào nội dung sinh hoạt hằng tháng. Tăng cường sinh hoạt chuyên đề, tập trung nhiều hơn cho sinh hoạt chính trị tư tưởng, công tác đảng, từng bước khắc phục tình trạng đơn điệu, hình thức trong sinh hoạt đảng. Các cấp ủy, tổ chức đảng đã cụ thể hóa các tiêu chí đánh giá phù hợp với từng loại hình tổ chức đảng, từng đối tượng đảng viên. Đánh giá, xếp loại chất lượng TCCSĐ, đảng viên thực chất hơn, sát với kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng Đảng của từng địa phương, cơ quan, đơn vị.

Công tác khen thưởng tổ chức đảng, đảng viên thực hiện kịp thời, chặt chẽ, đúng đối tượng. Trung bình mỗi năm khen thưởng trên 190.000 đảng viên; tặng Huy hiệu Đảng cho trên 273.000 đảng viên. Kiểm tra, giám sát được tăng cường, kỷ luật đảng thực hiện nghiêm minh, không có vùng cấm, không có ngoại lệ. Tổng số đảng viên bị kỷ luật từ năm 2016 đến năm 2019 là 72.853 đảng viên, trung bình mỗi năm kỷ luật 18.600 đảng viên; số đảng viên bị kỷ luật tăng trung bình 5% qua các năm. Từ đầu nhiệm kỳ đến đầu năm 2020 đã thi hành kỷ luật 113 đảng viên là cán bộ diện Trung ương quản lý; 1.087 đảng viên là cán bộ cấp tỉnh quản lý; 9.696 đảng viên cấp huyện quản lý; 61.957 đảng viên cấp cơ sở quản lý. Trong đó, có 2 Ủy viên Bộ Chính trị, 20 Ủy viên BCH Trung ương, 160 tỉnh ủy viên, 1.343 huyện ủy viên, 7.151 đảng ủy viên cơ sở và 8.151 chi ủy viên. Việc xử lý kỷ luật kịp thời, nghiêm minh đảng viên vi phạm, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đã giúp mỗi cán bộ, đảng viên tự soi, tự sửa, tự điều chỉnh hành vi, tích cực rèn luyện đạo đức, lối sống, tác phong công tác.

Việc xây dựng đội ngũ đảng viên được quan tâm cả về số lượng, chất lượng và đổi mới cơ cấu theo hướng tích cực. Từ đầu nhiệm kỳ đến 31-12-2019 đã kết nạp được 790.150 đảng viên, bình quân mỗi năm kết nạp trên 190.000 đảng viên. Năm 2019, trong tổng số đảng viên kết nạp, 6% là công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ, sơ cấp; 24,6% có trình độ trung cấp, cao đẳng và 47% có trình độ đại học trở lên. Cơ cấu hợp lý theo hướng trẻ hóa và tăng tỷ lệ nữ (67,7% đoàn viên, 43,7% nữ); công tác phát triển đảng viên là người dân tộc thiểu số, tôn giáo được quan tâm, đạt kết quả tốt; kết nạp chủ doanh nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩn vào Đảng tại một số đảng ủy trực thuộc Trung ương đạt kết quả tích cực.

Phương thức lãnh đạo của Đảng ở cơ sở từng bước được đổi mới. Các cấp ủy tập trung nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện nghị quyết, chương trình, kế hoạch công tác; kịp thời lãnh đạo giải quyết những vấn đề khó khăn, phức tạp ở cơ sở; đề ra chủ trương, nhiệm vụ và biện pháp xây dựng chi bộ, đảng bộ trong sạch vững mạnh, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; thường xuyên bổ sung, hoàn thiện quy chế làm việc; thực hiện tốt chế độ sinh hoạt định kỳ, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và thực hiện tốt trách nhiệm nêu gương. Hầu hết cấp ủy viên các cấp được phân công theo dõi, phụ trách các tổ chức đảng trực thuộc, trực tiếp dự sinh hoạt chi bộ; nhiều nơi phân công đảng viên theo dõi, phụ trách hộ gia đình, góp phần nắm chắc tình hình, kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc ở cơ sở.

Hạn chế

Công tác xây dựng TCCSĐ và đội ngũ đảng viên vẫn còn một số hạn chế, yếu kém như: Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số TCCSĐ còn thấp, nhất là khả năng dự báo, đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết những vấn đề phát sinh ở cơ sở. Công tác xây dựng, phát triển tổ chức đảng, đảng viên trong các đơn vị kinh tế tư nhân, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo còn nhiều khó khăn, hạn chế. Sinh hoạt chi bộ ở một số nơi vẫn còn hình thức, sinh hoạt chuyên đề chưa được coi trọng, tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình còn yếu. Công tác kết nạp đảng viên ở một số nơi còn chạy theo số lượng, chưa coi trọng đúng mức chất lượng; động cơ vào Đảng của một số quần chúng chưa đúng đắn. Công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên chưa được quan tâm đúng mức. Tính tiên phong, gương mẫu và phẩm chất đạo đức của một bộ phận đảng viên giảm sút, thậm chí một số người đứng đầu cấp ủy, cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp vi phạm phải xử lý kỷ luật đảng và pháp luật. Việc xét miễn, giảm công tác và sinh hoạt đảng chưa chặt chẽ, việc quản lý đảng viên đi làm ăn xa nơi cư trú còn khó khăn, phức tạp; số đảng viên xin ra khỏi Đảng, bỏ sinh hoạt đảng phải xóa tên có xu hướng tăng lên; việc rà soát, sàng lọc, đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng chưa được tiến hành thường xuyên.

