Kỳ 1 của bài viết đăng trên Tạp chí Cộng sản số tháng 9-2018 (số 911) đã nhận diện và bóc trần thủ đoạn ngụy tuyên truyền và đề cập tới ba nội dung chủ yếu về công cuộc phòng, chống tham nhũng của Đảng ta thường bị các thế lực thù địch bóp méo, xuyên tạc trên các phương tiện truyền thông xã hội.
Các phương tiện truyền thông xã hội là địa hạt mới trên mặt trận tư tưởng, nơi các thế lực thù địch xem không gian mạng như một thứ “quyền lực thứ năm”, bên cạnh “quyền lực thứ tư” là báo chí, để ráo riết và triệt để lợi dụng phát tán trên diện rộng các luận điệu xuyên tạc trắng trợn hoặc núp bóng tinh vi dưới vỏ bọc “khách quan” của cái gọi là “phản biện”, “góc nhìn độc lập”…, hòng gây rối, nhiễu, bóp méo và làm sai lệch thông tin, nhằm phục vụ cho những mưu đồ đen tối rắp tâm chống phá công cuộc phòng, chống tham nhũng đang được Đảng ta đẩy mạnh. Việc đấu tranh phản bác các luận điệu ngụy tuyên truyền về phòng, chống tham nhũng trên các phương tiện truyền thông xã hội, góp phần vạch trần những âm mưu, thủ đoạn nham hiểm của các thế lực thù địch là yêu cầu cấp thiết hiện nay.
Nhận diện ngụy tuyên truyền và những kẻ chơi lá bài hai mặt
Trước nay, trong chính giới và học giả phương Tây, nhiều người vẫn “rao giảng” về một thứ truyền thông đại chúng, biểu hiện tập trung nhất ở báo chí, là tự do, khách quan tuyệt đối, phi chính trị, đứng ngoài cuộc đấu tranh tư tưởng. Với xảo biện rằng, báo chí thuần túy là phương tiện giao tiếp, họ “lập lờ đánh lận con đen” tuyệt đối hóa chức năng thông tin, song hành với phủ nhận chức năng tư tưởng và bóp méo khái niệm tuyên truyền của báo chí.
Những xảo biện đó không che giấu được sự thật là, báo chí thuộc thể chế chính trị nào cũng đều mang bản chất chính trị - xã hội. Trong bất kỳ xã hội có giai cấp và còn sự khác biệt về lợi ích, báo chí với tư cách là công cụ đấu tranh giai cấp, luôn thuộc về một giai cấp nhất định, thường là giai cấp thống trị xã hội - giai cấp này sử dụng báo chí như một công cụ đắc lực để giành và giữ quyền lực chính trị, đồng thời tuyên truyền hệ tư tưởng, chủ thuyết chính trị của mình để chính thống hóa và duy trì nó ở vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Báo chí thuộc giai cấp, nhóm xã hội nào thì bảo vệ cho quyền, lợi ích của giai cấp, nhóm xã hội đó.
Chức năng thông tin là chức năng cơ bản, nguyên thủy và khởi nguồn của báo chí. Tuy nhiên, đặt chức năng thông tin lên hàng đầu không đồng nghĩa với tuyệt đối hóa nó và cho rằng, thông tin sự kiện là khách quan tuyệt đối, là thông tin sự kiện bản thể nguyên dạng, ngoài ra không vì bất cứ mục đích nào khác. Báo chí thông tin chân thực, khách quan, song được tái tạo và soi chiếu qua lăng kính chủ quan của nhà báo, bao giờ cũng mang tính khuynh hướng rõ nét - do địa vị xã hội và lợi ích của tổ chức xã hội hay lực lượng chính trị mà nhà báo đại diện phát ngôn chi phối. Tính khuynh hướng chính trị của báo chí là nguyên tắc phổ biến, tồn tại khách quan, ngoài ý muốn chủ quan, không thể chối bỏ. Do đó, không thể và không bao giờ có thứ báo chí đứng ngoài, đứng trên chính trị hay không can dự vào đấu tranh giai cấp, đấu tranh tư tưởng, ở bất kỳ một nền báo chí nào, như sự rêu rao của nhiều học giả hay giới chức phương Tây.
Trong thực tiễn, thông tin (information) và tuyên truyền (propaganda) là hai mặt của một vấn đề. Không ai thông tin mà không nhằm mục đích nào đó, tức là tuyên truyền; ngược lại, nếu chỉ nhấn mạnh, tuyệt đối hóa tuyên truyền mà không đẩy mạnh thông tin những sự kiện, vấn đề cụ thể, sinh động từ cuộc sống thì trở thành tuyên truyền suông, thiếu thuyết phục và hiệu quả. Như vậy, tuyên truyền là sự biểu hiện tập trung tính mục đích của báo chí, trước hết là mục đích chính trị. Tuyên truyền mang tính phổ quát ở mọi nền báo chí và là công việc được thực hiện bởi bất kỳ đảng phái chính trị hay chính phủ ở thể chế chính trị nào, dù trực tiếp hay gián tiếp, dù thừa nhận hay không thừa nhận. Tuyên truyền mang nghĩa tốt hay xấu không do nội hàm khái niệm, mà hoàn toàn do mục đích của chủ thể sử dụng nó.
Nền báo chí của giai cấp vô sản mang bản chất cách mạng, công khai tuyên bố và thực hành chức năng tư tưởng, bên cạnh chức năng thông tin. Với chức năng này, theo quan điểm của Đảng ta, báo chí cách mạng Việt Nam vừa là diễn đàn của đông đảo nhân dân, vừa là công cụ, phương tiện quan trọng để tuyên truyền hệ tư tưởng của Đảng, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và làm cho hệ tư tưởng này trở thành chủ đạo, nền tảng tư tưởng trong đời sống tinh thần của xã hội. Báo chí tuyên truyền để tạo dựng niềm tin vững chắc vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng ta; bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, vì sự phát triển bền vững của đất nước và chấn hưng dân tộc; tự nguyện phục tùng, vì lợi ích chính đáng của đông đảo nhân dân lao động. Công tác tuyên truyền luôn đứng về phía tiến bộ, ủng hộ những nhân tố tích cực, làm cho các giá trị nhân văn, nhân bản lan tỏa trong xã hội, đồng thời đấu tranh không khoan nhượng với những thói hư, tật xấu trong xã hội, trong Đảng, nhất là với “giặc nội xâm” tham ô, tham nhũng; đấu tranh với các luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng...
Khi thực hành nhiệm vụ tuyên truyền, nền báo chí nước ta đặt lên hàng đầu tính chân thực, tính khách quan. Như V.I. Lê-nin khẳng định, tuyên truyền là đem chân lý đến cho người nghe. Và, đông đảo quần chúng nhân dân tin tưởng, đi theo những người cộng sản không phải vì những người cộng sản khéo nói, mà chính bởi người cộng sản nói đúng sự thật. V.I. Lê-nin đặc biệt nhấn mạnh tính thực tiễn, tính khách quan, xác thực của hoạt động tuyên truyền, đặc biệt phát hiện và lấy những sáng tạo của quần chúng nhân dân để thuyết phục nhân dân.
Trong khi đó, nhiều học giả và chính giới phương Tây vẫn thích chơi “lá bài hai mặt”. Một mặt, họ phê phán và đánh đồng tuyên truyền với sự giả dối, tha hóa, là sự “nhồi sọ thông tin”, cùng luận điệu tráo trở “chỉ có cộng sản mới sử dụng tuyên truyền” (?!); mặt khác, chính họ lại tung ra thứ ngụy tuyên truyền đó - tức tuyên truyền những luận điệu giả trá, lừa phỉnh để phục vụ cho các mưu đồ, thủ đoạn chính trị của mình.
Sống giữa trung tâm của thế giới phương Tây và nằm lòng những thủ thuật của nền chính trị tư bản, Giáo sư nổi tiếng tại Viện Công nghệ Ma-xơ-chu-xét (MIT) của Mỹ, Nô-am Chôm-xki (Noam Chomsky), người được tờ New York Times gọi là “nhà trí thức quan trọng nhất hiện đang còn sống”, trong các cuốn “Tham vọng bá quyền” và “Nhận diện quyền lực” (đã được dịch ra tiếng Việt), cho rằng, truyền thông đại chúng phương Tây bị thiên kiến nặng nề và luôn đứng về phía các thiết chế quyền lực đương thời. Ròng rã hơn một thế kỷ vừa qua, “tuyên truyền” trở thành một “kỹ nghệ có tổ chức” ở nhiều nước phương Tây. Giáo sư N. Chôm-xki cho biết, ngay từ Chiến tranh thế giới thứ nhất, nước Anh đã tổ chức cơ quan cấp bộ đầu tiên điều phối công việc tuyên truyền là Bộ Thông tin; tiếp đó, cơ quan tuyên truyền đầu tiên của Chính phủ Mỹ là Ủy ban Thông tin công cộng cũng được thành lập... Nhiều cơ quan kiểu này có nhiệm vụ “kiểm soát đầu óc của dân chúng”, lừa phỉnh công luận để “chế tạo ra tâm trạng đồng tình” và sẵn sàng bán rẻ, chà đạp lên lợi ích của đông đảo người dân để bảo vệ lợi ích cho một nhóm nhỏ các nhà tư bản. Việc ngụy tuyên truyền trên được hà hơi, tiếp sức bởi “các thế lực tài phiệt tư nhân - tức là các hệ thống công ty - đóng vai trò kiểm soát dư luận và thái độ của quần chúng. Những công ty này không nhận lệnh của chính phủ nhưng liên hệ chặt chẽ với chính phủ”(1).
Hiện nay, dù rằng về danh nghĩa, tại nhiều nước phương Tây, báo chí không thuộc chính phủ hay các đảng phái chính trị, song trên thực tế, giai cấp tư sản tiếp tục tìm mọi cách chi phối hoạt động báo chí, chủ yếu bằng quyền lực chính trị và sức mạnh của đồng tiền, sử dụng báo chí hiện đại như bộ máy trung gian để củng cố địa vị cầm quyền của giai cấp tư sản và là “cỗ máy” dọn đường dư luận cho việc thực hiện những âm mưu chính trị, điển hình như việc một số tập đoàn truyền thông phương Tây sẵn sàng “đổi trắng thay đen” bịa đặt thông tin hay thông tin không hề được kiểm chứng về tình hình một số nước tại Trung Đông, trong suốt vài thập niên trở lại đây, đi ngược lại nguyên tắc tối thiểu về tính chân thực, khách quan của báo chí, tạo cớ để một số cường quốc bất chấp luật pháp quốc tế trắng trợn tấn công những nước có chủ quyền, bản chất là phục vụ cho dã tâm bá quyền và âm mưu “đổi máu lấy dầu” nhằm thu những món hời khổng lồ từ việc kiểm soát nguồn dầu mỏ ở Trung Đông và buôn bán vũ khí, của giới chính trị chóp bu và tài phiệt kếch sù phương Tây...
Nhà nghiên cứu truyền thông hàng đầu của Mỹ là Rô-be Mac Che-xnây (Robert W. McChesney) phải thốt lên rằng: “Báo chí của chúng ta (Mỹ - tác giả) đang trở thành thiên đường cho những kẻ lừa dối, ở đó, giá của sự xuyên tạc, bóp méo đã xuống quá thấp”(2).
Cùng với các phương tiện truyền thông đại chúng truyền thống như báo chí..., các phương tiện truyền thông mới (New media), trong đó có các phương tiện truyền thông xã hội (Social media), hiện cũng được chính giới phương Tây triệt để lợi dụng để củng cố quyền lực chính trị và thúc đẩy đấu tranh ý thức hệ, trong kỷ nguyên số. Bước chuyển đầy toan tính này càng cho thấy, các phương tiện truyền thông xã hội không thuần túy là vật trung gian công nghệ và giao tiếp cá nhân chỉ mang bản chất vật lý kỹ thuật và bản chất xã hội (kết nối xã hội) như phát ngôn ru ngủ công luận của chủ các hãng công nghệ hàng đầu thế giới và nhiều chính trị gia phương Tây, mà ngày càng hội đủ và bộc lộ rõ bản chất thông tin, bản chất kinh tế... và nhất là bản chất chính trị.
“Cơn ác mộng” về chính trị tại các nước ở khu vực Bắc Phi, Trung Đông trong các năm 2010 - 2011 là điển hình cho việc các phương tiện truyền thông xã hội trở thành công cụ chính trị đắc lực ra sao, khi dưới sự hậu thuẫn của một số nước phương Tây, lần đầu tiên, các nhóm xã hội đối lập thuộc nhiều thành phần xã hội, chính trị khác nhau và các thành viên của tổ chức “Huynh đệ Hồi giáo” phối hợp hoạt động, tập hợp hàng triệu người ủng hộ thông qua các trang mạng xã hội và điện thoại di động để tiến hành biểu tình, mượn danh nghĩa chống tham nhũng và sự đàn áp dân chủ, để lật đổ các chính phủ đương nhiệm. Mới đây, vụ việc Facebook, mạng xã hội lớn nhất thế giới, bị cáo buộc làm lộ lọt thông tin cá nhân, để Cambridge Analytica, công ty phân tích dữ liệu chính trị, tiếp cận trái phép và “đầu độc thông tin chính trị” tới 87 triệu người dùng, mục đích tác động làm thay đổi kết quả cuộc tranh cử Tổng thống Mỹ năm 2016, cũng cho thấy sự tham gia những thương vụ chính trị hết sức tinh vi của các tập đoàn truyền thông xã hội, một cách chủ động hay bị dắt dây bởi các thế lực chính trị, đi ngược lại hoàn toàn tuyên bố về tính khách quan tuyệt đối và bảo mật thông tin của Facebook, vốn luôn khẳng định mình đơn thuần chỉ là hãng công nghệ thuần túy (?!).
Những minh chứng trên chỉ là số ít trong rất nhiều thủ đoạn chính trị mà chính giới phương Tây đã sử dụng để điều khiển, chi phối, khống chế hệ thống báo chí truyền thống và các phương tiện truyền thông xã hội, một cách vừa tinh vi, vừa trắng trợn, không chỉ ở quy mô một quốc gia, mà còn trên quy mô toàn cầu; không chỉ tự ra tay, mà còn “tá đao sát nhân”, o bế và dung túng các thế lực tay sai để can thiệp thô bạo vào an ninh và công việc nội bộ của nước khác, nhất là các quốc gia có sự khác biệt về ý thức hệ.
Lật tẩy “con át chủ bài” các phương tiện truyền thông xã hội và những chiêu trò ngụy tuyên truyền về chống tham nhũng
Các phương tiện truyền thông xã hội là các công cụ, ứng dụng giao tiếp đại chúng dựa vào không gian trực tuyến trên nền tảng in-tơ-nét và các công nghệ truyền thông hiện đại khác nhằm chuyển tải thông tin, kết nối mọi người với tốc độ truyền dẫn, lan tỏa nhanh chóng, trên diện rộng, cùng tính tương tác cao, sự chủ động của người dùng, hình thành nên các mối quan hệ xã hội, cộng đồng tương tác xã hội đa dạng, có tác động sâu rộng vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và đời sống cá nhân của người dùng. Các phương tiện truyền thông xã hội rất đa dạng, bao gồm nhiều loại hình, tính năng ứng dụng, như Mạng xã hội (Social network): Facebook, MySpace, Google+, Zing.Me...; trang chia sẻ link và tin tức xã hội (Social bookmarking và Social news): Delicious, Digg, Reddit, Loantin...; trang chia sẻ hình ảnh, video (Social sharing): YouTube, Instagram, Flickr, Clip.vn...; các tiểu blog hay blog vi mô (Microblogging): Twitter, Friendfeed, Tumblr, Me2day...; diễn đàn (Forums): Sitepoint.com, startups.co.uk, webtretho, Otofun...; dịch vụ thoại, nhắn tin trên nền in-tơ-nét (OTT): Viber, Zalo, WeChat, Facebook Messenger...; phương tiện tìm kiếm xã hội và tìm kiếm tri thức (Social search and Social knowledge): Bing, Wikiedia, Wikia, Yahoo Ask...; thực tế ảo và trò chơi tương tác cộng đồng (Virtual reality và Social game): PlayStation VR, Augmented Reality, Rise of the Kings, “Trang trại @”...; mạng xã hội âm nhạc (Social music sites): Pandora, 8Tracks, Nhacso.net..., trong đó mạng xã hội có diện phủ rộng nhất.
Không thể phủ nhận, các phương tiện truyền thông xã hội là một thành tựu vĩ đại của nhân loại, mang đến nguồn tài nguyên thông tin - tri thức vô hạn, những tiện ích trong kết nối - giao tiếp xã hội chưa bao giờ có trước đây. Nếu được sử dụng vào những mục đích tích cực, thì chúng sẽ tạo nên những giá trị vô cùng to lớn. Tuy nhiên, với sự tham gia đa dạng của người dùng, trong môi trường khó kiểm soát, các phương tiện này cũng là “con dao hai lưỡi”, khi những tác động nghịch rất dễ xảy ra, tạo nên nhiều hệ lụy tiêu cực tới đời sống chính trị - xã hội, thậm chí khôn lường, nhất là với một quốc gia có số lượng người dùng in-tơ-nét gắn với các phương tiện truyền thông xã hội cao hàng đầu thế giới như Việt Nam (tính đến ngày 30-6-2017, Việt Nam có 64 triệu người sử dụng in-tơ-nét, đứng thứ 12 trên thế giới).
Chiếm lĩnh môi trường không gian mạng, thông qua các phương tiện truyền thông xã hội để ngụy tuyên truyền nhằm chống phá, tạo bất đồng, xung đột về tư tưởng trong nội bộ Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội, trong xã hội và nhân dân, từ đó kích động biểu tình, chống đối, bạo loạn, khủng bố, lật đổ... là âm mưu, thủ đoạn mới đầy nham hiểm của các thế lực thù địch. Trong kỷ nguyên số, môi trường mạng đang ngày càng trở thành mặt trận chính trong cuộc đấu tranh ý thức hệ.
Trong “ván bài chính trị” chống phá ta, các thế lực thù địch sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội như một “con át chủ bài” và thông qua đó, chúng xảo quyệt tập trung ngụy tuyên truyền về tham nhũng, vốn là vấn đề xã hội hết sức nhức nhối; vấn đề nhạy cảm gắn liền với sự tha hóa về quyền lực chính trị, từ đó dễ dàng bôi đen, thổi phồng các khuyết điểm, xuyên tạc về Đảng, Nhà nước ta, âm mưu chuyển hóa từ tuyên truyền về chống tham nhũng sang kích động chống phá về chính trị. Chúng không từ bất cứ thủ đoạn nào để tung hỏa mù, bủa vây không gian mạng hòng gây nhiễu thông tin bằng những màn lừa bịp tráo trở, biến hóa khó lường, song tập trung nhất vẫn là xuyên tạc, khoét sâu một số nội dung chủ yếu sau:
Một là, trên không gian mạng, các thế lực thù địch xảo biện và quy chụp tham nhũng chỉ tồn tại và “nở rộ” ở chế độ một đảng cầm quyền như tại Việt Nam. Chúng cho rằng, đây là vấn đề thuộc về “bản chất thể chế”, không thể thay đổi được hoặc dù tham nhũng có ở các thể chế chính trị khác, nhưng nghiêm trọng hơn ở chế độ một đảng. Rằng, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiệu quả thấp do thiếu vắng sự kiềm chế và đối trọng giữa các nhánh quyền lực như cơ chế “tam quyền phân lập” (?!).
Sự thật là, tham nhũng là khuyết tật “bẩm sinh” của quyền lực, một hiện tượng xã hội gắn liền với sự xuất hiện chế độ tư hữu, sự hình thành giai cấp và sự ra đời, phát triển của nhà nước. Nó là căn bệnh đồng hành và tồn tại ở mọi nhà nước, không phân biệt chế độ chính trị. Khi còn nhà nước và quyền lực chính trị thì tất yếu còn tham nhũng. Thể chế chính trị khác hay giống nhau không thể là lằn ranh ngăn cản sự xuất hiện của tham nhũng hay quyết định tham nhũng nhiều hay ít.
Đặc biệt, tham nhũng xuất hiện và tồn tại được nhờ môi sinh là chế độ tư hữu. Trong khi đó, chế độ tư bản chủ nghĩa được xây dựng trên nền tảng của chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Do đó, từ trong bản chất của nó, chế độ chiếm hữu tư bản tư nhân về tư liệu sản xuất là môi trường lý tưởng hơn hết để tham nhũng xuất hiện và phát triển. C. Mác viết, chế độ tư hữu khiến cho con người bị tha hóa (tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844) và ở đó, giai cấp tư sản với “lòng tham vô đáy” công nhiên tư lợi, biến mọi mối quan hệ giữa người với người trong xã hội tư bản thành một mối quan hệ duy nhất là lợi ích trần trụi và lối “tiền trao cháo múc” (tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản), nơi nhà tư bản sẵn sàng chà đạp lên mọi thứ, thậm chí không còn tội ác nào là nó không dám phạm (tác phẩm Tư bản). Ngày nay, thực tiễn chính trường và xã hội tư bản vẫn đầy rẫy những vụ, việc tham nhũng đình đám, không khó để điểm mặt chỉ tên những vụ, việc này ở Mỹ, Anh, Pháp, Đức..., dù chúng biến tướng ngày càng phức tạp, được chính giới và tài phiệt tư bản cấu kết che đậy hết sức tinh vi. Tham nhũng là “khối u ác tính” không thể cắt bỏ trong xã hội tư bản và nó đẩy các mâu thuẫn bản chất không thể hóa giải trong xã hội tư bản lên càng cao, dù rằng nhà nước tư bản có gắng gượng cải tổ đến đâu. Sự thực nhãn tiền đó khiến cho những kẻ vẫn lu loa luận điệu rằng, chỉ ở chế độ chính trị một đảng mới có tham nhũng, trở nên hết sức lố bịch! Càng lố bịch hơn khi họ lớn tiếng ca ngợi sự mẫu mực của các nước tư bản trong chống tham nhũng và cho rằng, chỉ nhà nước pháp quyền tư bản và cơ chế “tam quyền phân lập” mới chống tham nhũng hiệu quả từ gốc hay thể chế dân chủ tư sản đã là một cơ chế tự thân để phòng và chống tham nhũng. Và rằng, hoàn toàn có thể tích hợp cơ chế “tam quyền phân lập” trong chế độ xã hội chủ nghĩa (?!)...
Tại Hàn Quốc, đất nước tiêu biểu cho chế độ đa đảng và “tam quyền phân lập”, tình trạng tham nhũng hiện nay vẫn diễn ra hết sức nhức nhối. Theo Ủy ban Phòng, chống tham nhũng và Quyền công dân Hàn Quốc (ACRC), trong vòng 10 năm (từ năm 2008 đến 2017), ACRC đã tiếp nhận tới 32.306 tố cáo tham nhũng, chuyển cơ quan điều tra, thẩm tra 1.615 vụ. Tháng 3-2017, bà Park Geun Hye trở thành Tổng thống dân cử đầu tiên của Hàn Quốc bị phế truất vì cáo buộc tham nhũng 55,2 triệu USD liên quan tới các tập đoàn kinh tế hàng đầu của nước này, như Samsung, Lotte... và đang phải thụ mức án 24 năm tù. Rõ ràng, cơ chế “tam quyền phân lập” không phải là phương thuốc thần diệu kiểm soát quyền lực và chống tham nhũng được triệt để!
Cuộc đấu tranh chống tham nhũng hiện nay đã trở thành một trong những vấn đề toàn cầu. Sự tham khảo kinh nghiệm chống tham nhũng giữa các quốc gia và xây dựng cơ chế phối hợp chống tham nhũng ở tầm quốc tế là hết sức cần thiết, trên cơ sở sự vận dụng sáng tạo, linh hoạt, phù hợp với điều kiện và thể chế chính trị từng nước. Tuy nhiên, trong mỗi chế độ nhà nước khác nhau, thì tính chất, mức độ và cách xử lý với tham nhũng cũng khác nhau, phụ thuộc vào bản chất giai cấp, phương thức tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, vào năng lực đạo đức của đội ngũ công chức của nhà nước đó. Việc tham khảo, tiếp thu về kinh nghiệm chống tham nhũng không hề đồng nghĩa phải bê nguyên xi hay áp dụng cả hệ thống chính trị của quốc gia khác.
Rõ ràng, mớ xảo biện hổ lốn ngụy tuyên truyền trên của các thế lực thù địch chẳng có gì khác ngoài chiêu trò lợi dụng và mượn “con bài” chống tham nhũng để chuyển sang chống phá về tư tưởng và chính trị!
Đảng ta lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với hệ thống pháp luật ngày càng hoàn bị để phòng, chống tham nhũng hiệu quả, với những bước đi chắc chắn, bài bản và lâu dài. Chúng ta tiếp thu tinh hoa của văn minh nhân loại - các chế định pháp lý được thừa nhận chung của cộng đồng quốc tế, như tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, sự tôn trọng và bảo vệ các quyền con người, tính tối cao của pháp luật trong hoạt động của nhà nước và trong điều chỉnh các quan hệ xã hội, sự kiểm soát quyền lực... Tuy nhiên, trong việc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, chúng ta không chấp nhận “tam quyền phân lập” gắn với chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Trái lại, ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, có sự hài hòa hóa nguyên tắc tập quyền và phân công, phân cấp, vừa tập trung quyền lực để quyết định và thực thi quyền lực nhà nước nhanh chóng, thống nhất, vừa có sự kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước ngày càng chặt chẽ hơn, hạn chế sự lạm quyền và tha hóa quyền lực. Dùng kỷ luật đảng, sức mạnh của pháp chế xã hội chủ nghĩa kết hợp với sự giám sát xã hội, phản biện xã hội và sức mạnh của dư luận rộng rãi để đấu tranh chống tham nhũng.
Nhà nước ngày càng tiến hóa và văn minh hơn nên cơ chế phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh với tham nhũng ngày càng hiệu quả hơn. Sự ra đời của nhà nước pháp quyền chính là thành quả của văn minh hóa tổ chức và hoạt động của nhà nước, chống sự tha hóa quyền lực nhà nước và là một phương thức quan trọng chống nạn tham nhũng. Tuy vậy, nhà nước pháp quyền cũng có những thất bại của nó, cho nên không thể ảo tưởng rằng chỉ xây dựng nhà nước pháp quyền thì tự nhiên tham nhũng bị đẩy lùi hay xóa bỏ.
Đương nhiên, tham nhũng không phải là một hiện tượng tất yếu, mang tính vĩnh cửu, tồn tại và phát triển cùng với xã hội loài người. Nhà nước chỉ ra đời và tồn tại ở một giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội. C. Mác cho rằng, đích cuối của lịch sử nhân loại là chủ nghĩa cộng sản, cùng với sự thiết lập xã hội không giai cấp, nhà nước “tự tiêu vong”, theo đó là sự tiêu vong của tham nhũng. Đó là lý tưởng cao đẹp chủ nghĩa cộng sản hướng đến. Tuy nhiên, thực tiễn xây dựng xã hội mới theo lý tưởng cộng sản, phải trải qua những bước quá độ, nhất là trong điều kiện phải sử dụng một số yếu tố tư bản chủ nghĩa để xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ, nên tất yếu khiến cho quá trình khắc phục hiện tượng tham nhũng còn là một cuộc đấu tranh hết sức lâu dài, cam go, phức tạp.
Hai là, các thế lực thù địch xuyên tạc trên các phương tiện truyền thông xã hội rằng, cuộc chiến chống tham nhũng ở Việt Nam thực chất chỉ là cuộc thanh trừng, đấu đá nội bộ giữa các phe nhóm tranh giành lợi ích, là chính “ta đánh ta”. Chúng vu cáo Đảng ta chống tham nhũng vượt trên pháp luật; kích động sự trừng phạt, trừng trị, chúng cố tình lấp liếm đi tính nhân văn trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.
Sự thật là, chống tham nhũng là công việc được Đảng ta coi trọng và thực hiện thường xuyên, nhất là từ khi Đảng trở thành đảng cầm quyền. Trong điều kiện một đảng cầm quyền, không có đảng đối lập, không có nghĩa Đảng có thể tự bằng lòng, chủ quan, duy ý chí, chuyên quyền, độc đoán, không có khả năng nhận ra và sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm của mình... Ngược lại, chiến thắng chính bản thân mình bao giờ cũng là cuộc chiến khó khăn nhất! Và, một đảng “ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”(3), nên Đảng ta thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn chính mình, đặc biệt tránh tha hóa về quyền lực bởi quan liêu, tham nhũng - một trong bốn nguy cơ ảnh hưởng tới sự tồn vong của chế độ. Nếu dung túng những cán bộ, đảng viên, dù là cán bộ cấp cao, nhưng suy thoái về đạo đức, biến chất, tham ô, tham nhũng thì sẽ làm Đảng suy yếu từ bên trong, làm xói mòn lòng tin của nhân dân. Năm 1950, khi chuẩn y tử hình Đại tá Trần Dụ Châu, Cục trưởng Cục Quân nhu, do biển thủ, ăn chặn của công, dù hết sức đau xót, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Một cái ung nhọt, dẫu có đau cũng phải cắt bỏ, không để nó lây lan, nguy hiểm”. Do đó, Đảng ta chống tham nhũng là để thanh lọc, sàng lọc cán bộ, làm trong sạch bộ máy, góp phần giữ sự xác tín chính trị, tính chính đáng và xứng đáng với vai trò lãnh đạo và địa vị cầm quyền của mình, tuyệt nhiên không phải là “thanh trừng nội bộ”, càng không phải là “cuộc đấu đá phe phái”, như luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Mặt khác, Đảng ta là một khối thống nhất ý chí và hành động. Hệ thống chính trị ở nước ta mang bản chất thống nhất không có đối trọng, đặt dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng - đại biểu trung thành cho ý chí và lợi ích thống nhất của giai cấp công nhân và của cả dân tộc. Đảng lãnh đạo Nhà nước để bảo đảm nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi quyết sách của Đảng, trong đó có việc chống tham nhũng, đều vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Càng tuyệt nhiên không có các “phe nhóm” hay “phe phái” bên trong, bên ngoài Đảng hay trong hệ thống chính trị của ta, có lợi ích khác đối trọng, kìm hãm, phong tỏa hay cạnh tranh lẫn nhau, làm xé lẻ hay phân rã quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, từ đó loại trừ hoàn toàn nguy cơ xung đột cấu trúc (structural conflict) cố hữu như ở các nước tư bản. Do đó, luận điệu cho rằng, tham nhũng là “chất xúc tác” làm xung đột giữa các phe phái, làm đảo lộn trật tự quyền lực và chống tham nhũng chỉ vì lợi ích của riêng Đảng, chặn xu hướng ly khai khỏi quyền lực hệ thống, quyền lực trung tâm của Đảng, là hoàn toàn phi lý và vô căn cứ, chỉ là sản phẩm của “trí tưởng tượng phong phú” của những kẻ mang thâm thù với chế độ xã hội chủ nghĩa.
Đồng thời, mọi hành vi tham nhũng đều phải được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh, công bằng, khách quan theo tinh thần thượng tôn pháp luật. Kỷ luật của Đảng phải nghiêm hơn pháp luật, nhưng kỷ luật của Đảng không thay thế kỷ luật hành chính, kỷ luật đoàn thể và các hình thức xử lý của pháp luật. Quan điểm lấy kỷ luật đảng thay pháp luật là sự sai lệch và làm tổn thương uy tín của Đảng. “Bất cứ ai cũng không có quyền lực tuyệt đối ngoài pháp luật, bất kỳ ai sử dụng quyền lực đều phải phục vụ nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân và tự giác chịu sự giám sát của nhân dân”, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh tại Hội nghị toàn quốc về công tác phòng, chống tham nhũng được tổ chức vào ngày 25-6-2018. Do đó, không thể có các quy định chống tham nhũng của Đảng đứng trên pháp luật, “có sự can thiệp chính trị”, “xử ép” hay “vi phạm nhân quyền”, “vi hiến” và càng không thể mượn cớ chống tham nhũng để xảo biện phải có cái gọi là “luật về đảng”(?!), vì mọi hoạt động của các tổ chức đảng, đảng viên và vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với Nhà nước và xã hội đều đã được quy định tại Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - đạo luật gốc có hiệu lực pháp lý tối cao.
Ở góc độ khác, công tác kiểm tra, giám sát, phát hiện tiêu cực, tham nhũng là “thanh bảo kiếm” giữ nghiêm kỷ luật đảng, vừa thể hiện tính nghiêm minh và tự giác cao độ, vừa thể hiện tính dân chủ, nhân đạo sâu sắc. Nó không phải chỉ cốt “vạch lá tìm sâu”, “bới lông tìm vết”, truy tìm bằng được khuyết điểm, sai lầm để xử phạt, trừng trị, mà là “trị bệnh cứu người”, lấy xây dựng và cải tạo để chủ động phòng ngừa, cảnh tỉnh, răn đe, ngăn chặn, uốn nắn, giáo dục, sửa chữa, khơi dậy sự tự giác là chính. “Thà chặt một cành sâu để cho cây xanh tốt”, như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh, xử lý một người để cứu muôn người, nên công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng ta thể hiện bản chất nhân văn cao độ.
Ba là, các thế lực thù địch tung thông tin trên không gian mạng hòng lung lạc niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng ta, với những rêu rao rằng, chống tham nhũng ở nước ta như “con thuyền không bến”, là “cuộc chiến nửa vời”, vẫn còn “nhiều vùng cấm”; và rằng, càng kỷ luật, xử lý nhiều cán bộ tham nhũng thì càng làm nhụt đi ý chí của đội ngũ cán bộ, đảng viên, cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thủ đoạn này nhằm cố tình bôi đen, phủ nhận những kết quả hết sức tích cực, mang tính bước ngoặt từ công cuộc phòng, chống tham nhũng của Đảng ta vừa qua, reo rắc tâm trạng hoài nghi, bi quan, nhất là sự thiếu tin tưởng trong dư luận xã hội, âm mưu chặt đứt cơ sở quan trọng bậc nhất để cuộc đấu tranh chống tham nhũng thành công, đó là niềm tin, sự ủng hộ và cùng vào cuộc của đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Người xưa có nói: “Giặc ngoài dễ chống, giặc trong khó phòng”. Chống tham nhũng là công việc khó khăn muôn phần vì đụng chạm tới lợi ích, đến quyền lực, có sự câu kết, tiếp tay, che đậy hết sức tinh vi, phức tạp. Phải thẳng thắn nhìn nhận, có những giai đoạn, chúng ta chống tham nhũng chưa như mong muốn, hiệu quả còn thấp. Nhưng, với quyết tâm chính trị cao, chưa khi nào, công cuộc phòng, chống tham nhũng ở nước ta được thực hiện ráo riết, quyết liệt như hiện nay. Chống tham nhũng không có “vùng cấm”, không có đặc quyền, không có ngoại lệ, bất luận là ai, kể cả những người bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng hay can thiệp, ngăn cản việc chống tham nhũng. Chúng ta tiến hành chống tham nhũng toàn diện, gắn liền với tăng cường chỉnh đốn Đảng, đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán và đã xử lý nhiều cán bộ cao cấp, tổ chức đảng vi phạm, trong đó có cả các đồng chí là Ủy viên Trung ương Đảng; kỷ luật cả cán bộ đương chức và đã nghỉ hưu, cả trong lực lượng vũ trang; làm nghiêm từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài... Lần đầu trong lịch sử tố tụng Việt Nam, một người từng là Ủy viên Bộ Chính trị đã bị cơ quan tiến hành tố tụng truy tố và đưa ra xét xử về tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Đây là việc chưa từng có trước đây. Sau hơn 2 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 35.000 đảng viên vi phạm, trong đó có gần 1.300 đảng viên bị thi hành kỷ luật do tham nhũng, cố ý làm trái; số vụ án lớn được đưa ra xử lý, số cán bộ trung, cao cấp bị xử lý trong 2 năm vừa qua nhiều gấp 3 lần trong 20 năm trước đó; số tiền thu lại được trong 2 năm qua nhiều gấp 40 lần trong 20 năm trước đó. Đây là những con số, minh chứng cho thấy Đảng ta “quyết tâm làm đến cùng”(4) trong cuộc chiến chống tham nhũng, đập tan những luận điệu xuyên tạc rằng ta làm “nửa vời” hay “vẫn còn vùng cấm”.
Chống tham nhũng cũng không hề làm thối chí hay rã đám tinh thần như luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Ngược lại, cuộc đấu tranh chống “giặc nội xâm” đang được Đảng ta đẩy mạnh, vì lương tâm và trách nhiệm trước vận mệnh dân tộc, vì lợi ích của nhân dân, vì sự trong sạch và thanh danh của Đảng, đang thực sự truyền cảm hứng mạnh mẽ và làm nức lòng cán bộ, đảng viên, nhân dân. Khi những tiêu cực bị đẩy lùi, chính nghĩa và sự thanh liêm được bảo vệ, sẽ thực sự dấy lên niềm tin và khí thế mới trong cả hệ thống chính trị, chuyển biến thành những kết quả tích cực trong công tác xây dựng Đảng và những tín hiệu tích cực của nền kinh tế đất nước. GDP 6 tháng đầu năm 2018 tăng 7,08%, cao nhất từ 7 năm qua... Chống tham nhũng đang thực sự là một động lực mới cho sự phát triển của đất nước.
Rõ ràng, cam kết danh dự và quyết tâm chính trị mạnh mẽ của Đảng ta, cùng những kết quả phòng, chống tham nhũng quan trọng đạt được trong thực tiễn tự nó là những minh chứng sống động và đầy sức thuyết phục đanh thép bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, ngụy tuyên truyền của các thế lực thù địch về phòng, chống tham nhũng trên các phương tiện truyền thông xã hội./
Kỳ 2 của bài viết đăng trên Tạp chí Cộng sản số tháng 10-2018 (số 912) đề xuất hệ giải pháp đồng bộ, trong đó tập trung vào giải pháp phản tuyên truyền về nội dung, xây dựng lực lượng “tác chiến” tuyên truyền, cơ chế phối hợp giữa các “binh chủng” thông tin của ta, giải pháp về kỹ thuật, điều chỉnh môi trường pháp lý, đạo đức và văn hóa trên không gian mạng...
... Ngoài những nội dung ngụy tuyên truyền trên (xem kỳ 1 - tác giả), các thế lực thù địch còn xuyên tạc, vu cáo, bôi nhọ, bịa đặt lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước ta tham nhũng; quy kết tham nhũng ở nước ta là do bản chất chế độ sở hữu toàn dân; gây tâm lý nghi ngại về tính khả thi, chất lượng và hiệu lực thi hành của Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi) sắp được Quốc hội thông qua; bịa đặt chống tham nhũng ở Việt Nam chính là “vạch áo cho người xem lưng”, càng chống càng làm lộ rõ tình trạng tham nhũng và các nhóm lợi ích cấu kết thành các hệ thống siêu quyền lực (?!)...
Để bủa vây thông tin, nhân lên gấp bội tốc độ, mở rộng không gian việc khuếch tán những nội dung ngụy tuyên truyền trên, các thế lực thù địch sử dụng nhiều cách thức, thủ đoạn trên không gian mạng, trong đó nổi bật là lợi dụng triệt để chính những đặc điểm, trong đó có nhiều đặc tính vốn là ưu thế nổi trội, của các phương tiện truyền thông xã hội, biến chúng thành công cụ đắc lực chống phá trên mặt trận tư tưởng, gây nhiều hệ lụy tiêu cực hơn so với cách thức chống phá trước đây trên các phương tiện truyền thông, báo chí truyền thống.
Thứ nhất, chúng lợi dụng đặc điểm về cơ chế đa giao tiếp và liên kết vô hướng của các phương tiện truyền thông xã hội. Khác với tác động của các phương tiện truyền thông truyền thống theo trật tự tuyến tính, các phương tiện truyền thông xã hội có cơ chế đa giao tiếp. Nền tảng công nghệ hiện nay cho phép quá trình truyền thông giữa một số chủ thể ban đầu sẽ ngay lập tức theo cấp số nhân tạo thành quá trình giao tiếp của vô vàn chủ thể truyền thông khác; đồng thời, thông tin lan tỏa đa chiều, đa tầng, khó định vị được hướng phát tán khi đã ra khỏi nguồn, tạo nên đặc tính liên kết vô hướng, từ đó hình thành những mối quan hệ xã hội hết sức đa dạng, chằng chịt, phức tạp, tạo khái niệm mới về tính siêu liên kết xã hội của các phương tiện truyền thông xã hội. Đây đều là những đặc điểm mà các phương tiện truyền thông, báo chí truyền thống không có.
Lợi dụng đặc tính về liên kết vô hướng và siêu liên kết xã hội, các thế lực thù địch khuếch tán với tốc độ vô cùng nhanh chóng tới đông đảo người dùng các phương tiện truyền thông xã hội những thông tin bẩn, xấu độc về chống tham nhũng, hòng lấy số đông áp đảo thông tin chính thống, âm mưu thao túng, chiếm thế thượng phong ở các mức độ, thời điểm khác nhau trên không gian mạng. Hiện nay, các tổ chức truyền thông đầu sỏ chống phá ta, như RFI (đài phát thanh quốc tế - Pháp) đều có các phiên bản trên Facebook, Twitter, Google+, Instagram, Dailymotion, YouTube, Soundcloud - nội dung được truyền tải bằng 14 ngôn ngữ, với 34,5 triệu thính giả mỗi tuần và hàng triệu độc giả truy cập hằng tháng vào các phương tiện truyền thông xã xội trên; RFA (đài phát thanh quốc tế Hoa Kỳ) có các phiên bản trên Blog, Facebook, Twitter, Google+, Wordpress với hơn 10 ngôn ngữ; VOA (đài tiếng nói Hoa Kỳ) có các phiên bản trên Facebook, Twitter, Google+, Instagram, YouTube, Soundcloud, Podcast... Họ thậm chí đầu tư thiết kế riêng các phần mềm (như RFA app, VOA app...) để người nghe, người xem có thể tải xuống, cập nhật tự động, thường xuyên những thông tin mới nhất bằng điện thoại di động và các thiết bị cầm tay; tiếp tay cho các đối tượng phản động chính trị cộm cán nhân danh các bloggers “phản biện dân chủ”, bằng cách có riêng các trang điểm tin tổng hợp về blog (như RFA blog) hoặc dành không gian riêng, tạo đường link liên kết tích hợp trên web chính cho các đối tượng này, cũng như hàng chục các diễn đàn phản động khác; hướng dẫn rộng rãi cách “vượt tường lửa” để phát tán các thông tin bẩn, xấu độc vào Việt Nam. Một số tổ chức phản động, khủng bố lưu vong, như Việt Tân, không chỉ sử dụng cái gọi là cơ quan tuyên truyền truyền thống, như báo “Kháng chiến”; đài “Việt Nam kháng chiến”, “Chân trời mới” như cũ, mà còn đẩy mạnh sử dụng các ứng dụng truyền thông xã hội, như Facebook, Twitter, Google+, Blog, Viettan app để liên tục cập nhật và phát tán thông tin phản động, trong đó có những thông tin xuyên tạc về chống tham nhũng. Các thông tin phản động từ bên ngoài được hệ thống chân rết của chúng ở trong nước tiếp tay, “nội công, ngoại kích”, hình thành những mạng lưới thông tin dầy đặc để hướng lái dư luận theo ý đồ của chúng.
Cũng lợi dụng khả năng kết nối xã hội nhanh chóng, chúng tập hợp lực lượng trên môi trường in-tơ-nét, tạo hiệu ứng và phản ứng đám đông, thậm chí có thể tập dượt vũ trang ảo trên môi trường mạng trước khi hiện thực hóa trong thực tiễn, bằng biểu tình, gây rối, chống phá, khủng bố, nhất là sử dụng các mạng xã hội (đặc biệt là Facebook), các forum, trang chia sẻ hình ảnh, video (đặc biệt là YouTube), các tiểu blog (đặc biệt là Twitter), ứng dụng OTT (như Zalo, Viber)...
Thứ hai, chúng lợi dụng môi trường tự do thông tin (tính mở) và thông tin khó kiểm soát, tính nặc danh và tính đa dạng của người dùng. Truyền thông xã hội thường gắn liền với các hoạt động truyền thông không chính thức trong một xã hội mở, cho phép dễ dàng chuyển tải bất kỳ thông tin nào lên cộng đồng mạng, bao gồm cả những thông tin chưa được kiểm chứng. Người dùng tự do bày tỏ quan điểm, thái độ, bình phẩm, nhận xét, chia sẻ về bất cứ vấn đề nào thích hoặc quan tâm. Môi trường tự do trên là sức hút của các phương tiện truyền thông xã hội, cũng chính là công cụ để các thế lực thù địch lợi dụng nhằm tự do reo rắc những thông tin xuyên tạc, phản động về chống tham nhũng. Chiêu trò mới là không chỉ vào hùa bình luận theo kiểu “kẻ tung người hứng” đối với các nội dung chống tham nhũng bịa đặt trên các web phản động, mà còn đồng loạt chia sẻ, bình luận (comment) với ý đồ kích động, ẩn ý xuyên tạc các báo điện tử chính thống, nhất là đối với những bài viết về các vấn đề đang là “điểm nóng”, nhạy cảm hay có những sơ hở, từ đó âm mưu điều khiển dư luận xã hội khi lợi dụng chính không gian báo chí của ta, nếu các cơ quan báo chí này không tỉnh táo, kiểm soát được các nội dung bài viết, bình luận. Các thông tin bẩn, xấu độc về chống tham nhũng trên các phương tiện truyền thông xã hội càng khó kiểm soát hơn khi người dùng hay máy chủ đặt ở nước ngoài, sử dụng các thuật toán ẩn địa chỉ IP, vượt “tường lửa”, thay đổi Proxy tinh vi.
Mặt khác, tính nặc danh cũng là một đặc trưng của các phương tiện truyền thông xã hội, cho phép người dùng có thể ẩn nhân thân hay giả danh. Đặc tính này vô hình trung tiếp tay cho những hành vi, thủ đoạn tiêu cực dễ dàng được thực hiện và nở rộ trên môi trường mạng. Nhiều người lợi dụng và nhân danh chống tham nhũng để ngụy tạo thành lập các hội, nhóm với những tên gọi mỹ miều trên không gian mạng, nhưng thực chất lại là những diễn đàn chống đối, như “hội nhân dân Việt Nam chống tham nhũng”, “hội chống tham nhũng”, “hội những người cầm bút can đảm”, “hội những người ghét bọn phản động và quan tham nhũng”... Người dùng các phương tiện truyền thông xã hội là một cộng đồng rất rộng lớn, đa dạng, nhưng cũng không đồng nhất về lợi ích, quan điểm chính trị... Lợi dụng điều này, các thế lực thù địch xảo quyệt dùng các phương tiện truyền thông xã hội để vừa tập hợp người dùng ngày càng đông đảo thuộc mọi tầng lớp, thành phần xã hội, vừa dễ dàng phân rẽ, ly khai những nhánh không còn phù hợp mà không ảnh hưởng tới toàn cục lực lượng.
Thứ ba, lợi dụng sự đồng đẳng giữa nguồn phát (source) và người nhận (receiver). Quá trình truyền thông truyền thống có sự thụ động khá cao của người nhận. Trong khi đó, truyền thông qua các phương tiện truyền thông xã hội, giữa nguồn phát và nhận có quan hệ, vai trò bình đẳng ngang nhau, thậm chí chuyển hóa lẫn nhau tức thời. Lợi dụng điều này, các thế lực thù địch cổ xúy tính “chủ động” và kêu gọi mọi người dùng đều trở thành những “phóng viên”, “nhà báo công dân”, nhà “bất đồng chính kiến”, “đấu tranh ôn hòa” trên các phương tiện truyền thông xã hội để lên tiếng đấu tranh chống tham nhũng (nhưng theo sự dẫn dắt, điều khiển thông tin của chúng), khuấy động các làn sóng công kích, phẫn nộ, biểu tình. Thực chất, đây là chiêu trò “mượn gió bẻ măng”, xúi giục phát tán những thông tin bịa đặt, vu cáo về cuộc chiến chống tham nhũng, tạo hiệu ứng “vết dầu loang” về truyền thông trên không gian mạng, âm mưu gây nên tình trạng khủng hoảng và hỗn loạn thông tin, tạo những hiệu ứng dư luận giả, thậm chí âm mưu quốc tế hóa những vấn đề nội bộ của Việt Nam, gây sức ép lớn lên các cơ quan chức năng của ta.
Nhiều tổ chức truyền thông đặt ở nước ngoài có riêng những hướng dẫn công chúng báo chí các kỹ năng sử dụng phương tiện truyền thông xã hội để trở thành “nhà báo công dân”, như RFA hướng dẫn cách áp dụng công cụ StoryMaker để công chúng tự thực hiện các bản tin và phóng sự... Trong vô vàn các “nhà báo công dân” đó, họ chiêu dụ, cung tiền, gây dựng những “ngọn cờ” nòng cốt, làm bút nô viết bài xuyên tạc, điên cuồng chống phá ta trên các phương tiện truyền thông xã hội, như Trương Duy Nhất, Nguyễn Văn Hải (Điếu Cày), Phạm Chí Dũng, Nguyễn Hữu Vinh (anh Ba Sàm), Nguyễn Vũ Bình,... Thay vì chỉ những bài viết thô tục, sặc mùi chợ búa trước đây, chúng còn chuyển sang khoác áo “trí thức cấp tiến” để viết bài xảo biện ngày càng tinh vi, lắt léo hơn, mượn danh nghĩa “phản biện khoa học”, thậm chí thành lập hẳn những tạp chí giả khoa học, dân chủ, như “Luật khoa Tạp chí” của Trịnh Hội, Phạm Đoan Trang, Trịnh Hữu Long - những đối tượng công khai chống đối ta, đứng đằng sau là Việt Tân, VOICE - để đánh lừa độc giả, tạo diễn đàn dụ dỗ cả những đối tượng bất mãn chính trị hay non nớt chính trị tham gia, nhất là nhắm vào những đối tượng thường dao động, nghiêng ngả lập trường. Những bài viết này được chúng ngụy trang bằng bày tỏ các “tư tưởng cấp tiến”, nhưng bản chất là lấy quan điểm, tiêu chuẩn phương Tây để phủ nhận, công kích thẳng vào hệ thống luật pháp và hệ tư tưởng của ta; cố tình bịa đặt hòng gây chia rẽ, mâu thuẫn giữa Việt Nam và các nước khác. Nguy hiểm hơn, mang mặt nạ trao đổi, dịch thuật khoa học, chúng còn sử dụng những trang web có các bài viết chứa nội dung chống phá ta được cài ẩn rất kín, thậm chí nhiều tờ báo của ta còn trích dẫn lại hay ngộ nhận ca ngợi. Các web này đều tích hợp mạng xã hội và fanpage trên Facebook để kết nối với độc giả và tăng khả năng tập hợp lực lượng ủng hộ. Những dẫn chứng trên cho thấy, sự chống phá trên các phương tiện truyền thông xã hội của các thế lực thù địch có thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức tạp.
Thứ tư, lợi dụng khả năng số hóa thông tin, tính đa phương tiện và đa tiện ích. Các thông tin giao tiếp trên các phương tiện truyền thông xã hội thường được số hóa và lưu trữ với dung lượng lớn. Thông tin có sự tích hợp đa phương tiện: văn bản ký tự truyền thống, hình ảnh, âm thanh, đồ họa..., dễ dàng được cắt xén, thêm bớt, chỉnh sửa nhờ các ứng dụng, phần mềm rất sẵn có. Việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội có thể thực hiện tại bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào khi thiết bị kết nối in-tơ-nét. Lợi dụng đặc điểm này, hiện nay, các thế lực thù địch ngụy tạo rất nhiều các sản phẩm truyền thông bẩn, độc về tham nhũng, phát tán với tần suất, cường độ rất lớn trên các phương tiện truyền thông xã hội, nhất là trên YouTube, Facebook, Google+, Blog, Wikipedia... Nhiều tổ chức, cá nhân phản động tạo hẳn các kênh riêng trên YouTube để chống phá; không ít nội dung trên trang tìm kiếm tri thức nổi tiếng Wikipedia núp bóng tự do học thuật để đưa ra thông tin thiếu khách quan, sai lệch, bày tỏ thái độ chính trị thiếu thiện chí với ta... Đặc biệt, chúng ngụy tạo bối cảnh, tình tiết giả và lợi dụng khả năng quay phát trực tiếp trên các phương tiện truyền thông xã hội (nhất là tính năng Livestream của Facebook) để truyền trực tiếp tới cộng đồng mạng nhằm “tăng tính thuyết phục” của những thông tin sai sự thật, gây tâm lý hoang mang, nhất là nhằm vào những địa bàn vốn đang là “điểm nóng”, có những xung đột nhất định giữa người dân và chính quyền, từ đó đẩy lên cao tâm trạng bất bình, đi liền với kích động các hành vi chống đối...
Đấu tranh chống các thủ đoạn ngụy tuyên truyền của các thế lực thù địch về phòng, chống tham nhũng
Trước sự chống phá ngày càng điên cuồng và tinh vi trên không gian mạng, các phương tiện truyền thông xã hội của các thế lực thù địch và những hậu quả khôn lường mà nó có thể gây ra, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII thẳng thắn đánh giá, chúng ta “chưa chủ động và thiếu giải pháp phù hợp để định hướng thông tin trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và công nghệ thông tin, mạng xã hội phát triển mạnh mẽ. Việc quản lý thông tin còn lỏng lẻo, thiếu giải pháp đủ mạnh để đấu tranh có hiệu quả với các thông tin sai lệch, phản bác lại những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội và bất mãn chính trị”(5). Do đó, hiện nay, công tác đấu tranh trên môi trường mạng cần được coi trọng đặc biệt, trong đó có đấu tranh phản bác những luận điệu ngụy tuyên truyền về tham nhũng, trên cơ sở một số quan điểm mang tính nguyên tắc sau:
Những ưu điểm và mặt trái của các phương tiện truyền thông xã hội luôn luôn tồn tại song hành, do đó công tác tuyên truyền phản bác các luận điệu ngụy tuyên truyền của các thế lực thù địch trên không gian mạng là cuộc đấu tranh thường xuyên, lâu dài, cần chủ động, có chiến lược bài bản, khoa học và phương pháp linh hoạt. Không cường điệu hóa, nhưng cũng không được chủ quan trước những tác động tiêu cực từ sự chống phá bằng các phương tiện truyền thông xã hội của các thế lực thù địch. Lấy việc tận dụng những ưu thế của các phương tiện truyền thông xã hội làm chủ đạo, thay vì phiến diện chỉ thấy các yếu tố tiêu cực, mặt trái của nó. Từ đó, sử dụng các phương tiện này để thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội của truyền thông đại chúng trong phòng, chống tham nhũng; lan tỏa nhanh chóng thông tin chính thống của ta tới đông đảo người dân; là công cụ hữu hiệu để các tổ chức đảng, chính quyền và người dân gia tăng sự tương tác, lắng nghe, sẻ chia, thấu cảm, đồng thuận; là cơ hội để thực hiện mô hình chính quyền mở, minh bạch, thân thiện và phục vụ. Đặc biệt, các phương tiện truyền thông xã hội là kênh thông tin tổng hợp quan trọng để đánh giá, đo lường, nắm bắt và giải quyết các cuộc khủng hoảng thông tin nhằm bình ổn, điều hòa các xung đột, mâu thuẫn, “điểm nóng” xã hội nảy sinh do tác động từ việc ban hành các chính sách.
Lấy chính các phương tiện truyền thông xã hội nhằm khắc chế thủ đoạn dùng các phương tiện truyền thông xã hội hòng chống phá ta của các thế lực thù địch, theo phương châm “lấy độc trị độc”. Trong đấu tranh tư tưởng hiện nay, tuyệt đối không bỏ trống, coi nhẹ không gian mạng hay lảng tránh việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội, vô tình “nhường” trận địa cho thế lực thù địch. Cần phá thế lan truyền thông tin của các thế lực thù địch bằng số lượng, chất lượng thông tin tích cực. Để áp đảo được đối phương, cần xây dựng đội ngũ “chiến sĩ thông tin mạng” đủ số lượng, vừa hồng, vừa chuyên để chủ động tham gia đấu tranh phản bác trên không gian mạng.
Đồng thời, thay vì tư duy cứng nhắc và cách làm cơ học thiên về “chặn”, “xóa” thông tin khi sự vụ đã xảy ra, cần chuyển đổi thành tư duy chủ động “làm loãng” thông tin và chú trọng các giải pháp “mềm”, nhất là trang bị kỹ năng, khả năng tự miễn dịch thông tin cho người dùng các phương tiện truyền thông xã hội. Sử dụng đồng bộ các giải pháp trong đấu tranh với các thế lực thù địch trên môi trường mạng, lấy giải pháp về nghiệp vụ phản tuyên truyền là chính. Kết quả thực tiễn của công tác phòng, chống tham nhũng của ta là yếu tố quyết định tới hiệu quả công tác tuyên truyền, là cơ sở thuyết phục nhất phản bác lại những luận điệu ngụy tuyên truyền của các thế lực thù địch.
Từ một số quan điểm mang tính nguyên tắc trên, xét riêng từ góc độ tuyên truyền, công tác đấu tranh chống ngụy tuyên truyền về phòng, chống tham nhũng cần tập trung một số giải pháp sau:
Thứ nhất, xây dựng lực lượng “tác chiến” tuyên truyền trên không gian mạng, là hiệp đồng của nhiều “binh chủng” tuyên truyền, với vai trò tổ chức, lĩnh xướng, chủ lực của cơ quan tuyên giáo, báo chí chính thống của ta, cùng đội ngũ cán bộ, đảng viên, thành viên của các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp khác trong hệ thống chính trị, kết thành mạng lưới thông tín viên rộng khắp, có khả năng hiện diện và góp tiếng nói ở mọi không gian truyền thông xã hội, từ đó lan tỏa sự ủng hộ, đồng tình tới đông đảo các tầng lớp nhân dân. Các cơ quan báo chí của ta phải luôn giữ vững vai trò, nhịp độ chủ đạo trong định hướng thông tin, thực hiện kết nối, tích hợp một cách hợp lý các ứng dụng truyền thông xã hội phổ biến vào sản phẩm báo chí của mình hoặc tạo dựng những kênh truyền thông xã hội riêng nhằm tận dụng lợi thế của các phương tiện này để lan tỏa thông tin chính thức, chính thống tới đông đảo công chúng.
Đặc biệt, có chính sách xây dựng, bồi dưỡng, trọng dụng những “thủ lĩnh thông tin” là cây bút chủ lực có sức ảnh hưởng trên cộng đồng mạng (key opinion leader) từ các nhà báo, nhà khoa học của ta. Đây là những người có tài năng, bút lực, tâm huyết, dần tạo vị thế, thẩm quyền, uy lực ngày càng lớn trên hệ thống báo chí chính thống và các phương tiện truyền thông xã hội, có số lượng lớn người theo dõi, đối trọng với lực lượng phản động, bằng hệ thống bài viết có chất lượng, bút chiến mạnh mẽ, kịp thời và đanh thép chủ động đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc, thù địch, có sức hấp dẫn và thuyết phục công chúng, từ đó có khả năng tham gia dẫn dắt, định hướng, định hình dư luận xã hội, tránh để rơi vào thế bị động.
Thứ hai, công tác thông tin và định hướng thông tin, tuyên truyền cần nhanh nhạy, chủ động hơn, không bị động, theo đuôi sự việc; đặc biệt cần công khai sớm, đầy đủ các thông tin về xử lý tham nhũng cho công luận, nhất là các kết quả thanh tra, kiểm tra, xử lý các vụ, việc, vụ án tham nhũng, kinh tế lớn, chủ động cung cấp thông tin về những vấn đề nhạy cảm, dư luận xã hội quan tâm, giúp định hướng tốt dư luận xã hội và thể hiện rõ sự công khai, minh bạch của Đảng, Nhà nước trong xử lý tham nhũng. Lấy tuyên truyền về gương người tốt, việc tốt trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng để lấn át cái xấu, tiêu cực...
Thời gian tới, bên cạnh việc chống phá hệ tư tưởng, các thế lực thù địch sẽ ngày càng đẩy mạnh việc công kích vào hệ thống pháp luật của ta, nhất là với các chính sách quan trọng liên quan tới sự phát triển của đất nước và có tác động sâu rộng tới đời sống xã hội, hướng lái dư luận hiểu sai, hiểu ngược, tạo nhiễu loạn thông tin, biến những chính sách cần thiết ra đời vì sự phát triển của đất nước và sự ổn định của xã hội thành những “vấn đề nhạy cảm”, từ đó nham hiểm ngăn cản việc ban hành những đạo luật này. Đồng thời, chúng tiếp tục lợi dụng những vấn đề dân chủ, nhân quyền, cái gọi là “tương thích với luật pháp quốc tế” để ra sức thúc đẩy ra đời những đạo luật liên quan về hội, biểu tình..., nhưng với ý đồ xấu, cài cắm thông tin sai lệch một cách tinh vi, mưu toan tạo “cơ sở pháp lý” dễ bề chống phá. Do đó, công tác tuyên truyền và định hướng tuyên truyền về sự cần thiết ban hành các chính sách, đạo luật quan trọng, như Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi), Luật Đất đai (sửa đổi)..., cũng như phản bác các luận điệu xuyên tạc, cả trên báo chí và các phương tiện truyền thông xã hội, cần đi trước một bước để tạo sự đồng thuận xã hội, tránh đi sau, bị động, có những khoảng trống hay tuyên truyền thiếu sự thống nhất giữa các cơ quan báo chí, để lọt các bài viết chất lượng thấp, có nhiều sở hở, thậm chí thông tin sai lệch, dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng...
Cần coi trọng đúng mức việc đánh giá những tác động, rủi ro của việc ban hành các chính sách; quy định chặt chẽ quy trình lấy ý kiến phản biện của các chuyên gia và đối tượng chịu tác động trực tiếp của chính sách; lắng nghe dư luận xã hội. Quá trình giải quyết các mâu thuẫn xã hội phát sinh phải dựa trên giá trị quan hoặc sự giao tiếp, đối thoại, thay cho sự áp đặt hay lối thỏa hiệp tùy tiện; trang bị kỹ năng xử lý, ứng biến với khủng hoảng thông tin cho cấp ủy, chính quyền các cấp.
Thứ ba, khoanh vùng các tổ chức, đối tượng đầu sỏ chống phá ta để chặn, xóa thông tin trên các phương tiện truyền thông xã hội theo từ khóa, theo tuyến vật lý, vị trí địa lý, cụm máy chủ, tên miền...; điều tra, truy tìm dấu vết phát tán thông tin, lưu trữ lịch sử thông tin để xử lý nghiêm minh theo quy định pháp luật những đối tượng cầm đầu nhằm răn đe và ngăn chặn từ gốc các thông tin bẩn, xấu độc. Đây là giải pháp ngăn chặn cần thiết được nhiều quốc gia trên thế giới thực hiện nhằm bảo vệ an toàn, an ninh mạng và đã được quy định rõ tại Luật An toàn thông tin mạng, Luật An ninh mạng của nước ta.
Mặt khác, hiện nay, các công ty như Google, Facebook thực tế đã có rất nhiều máy chủ đặt ở Việt Nam; thông tin được lưu trữ, chia sẻ, sao lưu, khôi phục, nhân bản tự động hoặc tự động tạo tài khoản nhờ công nghệ điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo..., nên khó lòng chặn, lọc được. Mặc dù chúng ta tích cực làm việc với các nhà cung cấp dịch vụ truyền thông xã hội về yêu cầu gỡ bỏ những thông tin xấu độc, nhưng do lượng thông tin quá lớn, nên thường thông tin đã phát tán mới đề nghị lọc, chặn. Hơn nữa, những ràng buộc của các điều ước quốc tế, sự khác nhau về quan điểm chính trị... cũng khiến việc gỡ bỏ chưa đạt được mong muốn.
Do đó, cần chủ động, tích cực và thường xuyên làm loãng thông tin xấu độc bằng các biện pháp kỹ thuật và nghiệp vụ. Khi có thông tin xấu độc, ta cần tạo dựng cơ số những thông tin tương tự, nhưng có nội dung tích cực, để làm chìm đi thông tin xấu độc. Về mặt kỹ thuật, có thể tận dụng ngay công cụ tìm kiếm Google, tối ưu hóa tìm kiếm (SEO) để làm nổi thông tin phản bác lên trên thông tin xấu độc. Công việc trên cần một bộ phận trực “tác chiến” liên tục trên không gian mạng. Lực lượng này đưa thông tin tích cực tới cộng đồng, thúc đẩy việc chia sẻ (like, share) để phủ thông tin tốt lên các phương tiện truyền thông xã hội.
Thứ tư, xây dựng các “thiết chế ảo” trên các phương tiện truyền thông xã hội, như các diễn đàn, hội nhóm, fanpage, câu lạc bộ... theo tâm lý, sở thích, nhu cầu cá nhân, có chất lượng, thu hút được nhiều hội viên, thành viên, tạo thành những cộng đồng mạng rộng lớn, từ đó khéo léo điểm xuyết việc xen ghép những định hướng tuyên truyền của ta trong các nội dung trao đổi, thảo luận, sinh hoạt trên không gian trực tuyến. Đây là cách thức thu hút người dùng một cách tự nhiên và tuyên truyền hiệu quả hơn so với việc tạo lập ngay từ đầu các kênh, diễn đàn, sản phẩm truyền thông xã hội mang tính chính trị, có phần khô cứng, ít thành viên tham gia; cũng phù hợp với quan điểm sử dụng chính nền tảng các kênh truyền thông xã hội phổ biến nhất hiện nay trên thế giới và ở Việt Nam để phản tuyên truyền đối với các thế lực thù địch. Chính những “thiết chế ảo” này sẽ là những nguồn phát và lan tỏa thông tin chính xác của ta trên các phương tiện truyền thông xã hội.
Thiết lập và sử dụng hệ thống lắng nghe và phân tích truyền thông xã hội (social listening) để tự động dò quét, theo dõi, tổng hợp, phân tích các dòng thông tin chủ lưu hằng ngày trên các phương tiện truyền thông xã hội. Việc nắm bắt, bao quát những diễn biến chính trên không gian mạng là rất cần thiết để các cơ quan chức năng của ta có thể chủ động, kịp thời xử lý khi có tình huống, nhất là với những diễn biến, khủng hoảng nghiêm trọng. Đẩy mạnh hợp tác và đấu tranh với các nhà cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng in-tơ-nét trong và ngoài nước phải lưu trữ những dữ liệu do người sử dụng dịch vụ trong nước tạo ra tại Việt Nam, là cơ sở, hệ thống chứng cứ để xử lý theo luật định khi có tình huống, sự việc phát sinh. Có chiến lược xây dựng nền tảng các ứng dụng phương tiện truyền thông xã hội trọng điểm mang thương hiệu Việt Nam, có chất lượng, sức cạnh tranh, tính hấp dẫn, tính giáo dục và phù hợp với văn hóa dân tộc, từ đó góp phần gia tăng năng lực tự chủ thông tin quốc gia, từng bước giảm dần sự lệ thuộc vào các tập đoàn truyền thông lớn của nước ngoài. Đây cũng là chiến lược phát triển dài hạn được nhiều quốc gia trên thế giới lựa chọn.
Xây dựng và ban hành bộ quy tắc ứng xử và chuẩn mực đạo đức trên các phương tiện truyền thông xã hội ở Việt Nam, quy định cụ thể những thái độ, hành vi nên, không nên thực hiện, góp phần làm lành mạnh hóa và hướng tới một môi trường mạng văn minh hơn. Đây là sự bổ trợ cần thiết cho các giải pháp kỹ thuật và pháp lý khác, lấy quy chuẩn đạo đức và sức ép đánh giá từ dư luận xã hội để điều chỉnh các hành vi trên không gian mạng một cách tự giác. Coi trọng việc trang bị kỹ năng sử dụng, ứng xử trên các phương tiện truyền thông xã hội cho người dùng, trong đó có khả năng tự sàng lọc thông tin và chối bỏ các thông tin bẩn, xấu độc, không chia sẻ (like, share) một cách vô ý thức. Tuy nhiên, hiện nay, việc trang bị những kỹ năng này vẫn còn bị bỏ ngỏ trong cộng đồng, nhất là trong các môi trường giáo dục ở Việt Nam. Cần thiết xây dựng và ban hành cẩm nang về kỹ năng sử dụng và ứng xử trên các phương tiện truyền thông xã hội để phổ biến rộng rãi, giúp người dùng học cách làm chủ, tự bảo vệ mình trước những rủi ro truyền thông.
Đặc biệt, công cuộc phòng, chống tham nhũng cần tiếp tục giữ vững nhịp độ, được thực hiện quyết liệt, hiệu quả. Dựa trên hiệu quả cuộc đấu tranh chống tham nhũng cùng việc giải quyết những vấn đề nổi cộm khác mà dư luận xã hội quan tâm, bức xúc và dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng, như lợi ích nhóm, chạy chức, chạy quyền; quản lý đất đai, giải phóng mặt bằng; các vấn đề an sinh xã hội..., công tác phản tuyên truyền sẽ có cơ sở vững chắc và thêm sức nặng để đập tan từ gốc dã tâm chống phá và những luận điệu ngụy tuyên truyền của các thế lực thù địch./.
Lê Hải
Tạp chí Cộng sản