Đ/c Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Dân vận Trung ương và đ/c Phạm Bình Minh, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao trao Giải B cho các tác giả, nhóm tác giả.
KỲ 1:Các mối quan hệ lớn được Đảng ta xác định trong Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và văn kiện Đại hội XII chứa đựng những vấn đề có tính quy luật của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phản ánh sự sáng tạo lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, là cơ sở cho nhận diện các mâu thuẫn, thách thức phải hóa giải khi hoạch định đường lối và phương pháp cách mạng. Công cuộc đổi mới những năm tới đòi hỏi phải nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn đã được xác định, đồng thời cần tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để bổ sung các mối quan hệ mới, trong đó có mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.
Sự phát triển nhận thức về các mối quan hệ lớn
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn - lý luận 25 năm đổi mới (1986 - 2011), 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991 - 2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) là sự kết tinh trí tuệ, bản lĩnh cách mạng và tầm nhìn của Đảng, là ngọn cờ lý luận dẫn dắt dân tộc ta bước vào thế kỷ XXI. Để thực hiện các phương hướng lớn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Cương lĩnh năm 2011 lần đầu tiên xác định phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn, gồm: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Tám mối quan hệ lớn là những vấn đề hệ trọng, phản ánh và hàm chứa những vấn đề có tính quy luật về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Việc nhận diện tám mối quan hệ lớn, tồn tại khách quan trong chiều sâu phức hợp sự vận động, biến đổi không ngừng, cùng các mối liên hệ, tác động đa dạng, đa chiều giữa các yếu tố, bộ phận cấu thành, các mặt đối lập vốn có trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, chưa có tiền lệ trong lịch sử, là một bước tiến mới, quan trọng về lý luận chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Từ nhận diện, Đảng ta nhận thức rõ, nắm vững bản chất để xử lý tốt các mối quan hệ lớn và vận dụng vào chỉ đạo, tổ chức thực tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta trong từng giai đoạn phù hợp với quy luật phát triển, với xu thế của thời đại và thế giới đương đại.
C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V.I. Lê-nin kiên quyết bác bỏ quan điểm cho rằng chủ nghĩa xã hội là nhất thành bất biến. “Không ngừng đổi mới là bản chất của chủ nghĩa xã hội, là quy luật tồn tại, phát triển, đồng thời là nguyên lý tự bảo vệ của chủ nghĩa xã hội”(1). Nằm trong quy luật chung, các mối quan hệ lớn cũng luôn vận động, biến đổi không ngừng. Mỗi thời kỳ lịch sử, mỗi giai đoạn phát triển, các mối quan hệ lớn đều có sự biến đổi trong tự thân và biểu hiện ra bên ngoài mối liên hệ với các mối quan hệ lớn khác, bằng sự thay thế, mất đi hay bổ sung những đặc tính, trạng thái, thành tố khác nhau.
Nhận thức và giải quyết các mối quan hệ lớn là một quá trình liên tục và chính thực tiễn của công cuộc đổi mới đa dạng, phong phú ở nước ta là thước đo hiệu quả của công việc nêu trên, đồng thời là yếu tố quyết định sự biến đổi của các mối quan hệ lớn, cung cấp chất liệu sinh động cho công tác nghiên cứu lý luận của Đảng ta. Vận dụng những quan điểm trên, Đại hội XII của Đảng điều chỉnh mối quan hệ “giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa” thành quan hệ “giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đồng thời, từ tám mối quan hệ lớn phát triển thành chín mối quan hệ lớn khi bổ sung mối quan hệ “giữa Nhà nước và thị trường”, sau đó mối quan hệ này được Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII nhận diện đầy đủ hơn (bổ sung thêm thành tố thứ ba là "xã hội") thành mối quan hệ “giữa Nhà nước, thị trường và xã hội”.
Với việc nhất quán trong xem xét và giải quyết các mối quan hệ lớn dựa trên quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và từ đòi hỏi của thực tiễn, mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội được kỳ vọng là mối quan hệ thứ mười cấu thành trong tổng thể hệ thống các mối quan hệ lớn sẽ được Văn kiện Đại hội XIII của Đảng lần đầu tiên bổ sung. Không phải đến hiện nay Đảng ta mới đặt ra việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ này, mà ngay từ tháng 3-1989, khi Việt Nam chịu tác động tiêu cực bởi diễn biến phức tạp tình hình các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô, Hội nghị Trung ương 6 khóa VI đã đưa ra một trong năm nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới là: “Dân chủ phải đi đôi với tập trung, với kỷ luật, pháp luật, với ý thức trách nhiệm công dân. Dân chủ phải có lãnh đạo, lãnh đạo để phát huy dân chủ đúng hướng; mặt khác phải lãnh đạo bằng phương pháp dân chủ trên cơ sở phát huy dân chủ. Dân chủ với nhân dân nhưng phải nghiêm trị những kẻ phá hoại thành quả cách mạng, an ninh trật tự và an toàn xã hội”(2). Nguyên tắc này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng bảo đảm vừa phát huy dân chủ, vừa giữ vững kỷ cương, pháp luật, chống dân chủ quá trớn, vô chính phủ, nhất là vào những thời điểm gặp nhiều thử thách gay go khi mô hình chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô khủng hoảng rồi sụp đổ.
Trong thông điệp đầu năm 2020, trước thềm đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội XIII của Đảng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng lưu ý, báo cáo chính trị của đại hội đảng bộ các cấp, của Đại hội XIII của Đảng cần đặc biệt chú trọng giải quyết tốt các mối quan hệ lớn, trong đó có mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội (3)... Dự thảo Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng cũng lần đầu tiên đưa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội là một mối quan hệ lớn cần nắm vững và xử lý tốt trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 và các giai đoạn tiếp theo.
Sự cần thiết phải bổ sung mối quan hệ giữa thực hành dân chủ với tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội thành một mối quan hệ lớn để chỉ đạo thực tiễn cách mạng giai đoạn mới
Việc bổ sung mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội cấu thành trong tổng thể hệ thống các mối quan hệ lớn là yêu cầu cấp thiết hiện nay, cả về lý luận và thực tiễn.
Một là, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nấc thang cao hơn phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xu thế tiến bộ của thời đại là một yêu cầu tất yếu.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ chính trị do Đảng Cộng sản lãnh đạo, với nội hàm quan trọng nhất là tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; nhân dân là chủ thể và là người thực hiện quyền lực chung của xã hội. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ dân chủ cao nhất - dân chủ theo nghĩa đầy đủ nhất của phạm trù này. Tuy nhiên, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đầy đủ ở nước ta là một quá trình lâu dài và trên lộ trình “phát huy dân chủ đến cùng” đó, cần “tìm kiếm” những hình thức dân chủ phù hợp, hoàn thiện từng bước, cùng các cơ chế, thiết chế để hiện thực hóa nó trong thực tiễn, như V.I. Lê-nin từng phân tích: “Phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của sự phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn”(4). Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Cũng như các thành tố khác của thượng tầng kiến trúc của xã hội, dân chủ mang nhân lõi kinh tế và do tồn tại xã hội quyết định. Trình độ của phương thức sản xuất khác nhau tất yếu dẫn tới sự khác nhau về trình độ dân chủ. Do đó, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng có các nấc thang phát triển khác nhau và để phát huy dân chủ đúng hướng, hiệu quả thì quá trình đó không thoát ly, tách rời thực tiễn, mà phải có bước đi vững chắc phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể của đất nước. Không thể tùy tiện áp đặt hình thức dân chủ của một quốc gia này cho quốc gia khác với những điều kiện khác nhau về tập quán chính trị, bản sắc văn hóa, trình độ kinh tế.