Một số giải pháp

Nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ và đội ngũ đảng viên trong thời gian tới rất nặng nề. Các cấp ủy, tổ chức đảng cần phải tập trung thực hiện tốt một số giải pháp chủ yếu sau:

Một là, các cấp ủy, tổ chức đảng chủ động tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức, vai trò, trách nhiệm của đảng viên trong nghiên cứu, học tập Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh; tích cực đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; phê phán mạnh mẽ những quan điểm sai trái, bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, phản động của các thế lực thù địch để mỗi đảng viên thực sự là một “tuyên truyền viên” trên mặt trận tư tưởng của Đảng. Thường xuyên giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi đảng viên thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, luôn vững vàng trước khó khăn, thách thức. Nâng cao ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa” và đề cao danh dự, lòng tự trọng của đảng viên. Tạo điều kiện thuận lợi để đảng viên thực hiện tốt nhất nhiệm vụ được giao, tiên phong, gương mẫu đi đầu trong mọi công việc, luôn đặt lợi ích chung lên trên hết, trước hết. Kịp thời phát hiện, tôn vinh, nhân rộng những tấm gương đảng viên xuất sắc, tiêu biểu trên các lĩnh vực để khuyến khích, tạo động lực cho mọi đảng viên ra sức phấn đấu, học tập, cống hiến vì sự nghiệp chung.

Hai là, thực hiện các giải pháp quyết liệt để xây dựng TCCSĐ trong sạch, vững mạnh gắn với quan tâm củng cố TCCSĐ yếu kém. Kịp thời sắp xếp, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng đồng bộ với việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, nhất là sắp xếp, tinh gọn bộ máy bên trong các tổ chức của hệ thống chính trị, sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã, sáp nhập thôn, tổ dân phố. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài khu vực Nhà nước. Tập trung khắc phục tình trạng thôn, bản chưa có chi bộ hoặc sinh hoạt ghép. Tiếp tục hoàn thiện mô hình đảng bộ bộ phận và một số loại hình chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở.

Ba là, nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo, kỹ năng và nghiệp vụ công tác đảng cho đội ngũ cấp ủy viên cơ sở, nhất là bí thư cấp ủy. Thực hiện chủ trương bí thư cấp ủy đồng thời là thủ trưởng cơ quan, đơn vị; cơ bản thực hiện mô hình bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch HĐND, UBND ở những nơi đủ điều kiện; bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố hoặc trưởng ban công tác mặt trận, sớm khắc phục tình trạng trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố chưa là đảng viên. Đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của cấp ủy cơ sở theo hướng gần dân, sát cơ sở; ban hành và thực hiện nghiêm túc quy chế làm việc của cấp ủy.

Bốn là, mỗi cán bộ, đảng viên phải tự giác, nghiêm túc, cầu thị thực hiện tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và gương mẫu thực hiện tốt trách nhiệm nêu gương, nhất là người đứng đầu các cấp. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức đảng, đảng viên hằng năm bảo đảm thực chất. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo để nâng cao chất lượng sinh hoạt ở các loại hình chi bộ, bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu. Tăng cường kiểm tra, giám sát, kịp thời xử lý các chi bộ, đảng viên vi phạm quy định, nguyên tắc sinh hoạt đảng.

Năm là, nâng cao chất lượng công tác kết nạp đảng viên, khắc phục tình trạng chạy theo số lượng, chưa coi trọng đúng mức chất lượng, xem nhẹ tiêu chuẩn, điều kiện. Đặc biệt coi trọng tiêu chuẩn chính trị, đạo đức, lối sống, động cơ của người vào Đảng. Xây dựng kế hoạch phát triển đảng viên hợp lý cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu phù hợp với thực tế của từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng để kết nạp vào Đảng những đoàn viên, hội viên ưu tú, trưởng thành trong lao động, học tập, nghiên cứu khoa học, trong lực lượng vũ trang để tạo nguồn cán bộ cho hệ thống chính trị các cấp. Sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các quy định, hướng dẫn để quản lý chặt chẽ đội ngũ đảng viên; thường xuyên rà soát, sàng lọc, đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng.


Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất