|
PGS. Trần Đình Huỳnh, nghiên cứu viên cấp cao, nguyên Viện trưởng Viện Xây dựng Đảng.
|
Lời tòa soạn: Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội… Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Tạp chí Xây dựng Đảng xin trân trọng giới thiệu loạt bài 5 kỳ “Để hiện thực hóa con đường phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” của PGS. Trần Đình Huỳnh, nghiên cứu viên cấp cao, nguyên Viện trưởng Viện Xây dựng Đảng.
Kỳ 1: Phát triển đất nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc từ nhận thức đến hành động
Sinh ra với danh hiệu cao quý CON NGƯỜI, tất nhiên phải sống và tồn tại. Nhưng tồn tại chỉ là hiện hữu. CON NGƯỜI khác loài vật là có linh hồn, suy nghĩ, mục đích, lý tưởng, khát khao và mơ ước, hy vọng và mong chờ - gọi chung là khát vọng. Khát vọng chân chính luôn mang nặng một sứ mệnh thiêng liêng là ý thức trách nhiệm, bắt buộc con người phải nỗ lực, gắng gỏi, gánh vác để biến ước mơ thành hiện thực. Khát vọng muôn đời của con người là được sống trong hòa bình, hạnh phúc, tự do. Nhưng con đường đi tới đó muôn dặm, gập ghềnh gian khổ. Đặc điểm nổi bật của khát vọng Việt Nam là đi từ nhận thức đến hành động, từ hiểu biết để tin tưởng và đã tin thì quyết làm đúng như C.Mác đã từng khẳng định: Cách mạng phải có đầu óc và nhiệt tình.
Tiếp bước cha anh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm có khát vọng cao cả là giành lại độc lập, tự do cho nước Việt Nam từ tay ngoại bang, khi ấy là bọn thực dân Pháp và phong kiến tay sai. Bác Hồ bắt đầu thực hiện khát vọng ấy bằng việc tìm để hiểu thấu, dấn thân và tự xác định trách nhiệm. Sau này, Người nhớ lại: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái… Người Pháp đã nói thế. Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những từ ấy”(1).
Song hành trên con đường tìm hiểu và nhận biết của Bác là hành động. Năm 16 tuổi (1906), phản kháng chế độ bóc lột của thực dân Pháp nên Bác đã tham gia biểu tình chống thuế trong phong trào nông dân ở Thừa Thiên. Năm 21 tuổi (1911), chỉ với sức trẻ, chí khí quật cường và lòng dũng cảm, Bác quyết ra nước ngoài và đến nước Pháp, nơi ra đời của Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền với mục tiêu: Tự DO - BÌNH ĐẲNG - BÁC ÁI để “… xem họ làm như thế nào, trở về giúp đồng bào ta”(2). Khi đến nước Pháp, chứng kiến cuộc sống nghèo khổ, bất công trong xã hội, một câu hỏi lớn lại được đặt ra trong đầu óc chàng thanh niên ham hiểu biết ấy: Tại sao người Pháp không “khai hóa” đồng bào của họ trước khi đến“ khai hóa” chúng ta?
Bác Hồ tìm đến xứ sở cờ hoa, nơi có tượng Nữ thần Tự do mà người Pháp đã trao tặng cho đất nước Hoa Kỳ, nơi ra đời Bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ. Nhưng thực tiễn của xã hội Mỹ đã dẫn Người đến chân tượng Nữ thần Tự do để rồi viết ra những câu hỏi mà cho đến hôm nay nước Mỹ vẫn chưa có lời giải đáp: “Ánh sáng trên đầu thần Tự do tỏa rộng khắp trời xanh, còn dưới chân tượng thần Tự do thì người da đen đang bị chà đạp. Bao giờ người da đen được bình đẳng với người da trắng?
Bao giờ có sự bình đẳng giữa các dân tộc? Và bao giờ phụ nữ được bình đẳng với nam giới?”. Bác tìm đến nước Anh, nhận quét tuyết để lấy tiền sống và học tiếng Anh, ngôn ngữ thông dụng trên thế giới, để có thêm một ngoại ngữ dùng làm chìa khóa mở kho tàng kiến thức của nhân loại. Ở đây, khi làm bồi bàn trong những khách sạn lớn, Bác có điều kiện làm quen với các nhà bác học và các văn nghệ sĩ danh tiếng.
Cuối năm 1917 (27 tuổi ) Bác trở lại Pa-ri -thủ đô nước Pháp, trung tâm thông tin của thế giới. Ở đây, Bác có nhiều cuộc tiếp xúc với các nhà văn hóa, trí thức và bắt đầu tham gia các buổi sinh hoạt chính trị. Với hành trang kiến thức đã thu lượm được, năm 1919, với cái tên Nguyễn Ái Quốc, Bác quyết định gia nhập Đảng Xã hội Pháp với nhận thức rằng: Đây là tổ chức duy nhất bênh vực nước tôi, tổ chức theo đuổi lý tưởng cao quý Tự do - Bình đẳng - Bác ái. Hành động mang tính đột phá trên con đường giành độc lập, tự do cho Tổ quốc là tham gia Hội những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, là một tác giả chính của Bản yêu sách của nhân dân An Nam gửi Hội nghị Véc-xây đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Không thể bằng lòng với những lời hứa suông của Đảng Xã hội Pháp, nói nhưng không hành động ủng hộ lợi ích của nhân dân thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc tìm đến với chủ nghĩa Lê-nin và Quốc tế III. Năm 30 tuổi (1920) Nguyễn Ái Quốc trở thành thành viên tham gia sáng lập Đảng Cộng sản và chính thức gia nhập hàng ngũ đội tiên phong quốc tế đấu tranh cho độc lập, tự do của các dân tộc bị áp bức. Năm 31 tuổi (1921) Bác đã công bố hai bài báo có tên là Đông Dương viết bằng tiếng Pháp đăng trên Tạp chí Cộng sản (La revue Communiste) với những lời tuyên bố về niềm tin vào sức sống của người Đông Dương: “Người Đông Dương mặc dù bị thực dân Pháp ra sức đầu độc cả về tinh thần lẫn thể xác. Nhưng không, người Đông Dương không thể chết, người Đông Dương vẫn sống, sống mãi mãi. Sự đầu độc có hệ thống của bọn tư bản thực dân không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng của người Đông Dương... Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến”. Tiếp theo, Người chỉ ra trách nhiệm của những người cộng sản: “Bộ phận ưu tú có nhiệm vụ phải thúc đẩy thời cơ đó mau đến. Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi. Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi”(3). Tìm được học thuyết cách mạng chỉ đường, Người vui mừng, ngồi trong phòng một mình mà như muốn hô to, kêu gọi đồng bào mình: Đây chính là cái cần thiết cho chúng ta, là vũ khí giúp chúng ta trên con đường đấu tranh giành độc lập, tự do. Người học hỏi, nghiền ngẫm, vận dụng vào thực tiễn, Người phân tích điều kiện địa lý, lịch sử của châu Á và Đông Dương để khẳng định: “Chế độ cộng sản có thể áp dụng được ở châu Á nói chung và Đông Dương nói riêng”(4).
Đồng thời, Người nêu trách nhiệm tuyên truyền Chủ nghĩa Mác-Lênin của những người cộng sản để họ biết đem sức dân ta mà giải phóng cho ta. Năm 32 tuổi (1922), Người tích cực hoạt động để xúc tiến việc thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa, tham gia vào BCH và làm Ủy viên thường trực của Hội Liên hiệp thuộc địa. Người đã sáng lập tờ báo Người cùng khổ (Le Paria) có tiêu đề là Diễn đàn của các dân tộc thuộc địa và mục đích là đấu tranh “vì lợi ích của công lý, sự thật và tiến bộ. “Báo Le Paria là vũ khí để chiến đấu. Sứ mạng của nó đã rõ ràng: Giải phóng con người”(5). Báo kêu gọi nhân dân các dân tộc thuộc địa đoàn kết lại để đấu tranh cho sự tiến bộ về vật chất và tinh thần của chính họ, hô hào họ tổ chức lại nhằm mục đích giải phóng những người bị áp bức khỏi những lực lượng thống trị, thực hiện tình yêu thương và hữu ái. Ngày 24-5-1922, Hội đồng nghiên cứu vấn đề thuộc địa của Hội Liên hiệp thuộc địa thông qua Tuyên ngôn do Nguyễn Ái Quốc thảo. Tuyên ngôn có đoạn viết: “Anh em phải làm thế nào để được giải phóng? Vận dụng công thức của Các Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”. Cuối cùng, Tuyên ngôn kêu gọi: “Hỡi các bạn bị áp bức ở chính quốc! Giai cấp tư sản trong nước các bạn đã lừa dối các bạn, dùng các bạn làm công cụ đi xâm lược đất nước chúng tôi. Ngày nay, vẫn dùng cái chính sách qủy quyệt ấy, giai cấp tư sản nước các bạn lại định dùng chúng tôi để đàn áp mọi cố gắng tự giải phóng của các bạn”. “Đứng trước chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc, quyền lợi chúng ta là thống nhất, các bạn hãy nhớ lời kêu gọi của Các Mác: Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại”(6).
Vượt qua bao hiểm nguy, gian khó, năm 1930, 40 tuổi, với tư cách Ủy viên của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc hợp nhất các tổ chức cộng sản ở trong nước, sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đó đến nay nước ta đã có một Đảng chân chính cách mạng, tiên phong dẫn lối chỉ đường. Năm 1945, khát vọng cháy bỏng qua hàng thế kỷ của cả dân tộc đã được Đảng Cộng sản Việt Nam mà đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh đã trở thành hiện thực: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với tiêu ngữ là Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, một nhà nước dân chủ được thành lập sớm nhất Đông Nam Á.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khát khao xây dựng một đất nước có thể sánh vai với các cường quốc năm châu. Từ khi còn là một thanh niên yêu nước, Người khát khao tìm con đường cứu nước và giải phóng dân tộc, để rồi 34 năm sau, khát khao ấy trở thành hiện thực: Nước Việt Nam có tên trên bản đồ thế giới. Trên cương vị Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã bày tỏ niềm tin tưởng của mình vào thế hệ trẻ với khát vọng xây dựng một đất nước phồn vinh, hạnh phúc: Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu. Trong suốt 24 năm là lãnh tụ của dân tộc, Người bền bỉ thực hành đạo đức cách mạng, nêu một tấm gương sáng về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Tâm nguyện cuối cùng của Người là khát vọng “... xây dựng thành công một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Ngót một thế kỷ đã qua dưới ngọn cờ Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vượt qua chính mình, vững vàng dẫn dắt dân tộc ta làm nên lịch sử, từng bước thực hiện khát vọng xây dựng nước Việt Nam độc lập, thống nhất, hòa bình, dân giàu nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng cụm từ “khát vọng phát triển” được đề cập đến với nhiều nội dung phong phú, thiết thực, phản ánh nhận thức mới, có kế thừa và phát triển từ truyền thống của dân tộc đến tinh hoa của thời đại. Trong chủ đề Đại hội, khát vọng Việt Nam được thể hiện như một tuyên bố chính trị: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy ý chí, khát vọng, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng XHCN”. Các quan điểm và định hướng phát triển trong Báo cáo chính trị nhấn mạnh: “Bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng cùng có lợi. Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước...”; “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển; phát huy dân chủ XHCN, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam...”. Đại hội xác định rõ vấn đề quan trọng, có ý nghĩa chiến lược lâu dài: “Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và trọng dụng nhân tài. Thúc đẩy chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào các lĩnh vực của đời sống xã hội...”; “Tăng cường xây dựng con người và nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc... khơi dậy tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển...”.
Đại hội nêu 6 nhiệm vụ trọng tâm và 3 đột phá chiến lược, trong nhiệm vụ thứ tư chỉ rõ: “Khơi dậy khát vọng phát triển Việt Nam cường thịnh, phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc...”. Đột phá thứ hai nhấn mạnh: “Phát triển nguồn nhân lực... đổi mới sáng tạo, khơi dậy khát vọng phát triển, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam”. Đảng ta tin tưởng rằng: Với khát vọng vươn lên mãnh liệt, quyết tâm chính trị cao, nhất định đất nước ta sẽ lập nên những kỳ tích mới vì một nước Việt Nam cường thịnh, cùng tiến bước sánh vai với cường quốc năm châu. Khát vọng phát triển của Đảng là khát vọng Việt Nam đổi mới, dân tộc Việt Nam cường thịnh, văn minh, nhân dân hạnh phúc, là khát vọng thiêng liêng, lớn lao, hòa hợp ý Đảng - lòng Dân, tạo sự đồng tâm, nhất trí của toàn thể nhân dân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đó chính là sự kế thừa và phát triển khát vọng của lãnh tụ Hồ Chí Minh trong hoàn cảnh mới. Quan điểm về khát vọng phát triển được Đại hội XIII của Đảng thể hiện là sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh vào đường lối, chủ trương của Đảng để xây dựng đất nước trong bối cảnh mới.
-----
(1), (3), (6) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, H.2011, tập 1, tr .461; tr .40; tập 14, tr .192. (2), (4), (5) Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, NXB CTQG, tập 1, tr .45-46, tr .114, tr .137.
Kỳ 2: Con đường phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác-Lênin
1. C.Mác và Ph.ăng-ghen đã chỉ rõ tính tất yếu của cuộc đấu tranh giải phóng nhân loại khỏi ách áp bức, bất công tàn bạo của giai cấp tư sản là làm cuộc cách mạng giải phóng xã hội do giai cấp công nhân và đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo. Cuộc cách mạng ấy sẽ xóa bỏ tận gốc sự thống trị của CNTB và tất cả tàn dư của các xã hội trước nó để xây dựng CNXH. Hai ông là tác giả cuốn Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản - Cương lĩnh đầu tiên của những người cộng sản trên toàn thế giới. Tư tưởng cơ bản và chủ đạo của Tuyên ngôn là: “Trong mỗi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra - cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy, do đó (từ khi chế độ công hữu ruộng đất nguyên thủy tan rã) toàn bộ lịch sử là lịch sử của các cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa những giai cấp bị bóc lột và những giai cấp đi bóc lột, giữa những giai cấp bị trị và những giai cấp thống trị, qua các giai đoạn của sự phát triển xã hội của họ; nhưng cuộc đấu tranh ấy hiện nay đã đến một giai đoạn mà giai cấp bị bóc lột và bị áp bức (tức là giai cấp vô sản) không còn có thể tự giải phóng khỏi tay giai cấp bóc lột và áp bức mình (tức là giai cấp tư sản) được nữa, nếu không đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức và khỏi những cuộc đấu tranh giai cấp…”(1). Trong tác phẩm này, C.Mác và Ph.ăng-ghen đã chỉ rõ: Trong CNTB, giai cấp tư sản liên tục bóc lột giai cấp vô sản đối với sức lao động của họ, tạo ra lợi nhuận bị giai cấp tư sản chiếm đoạt và tích lũy vốn. Tuy nhiên, làm như vậy giai cấp tư sản cư xử như tự đào mồ chôn chính nó; giai cấp vô sản không thể tránh khỏi việc trở nên có ý thức về năng lực của họ và lên nắm chính quyền thông qua cách mạng, lật đổ giai cấp tư sản. Trong Cương lĩnh đầu tiên của những người cộng sản, do hoàn cảnh lịch sử ở châu âu khi ấy nên C.Mác và Ph.ăng-ghen chỉ mới hình dung một cách đại thể là, sau khi lật đổ giai cấp tư sản giành được chính quyền thì giai cấp vô sản sẽ thiết lập nền chuyên chính vô sản, cải tạo và xây dựng xã hội mới, xã hội XHCN.
Trên thực tế, thời Mác và ăng-ghen chưa có nước tư bản nào giành được chính quyền, chỉ duy nhất Công xã Pa-ri nổ ra và sau hơn 70 ngày thì Công xã đã bị dìm trong bể máu.Từ kinh nghiệm thực tế đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản sau khi C.Mác qua đời, trong lời tựa cho những lần tái bản bằng các thứ tiếng khác nhau, Ph.ăng-ghen vẫn nhất quán với phương pháp mà C.Mác và Ph.ăng-ghen nêu ra trong lời tựa đầu tiên. Một mặt, ông khẳng định tư tưởng chủ đạo của Tuyên ngôn, mặt khác ông bổ sung, làm rõ hơn những nội dung, cả về chiến lược và sách lược của Tuyên ngôn. Chẳng hạn, khi viết Lời tựa tái bản bằng tiếng Nga năm 1882, Ph.ăng-ghen đã chỉ rõ vai trò của “nước Nga đang đi tiên phong trong phong trào cách mạng châu âu”. Đặc biệt, ông đã chỉ ra rằng nước Nga, với chế độ công xã nông thôn, “cái hình thức đã bị phân giải ấy của chế độ công hữu ruộng đất nguyên thủy có thể chuyển thẳng lên hình thức cao, cộng sản chủ nghĩa về sở hữu ruộng đất” mà không cần “phải trải qua quá trình tan rã như nó đã trải qua trong tiến trình phát triển lịch sử của phương Tây”.
Từ thực tiễn nước Nga, Ph.ăng-ghen đã chỉ rõ điều kiện một nước nông nghiệp chưa qua chế độ TBCN, có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa cộng sản (CNCS). ông viết: “Ngày nay lời giải duy nhất cho câu hỏi ấy là thế này: Nếu cách mạng Nga báo hiệu một cuộc cách mạng vô sản ở phương Tây và nếu cả hai cuộc cách mạng ấy bổ sung cho nhau thì chế độ ruộng đất công cộng ở Nga hiện nay sẽ có thể là khởi điểm của một sự tiến triển cộng sản chủ nghĩa”(2). Chỉ dẫn thiên tài đó của Ph.ăng-ghen đã làm phong phú thêm lý luận về con đường đi lên CNCS của các nước khác nhau trong những điều kiện khác nhau. Điều đó đã được cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 chứng minh là hoàn toàn đúng bởi sự vận dụng tài tình và sáng tạo những nguyên lý của Tuyên ngôn và chỉ dẫn bổ sung của Ph.ăng-ghen do V.I.Lê-nin và Đảng Cộng sản (b) Nga thực hiện. C.Mác và Ph.ăng-ghen quan niệm xã hội XHCN là một xã hội tiếp theo và cao hơn xã hội tư bản. Nó phải phá bỏ chế độ tư hữu, thủ tiêu nền sản xuất hàng hóa TBCN, loại trừ sự tôn thờ đồng tiền trong các quan hệ xã hội, sự sùng bái vật chất đi kèm với sự phá hủy các giá trị con người. Động cơ và mục đích của nền sản xuất TBCN là giá trị thặng dư. Đó là nguồn gốc và điều kiện tồn tại của CNTB mà hệ quả tất yếu của nó là duy trì chế độ người bóc lột người. Theo C.Mác và Ph.ăng-ghen thì cần thủ tiêu chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN, chấm dứt quan hệ hàng - tiền, thay thế sự áp bức, bóc lột con người bằng tự do và phát triển toàn diện con người. Bằng cách đó, CNXH sẽ “làm cho những cơn co giật và những đau đớn của xã hội bóc lột phải tiêu tan”. Bằng sự phân tích lô-gic phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác và Ph.ăng-ghen hình dung con đường phát triển của xã hội tương lai được hình thành sau khi giai cấp vô sản mỗi nước giành được chính quyền là thiết lập nền chuyên chính vô sản, xây dựng một xã hội công hữu về tư liệu sản xuất dựa trên cơ sở của lực lượng sản xuất phát triển thật cao không tương dung được với chế độ sở hữu tư nhân, tiêu biểu là sở hữu tư bản nữa, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, thiết lập một xã hội hoàn toàn tự do, bình đẳng, nhân đạo. “Thay cho chế độ tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng của nó, xuất hiện một liên hiệp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển của tất cả mọi người”(3).
2. V.I.Lê-nin - nhà cách mạng trung thành và phát triển Chủ nghĩa Mác, ông là nhà canh tân đầu tiên, vĩ đại nhất trong lịch sử phát triển của CNXH khoa học. Sau khi cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, nước Nga trong những năm 1917-1921 do sự đòi hỏi khắc nghiệt của nội chiến và chống trả sự bao vây của 14 nước đế quốc nên đã áp dụng Chính sách cộng sản thời chiến, thực hiện xây dựng nền kinh tế phi hàng hoá, phân phối sản phẩm trực tiếp, tiến hành quốc hữu hóa công nghiệp, thương nghiệp, trưng thu lương thực thừa của nông dân, đình chỉ tự do buôn bán và trao đổi sản phẩm ở địa phương. Ngày 17-7-1921, trong một báo cáo quan trọng “Chính sách kinh tế mới và những nhiệm vụ của các ban giáo dục chính trị”, V.I.Lê-nin đã nhận định: “Sai lầm của chúng ta” là “một phần do những nhiệm vụ quân sự dồn dập đè lên vai chúng ta, và do khi cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa kết thúc, nước cộng hòa chúng ta lúc đó đứng trước một tình hình cơ hồ như tuyệt vọng - do những tình huống ấy và nhiều tình huống khác nên chúng ta đã phạm sai lầm quyết định chuyển ngay sang việc sản xuất và phân phối cộng sản chủ nghĩa… Đáng tiếc rằng, đó lại là một sự thật. Tôi nói đáng tiếc vì một cuộc thí nghiệm không lâu lắm đã cho chúng ta thấy rõ rằng cách làm như vậy là sai, là trái với những điều trước kia chúng ta đã viết về bước quá độ từ CNTB lên CNXH… Thất bại đó đã biểu hiện ở chỗ là chính sách kinh tế của ta lâm vào tình trạng, ở phía thượng tầng của nó, bị tách rời cơ sở và không dẫn đến việc phát triển lực lượng sản xuất mà cương lĩnh Đảng ta coi là nhiệm vụ cơ bản và bức thiết nhất.
Chế độ trưng thu lương thực thừa ở nông thôn, cách giải quyết những nhiệm vụ xây dựng ở thành thị một cách trực tiếp theo CNCS như thế đã làm trở ngại cho việc phát triển lực lượng sản xuất, và đã tỏ ra là nguyên nhân chủ yếu gây nên cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị sâu sắc mà chúng ta vấp phải hồi mùa xuân 1921. Cho nên, đứng về mặt đường lối và chính sách của chúng ta mà xét, cần phải có cái mà người ta không thể gọi một cách khác hơn là một sự thất bại nặng nề và một sự rút lui rất nghiêm trọng”(4).
Với tinh thần tự phê phán nghiêm khắc đối với bệnh giáo điều theo những quan niệm chung của C.Mác và Ph.ăng-ghen khi xa rời tình hình cụ thể ở nước Nga nên đã đi quá sớm, quá xa trong các chủ trương kinh tế. Kịp thời và dũng cảm nhận rõ sai lầm, V.I.Lê-nin đã đề ra Chính sách kinh tế mới (NEP) và Thanh Đảng nhằm đưa nước Nga quá độ lên CNXH một cách hợp quy luật. NEP thực sự là một sự chuyển hướng chiến lược: Từ quá độ trực tiếp sang quá độ gián tiếp, từ đường thẳng chuyển đi đường vòng, phải chia thời kỳ quá độ ra thành nhiều bước quá độ, trung gian, từ từ. Phải kiên nhẫn, không được nôn nóng trước cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ cho sự toàn thắng của CNXH. Từ lập trường chính trị của giai cấp vô sản, V.I.Lê-nin đã chỉ rõ: Chuyên chính vô sản là một cuộc chiến tranh quyết liệt. Giai cấp vô sản đã thắng lợi trong một nước, nhưng trong phạm vi quốc tế thì vẫn yếu hơn. Giai cấp vô sản phải đoàn kết chung quanh mình toàn thể công nhân và toàn thể nông dân làm cho họ nhận thức sâu sắc rằng trận chiến đấu chưa kết thúc.
Chính sách kinh tế mới là trận chiến đấu mới bằng một đường lối chiến lược mới giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản để giành thắng lợi cho CNXH. NEP là một cống hiến xuất sắc của V.I.Lê-nin vào lý luận của CNXH khoa học. Con đường đi lên CNXH ở một nước không phải là nước tư bản phát triển cao đặt ra những vấn đề mới mà C.Mác và Ph.ăng-ghen chưa đề cập tới.
Trước hết, phải thừa nhận nền kinh tế hàng hoá còn lâu dài trong suốt thời kỳ quá độ và trong CNXH. Do đó, phải thừa nhận quy luật giá trị, thừa nhận về mặt pháp lý của các hình thức sở hữu, phân phối, áp dụng cơ chế hạch toán kinh tế trong sản xuất - kinh doanh, sử dụng các đòn bẩy kinh tế (kích thích sản xuất, thưởng phạt, thuế, lương…); giải quyết đúng đắn các quan hệ hàng - tiền, cung - cầu, kế hoạch - thị trường.
Thứ hai, phải thỏa hiệp với tiểu nông. Nhà nước chuyên chính vô sản không được tính toán hơn thiệt đối với họ mà phải giúp đỡ, tạo điều kiện cho họ tiến lên. V.I.Lê-nin đã từng nhấn mạnh: Chúng ta chỉ có thể chiến thắng được CNTB khi biết tổ chức được tầng lớp tiểu nông lại trên cơ sở phát triển lực lượng sản xuất, phải dùng chính quyền vô sản mà giúp đỡ cho sự phát triển. Cuộc đấu tranh sẽ kết thúc như thế nào là do điều đó quyết định. Điều đáng chú ý là V.I.Lê-nin đã khuyên “chớ trông mong chuyển ngay lên chủ nghĩa cộng sản” mà phải lấy sự quan tâm của người lao động làm cơ sở, phải thừa nhận quyền tự do sản xuất - kinh doanh và quyền sở hữu tư nhân của người tiểu nông về công cụ sản xuất và vật phẩm tiêu dùng. Từ đó mà hướng họ vào các hình thức hợp tác tự nguyện, có lợi, trên cơ sở phát triển lực lượng sản xuất.
Thứ ba, cần phải sử dụng “chủ nghĩa tư bản nhà nước”, phải lợi dụng nó để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH. V.I.Lê-nin đặt vấn đề sử dụng CNTB nhà nước mà nhiều người cộng sản đương thời coi là điều “kỳ lạ”, là “phi lý”, nhưng xét trên bình diện lý luận chính trị và các quy luật vận động của lịch sử, thì chính nó lại là “chiếc cầu nối” để đi lên CNXH. Đây là vấn đề mà C.Mác và Ph.ăng-ghen trước kia chưa hề đặt ra. V.I.Lê-nin nói: Cần phải “tạo ra một thứ chủ nghĩa tư bản phục tùng nhà nước và phục vụ nhà nước”(5). Phải chăng, đó chính là chủ trương tôn trọng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà Đảng ta đang vận dụng? Tư duy chính trị sáng suốt đã dẫn V.I.Lê-nin đi đến những quyết định táo bạo - một sự táo bạo vượt cao hơn những suy nghĩ bảo thủ trì trệ dựa trên nguyên
tắc: Tôn trọng các quy luật khách quan, đặc biệt là các nguyên tắc kinh tế. Chính vì vậy mà Lê-nin từ chỗ coi NEP là một chính sách kinh tế, thậm chí coi là “một bước lùi”, tới chỗ khẳng định như một đường lối chính trị, một phương hướng phát triển “nghiêm túc và lâu dài”, hơn thế nữa còn là một thiết kế lý luận về mô hình của CNXH.
Thứ tư, NEP là sự thể hiện bản lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản và chính quyền Xô-viết. Đây thực sự là một cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản quốc tế, bởi vì vấn đề cuối cùng là những người cộng sản sẽ thành công hay thất bại trong công cuộc xây dựng CNXH. “Hãy nhớ rằng câu hỏi mà hiện nay cần phải giải đáp dứt khoát là: Chúng ta có biết cách làm việc cho chính chúng ta được hay không? Nếu không - tôi xin nhắc lại - nước cộng hoà của ta sẽ bị diệt vong”(6).
V.I.Lê-nin đòi hỏi tất cả cán bộ, đảng viên, viên chức nhà nước đều phải học hỏi để biết làm kinh tế, bởi vì “bên cạnh các đồng chí sẽ có các nhà tư bản, cũng sẽ có các nhà tư bản nước ngoài, những người được tô nhượng và những nhà trưng thầu; họ sẽ quơ của các đồng chí những món lợi nhuận lên tới hàng trăm phần trăm; họ sẽ làm giàu bên cạnh các đồng chí. Cứ để cho họ làm giàu; còn các đồng chí thì sẽ học được ở bọn họ cách quản lý kinh tế, chỉ có như thế, các đồng chí mới xây dựng được nước cộng hòa cộng sản chủ nghĩa”(7).
Việc học hỏi là một trọng trách, nó liên quan đến sự sống còn của chế độ. Vì vậy, V.I.Lê-nin coi mọi sự lơ là học tập đều là tội lỗi: Ai ngại khó khăn, ai nhụt chí khí, ai muốn thoái lui, không chịu lao vào khoa học quản lý - “một khoa học thật khó khăn, gian khổ và đôi khi khắc nghiệt nữa”(8). Ông đã nghiêm khắc cảnh báo: Nếu ai không chịu học để biết quản lý thì đều phải xử phạt một cách nghiêm khắc. Đó là biện pháp duy nhất để tồn tại, bởi vì nếu không biết quản lý thì chúng ta sẽ bị “uy hiếp của nạn diệt vong”. Ông đã chỉ rõ: “Nhà nước phải học cách buôn bán để sao cho công nghiệp thỏa mãn được nông dân, còn nông dân thì nhờ có thương nghiệp mà thỏa mãn được nhu cầu của mình. Phải tổ chức như thế nào để mỗi người lao động đem được hết sức mình ra củng cố nhà nước công - nông. Chỉ có như thế mới có thể xây dựng được một nền đại công nghiệp”(9).
V.I.Lê-nin đã phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.ăng-ghen về hình thái kinh tế - xã hội, về sự phát triển và thay thế nhau của các chế độ xã hội, khẳng định con đường phát triển của nhân loại là làm cuộc cách mạng XHCN. Sự thắng lợi của CNXH đối với CNTB, suy cho cùng là CNXH có tạo ra được một năng suất lao động xã hội cao hơn CNTB hay không, mà muốn có năng suất lao động xã hội cao hơn CNTB, thì chỉ có một con đường duy nhất là công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước
-----
(1), (2), (3) C.Mác và Ph.Ăng-ghen tuyển tập, NXB Sự thật, H.1980, tập 1, tr .509-510, tr .508, tr .569. (4), (5), (6), (7), (8), (9) V.I.Lê-nin toàn tập, NXB Sự thật, H.1978, tập 44, tr .197-199, tr .202, tr .209, tr .209, tr .210, tr .210
KỲ 3: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
Từ khi Nguyễn Ái Quốc lựa chọn theo Quốc tế III, tin theo Chủ nghĩa Mác-Lênin, cách mạng Việt Nam có định hướng rõ ràng, từng bước tiến lên dưới hai ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH. Ngay từ khi Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường cứu nước cho tới khi dân tộc ta hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giải phóng, thống nhất đất nước (năm 1975), trong toàn bộ hoạt động của mình, nhân dân Việt Nam đã luôn đi theo định hướng XHCN. Hai ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH dẫn dắt cả dân tộc Việt Nam tiến bước trên con đường thắng lợi.
Nếu CNXH theo quan niệm của C.Mác là sản phẩm tất yếu của lịch sử khi nó chín muồi, khi lực lượng sản xuất, cụ thể là nền kinh tế -xã hội đã công nghiệp hóa ở trình độ cao, không thể tương dung với quan hệ sản xuất tư nhân TBCN, biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ngày càng gay gắt, quần chúng không thể tiếp tục sống dưới ách áp bức bóc lột của chúng, sẵn sàng nổi dậy dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản mà đội tiên phong của nó là đảng cộng sản. Như vậy, xã hội tư bản đã tạo tiền đề cho cuộc cách mạng XHCN nổ ra. V.I.Lê-nin đã vận dụng sáng tạo học thuyết của Mác để tiến hành cuộc cách mạng XHCN ở nước Nga.
Cuộc Cách mạng Tháng Mười năm 1917 đã giành chính quyền về tay giai cấp công nhân. Sau đó V.I.Lê-nin và Đảng Cộng sản (b) Nga đã chủ trương thực hiện chế độ cộng sản thời chiến nhằm đưa đất nước Xô-viết tiến thẳng lên CNXH. Nhưng sau hai năm, V.I.Lê-nin đã thẳng thắn và dũng cảm thừa nhận đó là một sai lầm về đường lối, phải đề ra chính sách kinh tế mới (NEP), thực chất là trở lại đúng với quy luật của sự vận động xã hội, đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật mà CNTB ở Nga trước đó còn quá non yếu chưa tạo ra.
Thực tiễn cách mạng Nga đã cho Nguyễn Ái Quốc những gợi ý quan trọng về con đường đi lên CNXH ở nước ta sau khi đã giành được độc lập. Năm 1925, Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội - tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam – ra đời, do Người sáng lập. Khi đề cập đến Chương trình hoạt động, Điều lệ của Hội đã xác định sẽ thành lập Chính phủ nhân dân; áp dụng những nguyên tắc “tân kinh tế chính sách” (chính sách kinh tế mới). Điều này cho thấy nhãn quan chính trị sâu sắc và tầm vóc lớn lao của Hồ Chí Minh, không những với tư cách là người khai phá con đường mà còn là người chỉ ra cả nội dung, phương pháp, bước đi lên của cuộc cách mạng XHCN ở nước ta sau khi đã giành được độc lập.
Cần nhấn mạnh rằng, Hồ Chí Minh trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh lịch sử và truyền thống văn hóa của Việt Nam, Người không vận dụng một cách máy móc bất chấp những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Việc xây dựng CNXH cũng vậy, Người ca ngợi một Liên Xô hùng mạnh. Người khuyến khích học tập tinh thần thi đua yêu nước và lao động sáng tạo của nhân dân Liên Xô nhưng Người sớm nhắc nhở Bộ Chính trị ngay từ năm 1954 khi nước ta mới tiến hành xây dựng CNXH ở miền Bắc rằng nếu trong xây dựng kinh tế, ta “làm trái với Liên Xô, đó cũng là mác-xít”(1). Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, quá trình tiến lên CNXH ở nước ta sẽ bao gồm những nội dung sau:
1. Phải tạo tiền đề chính trị cho cuộc cách mạng XHCN là giành độc lập, xây dựng chính quyền nhân dân do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản sẽ là điều kiện tiên quyết để có những bước đi thích hợp cho sự phát triển tiến lên theo con đường cách mạng XHCN. Vì vậy, Chương trình Việt Minh ghi rõ: “Sau khi đánh đuổi được đế quốc phát-xít Nhật, sẽ lập lên chính phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”(2). Trên thực tế, Nhà nước mới của Việt Nam sau cuộc Tổng tuyển cử toàn quốc (6-1-1946) đã được thành lập, tổ chức và hoạt động theo những chuẩn mực của một nhà nước pháp quyền. Những năm 70 của thế kỷ XX, Đảng ta mới dùng thuật ngữ nhà nước pháp quyền. Nhưng Hiến pháp năm 1946 và cách tổ chức, điều hành hoạt động của Nhà nước Việt Nam dưới thời Hồ Chí Minh làm Chủ tịch nước thực chất là khởi nguyên một nhà nước pháp quyền mà ngày nay Hiến pháp hiện hành của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi rõ: “Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân”.
2. Chế độ XHCN nhất thiết phải là một chế độ dân chủ thực sự của đa số, không phải chế độ dân chủ hình thức, dân chủ giả hiệu, dân chủ của số ít. Khi thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định chế độ dân chủ của nước ta nhất thiết không phải là chế độ dân chủ tư sản, nó phải là chế độ dân chủ của toàn thể nhân dân các dân tộc Việt Nam mà nòng cốt là giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Nhà nước dân chủ Việt Nam có ba tính chất cấu thành, đó là tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc. Bản Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc ngày 2-9-1945 khẳng định: “Chế độ mới bảo đảm cho người dân Việt Nam quyền bình đẳng, quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự do”. Một chế độ dân chủ như thế hoàn toàn không có ranh giới tuyệt đối giữa dân chủ nhân dân và dân chủ XHCN, có khác chăng chỉ ở mức độ và trình độ phát triển của nền dân chủ mà thôi.
3. Nếu quan niệm CNXH về thực chất phải là cuộc cách mạng xã hội trong đó nền công nghiệp và nông nghiệp đã được công nghiệp hóa, lực lượng sản xuất đã phát triển cao đòi hỏi phải xoá bỏ ngay chế độ tư hữu, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất thì nước ta chưa có những điều kiện ấy. Đối với Hồ Chí Minh, CNXH là một mục tiêu lý tưởng, một sự phấn đấu lâu dài, là con đường muôn dặm. Là một nhà biện chứng và nhà hoạt động thực tiễn, nên Người chủ trương không đốt cháy giai đoạn, không duy ý chí, bất chấp quy luật khách quan, vội vàng xây dựng CNXH không tính toán kỹ những đặc điểm kinh tế - xã hội và truyền thống văn hóa của nước nhà. Hồ Chí Minh công khai tuyên bố về xây dựng CNXH ở Việt Nam ngay từ năm 1946 khi Người trả lời một nhà báo nước ngoài: “Tất cả mọi người đều có quyền nghiên cứu một chủ nghĩa. Riêng tôi, tôi đã nghiên cứu Chủ nghĩa Mác... Muốn cho chủ nghĩa cộng sản thực hiện được, cần có kỹ nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình. Ở nước chúng tôi những điều kiện ấy chưa có đủ”(3). Đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là ở chỗ Người không đặt ra một bức trường thành, một ranh giới tuyệt đối để chờ đợi khi có đủ điều kiện mới nghĩ tới tiến hành xây dựng CNXH ở Việt Nam mà Người đã căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử và đặc điểm văn hóa dân tộc để đề ra những mục tiêu kết hợp ngay từ khởi đầu cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Việc giành chính quyền, xây dựng nhà nước pháp quyền, thiết lập nền dân chủ cộng hòa thực chất đã là định hướng XHCN. Trong suốt hai cuộc chiến tranh chống đế quốc và thực dân để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều nhất quyết một đường lối vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Trong đường lối kiến quốc, xây dựng nền kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra đặc điểm to nhất của nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, nhỏ, manh mún, lại chưa kinh qua giai đoạn phát triển TBCN nên “phải cải tạo và phát triển nông nghiệp thì mới có cơ sở để phát triển các ngành kinh tế khác..., để tạo điều kiện cho việc công nghiệp hóa nước nhà”(4). Người đã khẳng định: “Phải có một nền nông nghiệp phát triển thì công nghiệp mới có thể phát triển mạnh... nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh”(5). Đồng thời, Người nhấn mạnh: “Công nghiệp phát triển thì nông nghiệp mới phát triển. Cho nên công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi khoẻ và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích. Thế là thực hiện liên minh công nông để xây dựng CNXH, xây dựng đời sống ấm no sung sướng cho nhân dân”(6). Người cũng lưu ý phải phát triển thương nghiệp để lưu thông hàng hóa, phục vụ sản xuất và tiêu dùng, đồng thời từng bước mở rộng giao thương hợp tác cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi và tôn trọng chủ quyền của nhau.
4. Mục tiêu của CNXH, dù diễn đạt nhiều cách khác nhau thì về bản chất, ý nghĩa chân chính, đích thực của nó phải là cuộc phản kháng của con người chống lại cuộc sống mất nhân tính, là cuộc đấu tranh giải phóng con người khỏi mọi bất công và tàn bạo, là làm cho con người được tự do, bình đẳng và hạnh phúc. Mục tiêu cao đẹp ấy không phải là việc có thể thực hiện dễ dàng, có thể làm ngay. Theo Hồ Chí Minh, đó là con đường muôn dặm, phải từ hoàn cảnh của nước mình mà định ra chương trình kế hoạch chắc chắn, có biện pháp cụ thể, rồi quyết tâm lãnh đạo, đoàn kết nhân dân tiến dần lên một cách vững chắc. Phải làm cho nhân dân qua thực tiễn các phong trào cách mạng do Đảng lãnh đạo mà giác ngộ về CNXH, làm cho CNXH từ chỗ là mục tiêu, lý tưởng của Đảng trở thành nguyện vọng thiết tha và sự nghiệp của quảng đại quần chúng.
Chính vì vậy, sau Cách mạng Tháng Tám, khi chính quyền nhân dân còn trong trứng nước lại bị quân thù rắp tâm đánh đổ, Hồ Chí Minh đã lãnh đạo Chính phủ đề ra “Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” bao gồm sáu điểm để khắc phục những hậu quả của chế độ cũ để lại: Diệt giặc đói; diệt giặc dốt; tiến hành ngay cuộc Tổng tuyển cử toàn quốc để xây dựng Hiến pháp dân chủ (năm 1946); giáo dục lại cho nhân dân; bãi bỏ các loại thuế khóa vô nhân đạo do chế độ cũ quy định; tự do tín ngưỡng, lương, giáo đoàn kết.
Xã hội XHCN ở nước ta, theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phải là một xã hội trong đó mọi tầng lớp dân chúng, ai ai cũng được nâng cao cả về đời sống vật chất lẫn tinh thần. Nhà nước phải “làm cho người nghèo thì đủ ăn. Người đủ ăn thì khá giàu. Người khá giàu thì giàu thêm. Người nào cũng biết chữ. Người nào cũng biết đoàn kết, yêu nước”(7).
Bằng cách nói giản dị, mộc mạc, nhiều lần Người đã cụ thể hóa mục tiêu của CNXH ở nước ta một cách vắn tắt, dễ hiểu, thiết thực như sau: CNXH “là tất cả mọi người các dân tộc ngày càng ấm no, con cháu chúng ta ngày càng sung sướng”(8). CNXH “trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”(9). Tóm lại, CNXH là làm sao cho “nước giàu, dân mạnh”(10), “dân giàu, nước mạnh” (11) và “dân giàu, nước sang”(12).
5. CNXH phải thực hiện nguyên tắc công bằng xã hội. Hướng phát triển của CNXH là một xã hội mà mọi người đều thực sự bình đẳng về mọi phương diện, nhưng đó là vấn đề của tương lai, của chủ nghĩa cộng sản, còn trước tiên, ngay từ khi nắm được chính quyền thì phải khẳng định ban bố và thực hiện ngay quyền bình đẳng về chính trị: bình đẳng dân tộc, bình đẳng nam nữ, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Bình đẳng đi liền với tự do: Tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, tự do đi lại, tự do cư trú, tự do tín ngưỡng... Tất cả quyền tự do và bình đẳng đó đều được hiến định ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên (năm 1946) do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì soạn thảo.
Công bằng là nguyên tắc ứng xử và phân phối trong xã hội XHCN. Phân phối là khâu quan trọng của quan hệ sản xuất, nói lên bản chất của chế độ. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ tầm quan trọng của phân phối công bằng trong chế độ ta là: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng. Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”(13). Nhưng theo Người, công bằng không có nghĩa là cào bằng, là chấp nhận một chủ nghĩa bình quân, chia đều nhau sự lười biếng và nghèo khổ. Người nói: “Đồng cam cộng khổ là một tinh thần cần phải có, nhưng nếu bình quân chủ nghĩa thì lại không đúng. Bình quân chủ nghĩa là gì? Là ai cũng như ai, bằng hết... Bình quân chủ nghĩa là trái CNXH, thế là không đúng”(14). Phân phối công bằng theo Người là phân phối theo số lượng và chất lượng lao động. Do đó, nó còn là sự kích thích, động viên mọi người hăng hái thi đua học tập, nâng cao năng suất lao động, đồng thời trong nguyên tắc phân phối ấy lại phải có một phần để giải quyết chính sách xã hội - một biểu hiện tính ưu việt của CNXH. Người viết: “Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm thì không ăn, tất nhiên là trừ những người già cả, đau yếu, trẻ con”(15).
6. CNXH ở Việt Nam phải là một xã hội có văn hóa. Ngay sau khi thoát khỏi ách nô lệ, giành được chủ quyền quốc gia thì phải xây dựng một nền văn hóa mới theo tinh thần dân tộc và khoa học. Nghĩa là “phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”(16). Xây dựng nhân dân Việt Nam trở thành một dân tộc có nền văn hóa tiên tiến là tâm huyết suốt đời của nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh. Ngay từ khi còn trong nhà giam của Quốc dân Đảng (Trung Quốc), Người đã phác thảo “Năm điểm lớn xây dựng nền văn hóa dân tộc” gồm: “1) Xây dựng tâm lý: Tinh thần độc lập tự cường. 2) Xây dựng luân lý: Biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng. 3) Xây dựng xã hội: Mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội. 4) Xây dựng chính trị: Dân quyền. 5) Xây dựng kinh tế”(17). Xã hội XHCN ở Việt Nam phải là một xã hội có văn hóa, loại bỏ được hủ tục, thói hư tật xấu, sự nhu nhược, dốt nát, yếu hèn; phải xây dựng đời sống mới, làm cho từng người có văn hóa, từng nhà có văn hóa, từng làng có văn hóa. Hồ Chí Minh đã viết: “Do nhiều người nhóm lại mà thành làng. Do nhiều làng nhóm lại mà thành nước. Nếu người này cũng xấu, người kia cũng xấu, thì thành làng xấu, nước hèn. Nếu mỗi người đều tốt, thì thành làng tốt, nước mạnh. Người là gốc làng nước. Nếu mọi người đều cố gắng làm đúng đời sống mới, thì dân tộc nhất định sẽ phú cường”(18). Theo Người, đời sống mới của một người Việt Nam, bất kể giàu hay nghèo, già hay trẻ, gái hay trai, đều gồm mấy điểm:
“Về tinh thần, một là sốt sắng yêu Tổ quốc. Việc gì có lợi cho nước phải ra sức làm. Việc gì hại đến nước, phải hết sức tránh./ Hai là sẵn lòng công ích. Bất kỳ việc to việc nhỏ, có ích chung thì phải hăng hái làm.../ Ba là mình hơn người thì chớ kiêu căng./ Người hơn mình, thì chớ nịnh hót./ Thấy của người thì chớ tham lam./ Đối với mình thì chớ bủn xỉn./ Cách ăn mặc phải sạch sẽ, giản đơn, chất phác, chớ lượt thượt, xa xỉ, loè loẹt./ Cách làm việc phải siêng năng, có ngăn nắp, có tinh thần phụ trách, đã làm việc gì thì làm cho kỳ được, làm đến nơi đến chốn. Chớ làm dối./ Cách cư xử, đối với đồng bào thì nên thành thực, thân ái, sẵn lòng giúp đỡ./ Biết ham học... Biết rồi ta học thêm…/ Ai cũng làm như thế, thì tự nhiên nước Việt Nam ta trở nên một nước mới, một nước văn minh”(19).
7. Xây dựng CNXH không thể và không phải là công việc đơn giản, dễ dàng, nó là một sự nghiệp vĩ đại đòi hỏi phải vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ nhưng nếu toàn dân đồng tình, đồng tâm hiệp lực thì nhất định thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải thích: “Biến đổi một xã hội cũ thành một xã hội mới, không phải là chuyện dễ. Nhưng đó là khó khăn trong sự trưởng thành. Toàn Đảng, toàn dân đồng sức, đồng lòng thì khó khăn gì cũng nhất định khắc phục được”(20). Nhiều lần Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói, CNXH không phải từ trên trời rơi xuống, nó cũng không phải được xây nên bởi những con người vị kỷ, gian manh, mánh khóe và lừa lọc, nó cũng không thể xây nên bằng những người kém hiểu biết mà lại luôn luôn “nhiệt tình bằng đầu óc” mà không có “đầu óc của nhiệt tình” (theo cách nói của C.Mác). Khi nói chuyện với Đại hội Đảng bộ TP. Hà Nội (năm 1960), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Muốn xây dựng CNXH, phải có con người XHCN và có tư tưởng XHCN”(21).
Con người XHCN phải có đức, có tài, nghĩa là phải “vững về chính trị, giỏi về chuyên môn”, là con người “hồng thắm chuyên sâu”. Tư tưởng XHCN là sự giác ngộ về lý tưởng cách mạng, tận trung với nước, tận hiếu với dân. Trên thế giới đã từng có một Liên Xô hùng vĩ, nối liền với các nước Đông âu thành một hệ thống như là hiện thân lý tưởng của CNXH, nhưng rồi vì nhiều lý do nên không còn nữa. Nhưng Việt Nam vẫn kiên trì con đường độc lập, tự do gắn với CNXH như một sự lựa chọn tất yếu. Thực tiễn trong quá trình đổi mới và phát triển đã chứng minh tính đúng đắn của CNXH ở Việt Nam. Năm 1956, khi nói chuyện với các nhà sư phạm ở Hà Nội về con đường tiến lên CNXH ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán, có lịch sử địa lý khác… ta thấy ta có thể đi con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội”(22)
-----
- HồChíMinh,Biênniêntiểusử,NXB CTQG, H.1995, tập 5, tr .572. (2, 17) Hồ Chí Minh toàn tập, H.2011, tập 3, tr .629, tr .458. (3, 16) Sách đã dẫn (sđd), tập 4, tr .315, tr .7. (4, 5, 9, 21) Sđd, tập 12, tr .8, tr .413, tr .415, tr .12. (6, 8, 20) Sđd, tập 13, tr .376, tr .78, tr .8. (7, 18, 19) Sđd, tập 5, tr .81, tr .116, tr .117-118. (10, 12) Sđd, tập 7, tr .552, tr .348. (11) Sđd, tập 1, tr .560. (13) Sđd, tập 15, tr .224. (14, 15, 22) Sđd, tập 10, tr .583, tr .14, tr .391.
Kỳ 4: Giá trị minh triết của dân tộc trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
1.Minh triết và giá trị minh triết kinh tế trong văn hóa truyền thống Việt Nam. Minh triết là gì? Theo nghĩa Hán Việt, minh triết chỉ sự hiểu biết sâu rộng, hoặc hành động khôn ngoan nào đó của con người, sự vật, sự kiện hoặc hoàn cảnh, kết quả của khả năng lựa chọn, hành động để tạo ra kết quả tốt nhất với thời gian và năng lượng ít nhất. Người minh triết là người có khả năng nhận thức được đúng hay sai, đi liền với các đánh giá về hành động thực tế. Minh triết cũng được coi là từ đồng nghĩa với thông thái, sáng suốt, thông tuệ. Từ điển Hán - Việt của học giả Đào Duy Anh định nghĩa từ kinh tế như sau: “Nguyên là chữ kinh bang tế thế, là sửa nước cứu đời, hoặc kinh thế, tế dân, là trị đời, giúp dân. Sau người Nhật dùng với nghĩa mới để dịch chữ économie của Tây. Ngày nay phàm cái gì có quan hệ đến việc lợi dụng hậu sinh (sự dồi dào của đời sống) đều gọi là kinh tế”. Từ điển Hán - Việt của GS. Nguyễn Lân cũng có định nghĩa tương tự: “Kinh tế: cứu giúp. Do câu kinh bang tế thế, có nghĩa là trị nước, cứu đời, người Nhật dùng để chỉ từ economie của phương Tây”.
Một học giả nổi tiếng của Việt Nam thời cận đại - ông Đặng Huy Trứ (1825-1874) là một vị quan thanh liêm, nhà Nho, trí thức yêu nước chân chính. Những việc ông làm đã nêu tấm gương “liêm cần” trong chốn quan trường. Ông lo tự cường dân nước, đánh đuổi bọn ngoại xâm, khôi phục lại độc lập, chủ quyền cho đất nước. ông đã có tư tưởng kinh tế rất minh triết. ông là người Việt Nam đầu tiên đặt ra và giải quyết vấn đề đạo đức của những người làm kinh tế dưới thời nhà Nguyễn. ông viết: “Làm ra của cải là một đạo lý lớn không được coi thường”. Đó là vấn đề quan hệ giữa lợi ích và đạo đức, giữa lợi ích kinh tế và đạo tâm trong sáng mà người làm kinh tế phải giữ.
Về quan hệ giao thương, hội nhập, câu đối sau đây của ông cho tới nay vẫn có một ý nghĩa minh triết đáng trân trọng, giữ gìn: “Lợi lộ tứ phương tuy quảng khoát/ Đạo tâm nhất phiến mỗi căng trì” (nghĩa là: Đường lợi bốn phương tuy rộng mở, đạo tâm một tấm chẳng thể suy vi). Đặng Huy Trứ coi trọng dân: “Dân vi quý”, suốt đời vì dân, tư tưởng thân dân của ông mang tính nhân văn - nhân bản cao cả.
Như vậy, trong văn hóa truyền thống của người Việt Nam hai chữ kinh tế có hồn, cốt, tinh hoa minh triết giúp nước, cứu đời, cứu dân. ích lợi của kinh tế là hướng tới những mục tiêu cộng đồng - dân tộc - xã hội - con người. Không thể và không chỉ là hoạt động sinh lợi đơn thuần, hoặc chỉ là đạt tới một lượng của cải dồi dào, một lượng tiền nhiều, nhiều hơn nữa cho một số người.
2.CNXH ở Việt Nam với tư cách là một chế độ nên việc xây dựng nền kinh thị trường của ta tất yếu phải mang tính định hướng XHCN. Định hướng ấy phù hợp với tinh thần dân tộc vốn có giá trị minh triết giúp nước, cứu đời, cứu dân. Nền kinh tế thị trường ở chế độ nào cũng đều làm giàu, tìm kiếm sao cho có nhiều lợi nhuận. Nghĩa là làm sao có nhiều tiền của. Nhưng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của ta có sự khác biệt, chế độ ta không cho phép doanh nghiệp có thể kinh doanh vô đạo, tham lam vô sỉ, đê tiện, kiếm tiền bằng bất cứ giá nào như C.Mác đã nói: “Tiền biến trung thành phản, yêu thành ghét, ghét thành yêu, đức hạnh thành thói xấu, thói xấu thành đức hạnh, tớ thành chủ, chủ thành tớ, ngu thành khôn, khôn thành ngu..., cho nên nó là sự lẫn lộn phổ biến và sự thay thế phổ biến mọi sự vật, nghĩa là thế giới lộn ngược, là sự lẫn lộn và sự thay thế tất cả những phẩm chất tự nhiên có tính người”(1).
Nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của KTTT, đồng thời, bảo đảm định hướng XHCN, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.
Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội”(2)…
“Chuyển mạnh từ chủ yếu dựa vào xuất khẩu và vốn đầu tư sang phát triển đồng thời dựa cả vào vốn đầu tư, xuất khẩu và thị trường trong nước. Phát huy vai trò quyết định của nội lực, đồng thời, thu hút, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài; phát huy đầy đủ, đúng đắn vai trò của doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp FDI và khu vực sản xuất nông nghiệp”(3)...
Kể từ sau khi gia nhập WTo (ngày 11-1-2007), nền kinh tế Việt Nam có những bước tăng trưởng khá, đời sống của nhân dân được cải thiện, chúng ta đã bước vào giai đoạn hội nhập trực tiếp với nền văn minh công nghiệp và giao thương có tính toàn cầu. Nhưng chúng ta không thể bỏ qua một thực tế là từ khi bước vào thời đại văn minh công nghiệp hiện đại tới nay, thế giới của chúng ta vẫn chưa thoát khỏi: “Lòng tham lam đê tiện là linh hồn của thời đại văn minh từ ngày đầu của thời đại ấy cho đến tận ngày nay; giàu có, giàu có nữa và luôn luôn giàu có thêm. Không phải là sự giàu có của xã hội, mà là sự giàu có của cá nhân riêng rẽ nhỏ nhen đó là mục tiêu quyết định duy nhất của thời đại văn minh, văn minh của chủ nghĩa tư bản”(4). Vì vậy muốn đạt tới sự giàu có, văn minh như ước vọng vô cùng tốt đẹp của Đảng ta thì nền KTTT định hướng XHCN phải khắc phục được vấn nạn nói trên. Nghĩa là phải hướng kinh tế vào phục vụ con người, cộng đồng, phải gia tăng tính ĐẠO LỚN – TÍNH NGƯỜI - một giá trị minh triết truyền thống của dân tộc - trong đó có đạo lý và pháp lý - cho tất cả những ai muốn dấn thân vào con đường kinh doanh làm giàu. Làm giàu không chỉ cho mình, vì mình với bất cứ giá nào mà còn phải vì “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó là một trong những vấn đề cơ bản và đang có tính cấp bách của xã hội chúng ta hiện nay.
3.Mỗi thời đại kinh tế đều sản sinh ra đội ngũ doanh nhân với những phẩm chất và tài năng phù hợp với thời đại. Nền KTTT hiện đại đã hình thành và phát triển cho đến nay đã trên 300 năm, trong đó thời đại kinh tế công nghiệp kéo dài từ cuối thế kỷ 18 đến cuối thế kỷ 20. Thế hệ doanh nhân ấy đã tạo ra và tích luỹ cho họ một số lượng của cải khổng lồ, làm cho CNTB phát triển nhưng phải trả những cái giá quá đắt về mặt xã hội và môi trường mà nhân loại phải gánh chịu. Đồng thời, họ cũng tạo ra tiền đề về nhiều mặt để chuyển sang cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ tư (4.0), thời đại kinh tế mới được gọi là nền kinh tế số hóa, kinh tế tri thức với những đặc điểm là: Vốn tri thức và đội ngũ những nhà khoa học - kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất mới, giữ vai trò quyết định sự phát triển của kinh tế - xã hội; thành thế mạnh cạnh tranh trên toàn cầu. Do đó, mục tiêu kinh doanh đang chuyển từ tăng trưởng của cải là ưu tiên số một, là ưu tiên hàng đầu sang kết hợp giữa tăng trưởng vật chất (của cải) và phát triển con người. Sự phát triển con người trong KTTT hiện tại đang phải chuyển mạnh từ con người kinh tế sang con người văn hóa, con người khoa học và kỹ thuật. Sự phát triển này đã tạo ra sự biến đổi lớn lao chưa từng có trong quan hệ quốc tế là hợp tác cùng có lợi, vì vậy toàn cầu hóa đang diễn ra như một xu thế tất yếu của lịch sử. Tính khách quan này đòi hỏi sự ra đời của một thế hệ doanh nhân mới với những phẩm chất và năng lực hoàn toàn mới. Rõ ràng đội ngũ doanh nhân như thế của Việt Nam mới chỉ phôi thai, đang cần sự nuôi dưỡng và phát triển về nhiều mặt.
Nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta trong vài thập niên vừa qua xác định vai trò của doanh nhân như một đạo quân chủ lực để xây dựng và phát triển kinh tế. Do đó, đội ngũ doanh nhân Việt Nam đã có bước trưởng thành đáng kể và họ đã có những đóng góp quan trọng. Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu phát triển kinh tế đất nước theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế hiện nay và trong nhiều năm tới thì đội ngũ doanh nhân nước ta còn non yếu, có nhiều bất cập. Do đó, việc xây dựng năng lực và nhân cách, nói gọn là xây dựng bản lĩnh, ước vọng và khát khao cống hiến của đội ngũ doanh nhân Việt Nam đang là đòi hỏi hết sức cấp bách. Có thể khẳng định sự trưởng thành của họ giữ vai trò là đội quân chủ lực góp vào sự thành bại trong quá trình công nghiệp hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của nước nhà.
Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình CNH, HĐH. Bản thân nó vẫn còn đang trong tình trạng yếu kém về khoa học - công nghệ, kỹ thuật, quản lý, luật pháp và kinh nghiệm giao thương quốc tế cả ở tầm vĩ mô và vi mô cùng với hiện tượng suy thoái về đạo đức trong kinh tế, kinh doanh, quản lý đất nước và trong đời sống xã hội. Do xu thế khách quan tất yếu buộc phải gia nhập ngay nền kinh tế thị trường, toàn cầu hóa thì đây quả là một vấn đề lớn của đất nước mà việc vận dụng những giá trị minh triết Việt vào xây dựng nhân cách doanh nhân Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế là hết sức cấp thiết. Nó có ý nghĩa như tìm về nguồn lực nội sinh tiềm tàng của dân tộc tựa như 100 năm về trước Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi hãy biết phát huy sức mạnh tinh thần của nền văn hóa dân tộc mà đem sức ta giải phóng cho ta.
Trong khi Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương “Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, chuyển mạnh nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên cơ sở tăng năng suất, tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực để nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, phát triển các ngành, lĩnh vực, các doanh nghiệp trên nền tảng ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu của khoa học - công nghệ, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; phát triển các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản phẩm công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường, tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu”, thì việc nghiên cứu vận dụng những giá trị minh triết Việt không chỉ có ý nghĩa cụ thể trong việc xây dựng nhân cách doanh nhân mà nó còn góp phần vào việc xây dựng tư tưởng - chính trị - đạo đức trong các cơ quan của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, nó sẽ góp phần không nhỏ vào việc giáo dục toàn xã hội, làm cho kinh tế phát triển thì “cái tốt nở hoa, cái xấu mất dần đi”… làm cho “dân giàu, nước mạnh” và “dân giàu, nước sang” như Bác Hồ từng căn dặn. Rõ ràng nền kinh tế và minh triết - an sinh xã hội luôn gắn với nhau, là điều kiện và tạo tiền đề cho nhau cùng tồn tại và phát triển. Nó là một thể thống nhất và nó phải trở thành bản chất của nền KTTT định hướng XHCN của nước ta hiện nay và trong tương lai.
-----
(1), (4) Mác và Ăng-ghen tuyển tập, NXB ST, H.1980, tập 1, tr .135; tập 6, tr .271. (2), (3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016.
Kỳ 5: Xây dựng người Việt Nam trong giai đoạn mới để biến khát vọng thành hiện thực
C.Mác bằng thiên tài khoa học của mình đã chỉ ra quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội sẽ dẫn đến xã hội XHCN như là quá trình phát triển của tự nhiên. ông cũng đã chỉ ra một cách khoa học về con đường để đi tới mục tiêu. Nhưng chính ông đã có một phát hiện quan trọng về vai trò của con người trong sự phát triển tự nhiên ấy. Phát hiện của ông được ghi vào Từ điển danh ngôn như sau: “Lịch sử không làm gì cả, nó không tạo ra vô vàn của cải, nó không chiến đấu. Chính con người, con người thật sự đang sống, đã làm tất cả những điều đó”. Và chính “bản thân xã hội sản xuất ra con người với tính cách là con người như thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội như thế”(1).
Người Việt Nam đang sống ở thời đại cách mạng 4.0. Thời đại nào cũng có những yêu cầu riêng phụ thuộc vào yêu cầu sản xuất, quản lý xã hội ở thời kỳ đó. Nếu chúng ta không nỗ lực mau chóng vươn lên khắc phục tình trạng yếu kém hiện nay thì những mục tiêu mà Đại hội XIII của Đảng đề ra chỉ là viễn tưởng. Thực trạng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam hiện nay đã được Đại hội XIII của Đảng đánh giá khái quát như sau: “Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN còn nhiều vướng mắc, bất cập chưa được tháo gỡ. Năng lực xây dựng thể chế còn hạn chế; chất lượng luật pháp và chính sách còn thấp. Môi trường đầu tư kinh doanh chưa thực sự thông thoáng, minh bạch. Chưa tạo được đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển. Thể chế phát triển, điều phối kinh tế vùng chưa được quan tâm và chậm được cụ thể hóa bằng pháp luật nên liên kết vùng còn lỏng lẻo.
Năng lực và trình độ công nghệ của nền kinh tế còn thấp. Công nghiệp vẫn chủ yếu gia công, lắp ráp, giá trị gia tăng không cao; công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm, tỉ lệ nội địa hoá thấp, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu hiệu quả còn hạn chế; tốc độ tăng trưởng nông nghiệp chậm lại; chất lượng nhiều dịch vụ thấp.
Nhiều doanh nghiệp nhà nước thực hiện tái cơ cấu và đổi mới cơ chế quản trị còn chậm; thoái vốn, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước còn gặp vướng mắc cả về thể chế và tổ chức thực hiện; hiệu quả sản xuất, kinh doanh còn thấp; tình trạng nợ, thua lỗ, lãng phí còn lớn; tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, giải ngân đầu tư công còn hạn chế. Phần lớn doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ, trình độ công nghệ thấp, năng lực tài chính và quản trị yếu. Nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài công nghệ trung bình, gia công, lắp ráp, thiếu gắn kết, chuyển giao công nghệ, thúc đẩy doanh nghiệp trong nước phát triển. Kinh tế hợp tác phát triển yếu, kinh tế tập thể chưa làm tốt vai trò liên kết, hỗ trợ kinh tế hộ. Thực hiện cơ chế giá thị trường đối với một số hàng hoá, dịch vụ công còn lúng túng. Một số loại thị trường, phương thức giao dịch thị trường hiện đại chậm hình thành và phát triển, vận hành còn nhiều vướng mắc, chưa hiệu quả, nhất là thị trường các yếu tố sản xuất. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội phát triển thiếu đồng bộ”... Nhìn thẳng vào sự thật để tìm cách khắc phục là thái độ tích cực, khiêm nhường và thông minh đúng như V.I.Lê-nin đã từng nhắc lại lời của Ph.ăng-ghen, đại ý rằng: Cái gì có thể áp dụng đối với cá nhân con người, thì tuy mức độ có khác nhau, cũng có thể áp dụng vào chính trị và các chính đảng được. Người thông minh không phải là người không phạm sai lầm. Không có và không thể có những người không phạm sai lầm. Người phạm sai lầm, biết nhanh chóng nhận ra sai lầm, tìm nguyên nhân và đề ra chủ trương, biện pháp khắc phục có hiệu quả là người thông minh. Sự vĩ đại của vĩ nhân và các chính đảng được sản sinh chính từ sự thông minh ấy.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định CNXH không phải từ trên trời rơi xuống. CNXH là chế độ xã hội do nhân dân tin tưởng và cùng đồng lòng xây dựng. Muốn có CNXH thì nhất thiết phải có con người XHCN. Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, con người XHCN có hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau. Nó vừa kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp của quá khứ, vừa có những phẩm chất mới đáp ứng những yêu cầu mới mà thời họ đang sống đòi hỏi.
Điều quan trọng nhất hiện nay là vấn đề giáo dục đạo đức, nhân cách và khát khao cống hiến cho lớp người trung niên và thanh thiếu niên - những người đã, đang và sẽ tiếp nối gánh vác sự nghiệp cách mạng của đất nước. Trước tiên là vấn đề tôn trọng quá khứ, chúng ta không được phép quên quá khứ anh dũng, đau thương và quật cường của dân tộc, phải biết ơn sự hy sinh của các thế hệ trước đã để lại cho ta cuộc sống hôm nay. Do vậy phải biểu thị lòng biết ơn ấy bằng sự khát khao cống hiến, phấn đấu để phát huy truyền thống làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi, phải như Bác Hồ đã dạy thế hệ sau phải hơn thế hệ trước, “con hơn cha là nhà có phúc” và theo như lời khuyên của C.Mác là thế hệ sau phải biết đứng lên vai thế hệ trước mà tiến lên. Vấn đề quan trọng nhất là lực lượng giáo dục: Gia đình (các bậc cha mẹ, anh chị), xã hội (cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, các tổ chức xã hội, đặc biệt là Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ), nhà trường (các nhà quản lý giáo dục, nhà giáo). Tất cả lực lượng giáo dục ấy cần phải ghi nhớ lời dạy của C.Mác: Đã đến lúc các nhà giáo dục cũng cần phải giáo dục, nghĩa là phải tự chỉnh đốn để làm gương và đủ khả năng giáo dục cho thế hệ mới một cách thuyết phục.
Thứ hai, phải nâng cao lòng tự hào, lòng tự trọng và biết xấu hổ. Tự hào thể hiện ở sự hãnh diện, mãn nguyện về cái mà nhân dân, dân tộc mình đã làm được và những thành tựu mà ta đang có. Tự hào để tiếp tục nuôi khát vọng, để vượt cao hơn chính mình, nỗ lực vươn lên những đỉnh cao mới. Tự hào đúng mực đòi hỏi một sự tự trọng và khiêm nhường. Nếu tự hào quá mức hoặc không đúng thì lại là sự hợm hĩnh, phô trương, kiêu ngạo và lố bịch. Tự trọng và xấu hổ là hai khái niệm gần như đồng nghĩa. Nó đều là loại tự ý thức về nhân cách của mình, về danh dự, phẩm giá của mình. Nó là cái tiềm ẩn ở trong mỗi con người cũng như mỗi dân tộc. Tự trọng làm cho người ta tự biết những giá trị tốt đẹp đích thực của mình để giữ gìn, trân trọng và phát huy. Tự trọng bao giờ cũng đi liền với sự khiêm nhường, có chừng mực, biết đánh giá đúng mình và đúng người, biết nhận ra những cái lố bịch, xấu xa, hèn kém của bản thân, làm cho người ta tự hào đúng mực về cái mình có, tự hổ thẹn về sự thấp hèn, yếu kém của chính mình. Và chính vì thế mà từ sâu thẳm trong tâm hồn con người ta toát ra một sức mạnh, một ý chí vươn lên. Tự trọng khác tự hào. Tự hào thể hiện ở sự hãnh diện, mãn nguyện về cái mình đã làm được, cái mình đang có. Tự hào đúng mực đòi hỏi một sự tự trọng; nếu tự hào quá mức, hoặc không đúng thì lại là sự hợm hĩnh, phô trương, kiêu ngạo và lố bịch, lại là tự hạ thấp mình mà không biết xấu hổ. C.Mác viết: “… Tính tự cao, tự đại của tư duy… bao giờ cũng đi song song với sự phiến diện và tính tự hạ mình của hiện thực”(2). Một con người cũng như một dân tộc cần phải biết tự hào và tự trọng, lại càng cần đề phòng thừa lòng tự hào - tự hào quá mức, không đúng và thiếu lòng tự trọng. Vì thừa hay thiếu đều kệch cỡm, đáng xấu hổ.
Theo C.Mác, làm cách mạng phải biết tự hào, tự trọng và xấu hổ. Trong thư gửi ru-giơ, ông đã viết về tình trạng nước Đức năm 1843 như sau: “… Nước Đức đã lún sâu hơn. Bạn hãy tin rằng kẻ ít cảm thấy tự hào dân tộc nhất cũng không thể không lấy đó làm điều quốc sỉ… Đây là một sự thật ít ra cũng phơi trần trước mắt chúng ta sự trống rỗng của chủ nghĩa yêu nước của chúng ta, cái thân hình quái dị của chế độ nhà nước chúng ta và buộc chúng ta phải che mặt lại vì xấu hổ…”, “… xấu hổ là một loại cách mạng… xấu hổ là một loại nổi giận nhưng chỉ hướng vào bên trong. Và nếu như cả một dân tộc thực sự cảm thấy xấu hổ thì nó sẽ giống như một con sư tử thu mình lại để chuẩn bị nhảy”(3).
Tổ quốc ta, nhân dân ta vì có lòng tự hào dân tộc, tự trọng về danh dự và phẩm giá của mình và biết xấu hổ vì bị mất nước, bị làm nô lệ, bị nghèo nàn, lạc hậu mà vùng đứng lên làm cách mạng - cách mạng dân tộc dân chủ, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng dựng xây, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam. Chúng ta đã biết “thu mình lại” và cũng đã biết “vùng dậy”. Chúng ta đã “nhảy” và sẽ còn có những bước “nhảy” mạnh hơn, tiến xa hơn để mau tới đích: Dân tộc ta thật giàu, nước ta thật mạnh, xã hội ta thật công bằng, dân chủ, văn minh để tiến tới đài vinh quang, sánh vai với các cường quốc năm châu như Bác Hồ mong muốn, nếu như mỗi người chúng ta ai ai cũng đều biết tự trọng và biết xấu hổ khi làm những việc mất nhân tính như tham nhũng, chạy chức, chạy quyền, chạy bằng cấp, học hàm, học vị, chạy quan hệ và chạy tội, si mê quyền lực, tranh giành chức vị, bổng lộc, lãng phí, quan liêu, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Về phương diện khoa học và công nghệ, trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, chúng ta càng cần phải biết xấu hổ vì mình mang danh là một dân tộc anh hùng, bất khuất, có một nền văn hiến đã lâu mà hiện nay vẫn đang còn lạc hậu, chạy theo vết xe công nghệ cũ của thế giới…
Thiết nghĩ, biết tự trọng và biết xấu hổ chính là cách chúng ta biểu lộ lòng trung thành tuyệt đối với Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và cũng là cách chúng ta tỏ lòng thành kính, biết ơn các vị tiền nhân, các anh hùng, liệt sĩ và tất cả những ai đã đổ máu xương, mồ hôi, nước mắt để có một Việt Nam ngày nay. Sự dối trá, lừa mị, nói không đi đôi với làm, nói một đằng làm một nẻo, nói ít làm nhiều đó chính là thiếu tự trọng và rất đáng xấu hổ mà mỗi chúng ta đang cần, rất cần khắc phục để góp sức mình đưa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào cuộc sống.
Thứ ba, phải nuôi dưỡng chí khí cách mạng. Cách mạng là “sự phản kháng của con người chống lại cuộc sống mất nhân tính”. Một điều hiển nhiên là lịch sử phát triển của loài người từ trước tới nay đều tiến lên thông qua các cuộc cách mạng. Theo C.Mác, để hiểu được khái niệm “cách mạng” chúng ta phải “đứng trên quan điểm chỉnh thể” mà thấy rằng, dù cuộc cách mạng ấy chỉ diễn ra ở một địa phương, một lĩnh vực thì ý nghĩa chân chính và đích thực của nó cũng đều là “sự phản kháng của con người chống lại cuộc sống mất nhân tính”; là sự phản kháng của cộng đồng chân chính chống lại sự bất công, tàn bạo đối với con người, chống lại những gì hạ thấp phẩm giá của con người. C.Mác khẳng định: “Mỗi cuộc cách mạng đều phá hủy xã hội cũ và vì thế nó mang tính chất xã hội. Mỗi cuộc cách mạng đều lật đổ chính quyền cũ và bởi vậy nó có tính chất chính trị”(4). Cách mạng chính trị dù vô cùng quan trọng nhưng mới chỉ lật đổ chính quyền cũ của giai cấp này, thiết lập chính quyền mới của giai cấp khác. Việc lật đổ xã hội cũ, thiết lập xã hội mới theo đường lối của giai cấp công nhân, tức là làm cuộc cách mạng XHCN thì theo C.Mác, sau này cả V.I.Lê-nin và Chủ tịch Hồ Chí Minh, việc giành được chính quyền mới chỉ là bước đầu trên con đường muôn dặm để chống lại cuộc sống mất nhân tính, hay nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh là chống lại cái ác, trước tiên là chống lại cái mất nhân tính từ trong bản thân mình. Điều đó có nghĩa là đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân sẽ đứng trước những trở lực mới, nhiều khi lại là những chướng ngại từ bên trong, thậm chí là kẻ thù ở bên trong: Chủ nghĩa cá nhân. C.Mác chỉ ra rằng: “Giai cấp nào vừa giành được chính quyền “cũng đều dựng lên những chướng ngại của chính mình trước khi kịp vượt qua những chướng ngại trước mặt mình, cũng đều biểu lộ cái bản chất nhẫn tâm của mình trước khi biểu lộ cái bản chất độ lượng của mình. Lời dạy này của C.Mác đã giúp ta hiểu rõ hơn câu nói ngắn gọn mà thâm thúy của Chủ tịch Hồ Chí Minh rằng: Muốn cách mạng, mạng phải cách, muốn làm cách mạng thì trước hết phải cải tạo tâm tính của bản thân mình. Những chướng ngại của chính mình rất dễ làm ta bị dừng bước, thậm chí thất bại trước những chướng ngại trước mặt và do đấy sẽ làm cho “mỗi lĩnh vực của xã hội công dân cũng đều nếm mùi thất bại trước khi kịp ăn mừng thắng lợi của mình”(5).
Điều này đã được Nghị quyết Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam minh chứng bằng Báo cáo tổng kết tình hình đất nước ta sau 10 năm giành thắng lợi và chỉ ra những bài học cần ghi nhớ.
Nhờ đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào sự thật, thấy rõ những “chướng ngại của chính mình”, liên tục tìm cách khắc phục những sai lầm cũ rồi trong sự phát triển lại phải khắc phục những sai lầm nghiêm trọng mới như 3 Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII và XIII) đã chỉ ra. Sau hơn 35 năm đổi mới, rất nhiều “chướng ngại trước mặt mình” đã được vượt qua, những thắng lợi giành được thật to lớn!
Bài học rút ra từ lời dạy của C.Mác và kinh nghiệm thực tiễn của Đảng ta là: Sau một chặng đường đấu tranh giành thắng lợi dù vĩ đại đến đâu thì chủ thể của những thành tựu ấy bao giờ cũng lại đứng trước những chướng ngại mới của chính mình và tiếp tục gặp không ít những chướng ngại mới trước mặt. Sự thách đố của lịch sử là ở chỗ chủ thể ấy có biết “thắng không kiêu, bại không nản” mà nhận ra và có khả năng vượt qua được những chướng ngại của chính mình hay không? Nếu không biết vượt qua được chính mình thì mỗi bước đi lại thêm khốn đốn. Vượt qua chướng ngại của chính mình là điều tiên quyết để vượt qua chướng ngại trước mặt.
Lịch sử phát triển theo đường xoáy ốc, nó sẽ lặp lại ở một trình độ cao hơn, tinh vi và phức tạp hơn. Sau hơn 35 năm đổi mới, cùng với những thành tựu to lớn là những “chướng ngại mới của chính mình”, những trở lực, nguy cơ và thách thức mà Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: Nhận thức, triển khai đổi mới tổ chức bộ máy một số cơ quan Trung ương và địa phương chưa đều, chưa thật đồng bộ. Công tác cán bộ còn có mặt hạn chế, việc thực hiện một số nội dung trong các khâu của công tác cán bộ ở một số nơi còn hình thức. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, “lợi ích nhóm”, bệnh lãng phí, vô cảm, bệnh thành tích ở một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi. Những chướng ngại trước mắt không nhỏ và còn nhiều, nhưng tin tưởng: Không chướng ngại nào mà những người cộng sản chân chính không thể vượt qua bởi họ đã biết nhận ra chướng ngại của chính mình. Vấn đề là ở chỗ họ biết đoàn kết, có nhiệt tình và dũng cảm vượt qua.
Nhiệt tình tựa như ngọn lửa bùng cháy, là động lực của tất cả. Ở đây là vấn đề quan hệ giữa lý trí và tình cảm. Nói đến lý trí là nói tới sự hiểu biết, đến nắm vững chân lý khoa học, đến lý tưởng, đến tri thức của thời đại, do đó con người mới có tự do trong hành động, sáng tạo. Lý trí và tình cảm hòa quyện với nhau trở thành đời sống lý tưởng của con người, thành niềm tin sắt son của con người, nó làm cho con người có tình yêu thương lớn, sự dũng cảm lớn và sự trung thành; nó nâng đỡ tinh thần con người, giúp con người vượt qua mọi cám dỗ của tiền bạc, danh vọng, tôn trọng phẩm giá con người để sống cao thượng. Tất cả những cái đó làm cho con người luôn luôn phấn đấu, luôn học hỏi và say mê sáng tạo. Chỉ có như vậy đất nước ta, dân tộc ta, Đảng ta mới có những thế hệ tiếp nối vừa giỏi về khoa học công nghệ, vừa có tình yêu Tổ quốc và Nhân dân, họ xứng đáng đứng trong hàng ngũ của những người đấu tranh chống lại những cái mất nhân tính của thời đại hiện nay, biến khát vọng về một đất nước Việt Nam phát triển phồn vinh, hạnh phúc trở thành hiện thực.
-----
(1) C.Mác và Ph.Ăng-ghen toàn tập, NXB Sự thật, H.1995, tập 3, tr .55. (2), (3), (4), (5) C.Mác và Ph.Ăng-ghen toàn tập, NXB Sự thật, H.1978, tập 1, tr .553; tr .488; tr .585-586, tr .559.