Trước đổi mới, Đảng ta coi làm chủ tập thể là bản chất của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, gắn với xóa bỏ các hình thức sở hữu tư nhân, xác lập duy nhất chế độ sở hữu toàn dân và tập thể về tư liệu sản xuất. Mặc dù đây được xem là hình thức dân chủ phát triển ở trình độ cao, nhưng không phù hợp khi lực lượng sản xuất còn thấp kém. Cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp tất yếu sản sinh dân chủ hình thức. Dân chủ không thực chất khiến cho chế độ làm chủ tập thể không có cơ chế bảo đảm, thậm chí bị biến dạng thành “vô chủ”, quan liêu nặng nề, triệt tiêu các động lực phát triển, đẩy nền kinh tế rơi vào trì trệ, khủng hoảng. Đó là bài học sâu sắc và đắt giá về việc lựa chọn hình thức dân chủ không phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, với điều kiện hiện thực. Tuy nhiên, ở chiều ngược lại, khi trình độ phát triển của sản xuất đã có những bước chuyển mới về chất, nhưng trình độ dân chủ kinh tế, dân chủ chính trị - xã hội vẫn ở mức thấp hơn sẽ trở thành lực cản trói buộc, kìm hãm sự phát triển.
Từ khi đổi mới, Đảng ta nhận thức ngày càng sâu sắc hơn tầm quan trọng và vai trò của phát huy dân chủ, khẳng định bản chất của chế độ chính trị do Đảng Cộng sản lãnh đạo chính là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Dân chủ là một hình thức tổ chức xã hội của nền sản xuất vật chất tương ứng, vì vậy, khi công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế ở nước ta càng được đẩy mạnh, thì yêu cầu phát huy dân chủ càng trở nên bức thiết. Sau gần 35 năm đổi mới, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội - có những bước phát triển vượt bậc cả về mặt lượng và mặt chất; tương thích với nó là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng hoàn thiện với việc nâng cao chất lượng chế độ dân chủ đại diện và mở rộng dần các hình thức dân chủ trực tiếp. Dân chủ phản ánh một bước chuyển mạnh mẽ từ thể chế dựa trên tuân theo mệnh lệnh hành chính sang thể chế hướng về hợp tác, đồng thuận đầy trách nhiệm, bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nhà nước tổ chức và hoạt động dựa trên nguyên tắc pháp quyền. Mỗi chặng đường trong gần 35 năm đổi mới, chúng ta đều cố gắng “tìm tòi” các hình thức dân chủ phù hợp.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, sự vận động của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vẫn có độ trễ và khoảng cách so với sự phát triển đi trước, năng động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (năm 2020, quy mô nền kinh tế nước ta ước tăng gấp 9 lần so với năm 1986 khi bắt đầu đổi mới). Mặc dù điều này phản ánh và hoàn toàn nằm trong tính quy luật của việc ý thức xã hội thường lạc hậu tương đối hơn so với tồn tại xã hội; đổi mới chính trị đi sau những chuyển động kinh tế, song nếu khoảng cách đó ngày càng bị đẩy ra xa thêm, sẽ cản trở sự phát triển, vi phạm quy luật khách quan, xa rời mục tiêu và bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ chính trị, dân chủ xã hội có một cơ sở quan trọng bắt nguồn từ dân chủ kinh tế. Các quyền tự do cơ bản của con người trong xã hội, tự do về chính trị chỉ mang giá trị thực chất khi chúng được nảy nở và phát triển từ kết quả tất yếu của quá trình tự do hóa kinh tế. Trình độ phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay gắn với quá trình tự do hóa kinh tế ngày càng rộng mở đang thôi thúc và đòi hỏi mạnh mẽ quá trình dân chủ hóa trong đời sống chính trị - xã hội ở nước ta phải được đẩy tới một nấc thang cao hơn. Điều đó càng trở nên bức thiết khi trình độ dân trí của người dân ngày càng được nâng lên, các nhu cầu phổ thông được thỏa mãn thì xuất hiện các nhu cầu bậc cao ngày càng lớn, trong đó có nhu cầu tự do, dân chủ.
Nhìn rộng hơn, dân chủ hóa đang là một xu thế của thời đại. Sự hội tụ cùng lúc của nhiều xu hướng phát triển lớn hiện nay: Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra bước nhảy vọt của lực lượng sản xuất; kỷ nguyên số và các phương tiện truyền thông mới với đặc điểm về tính siêu kết nối xã hội mang đến những phương thức và không gian tương tác mới giữa các thiết chế chính trị, các cá nhân trong xã hội; xã hội mở thúc đẩy giao thoa tư tưởng, các giá trị văn hóa, trong đó có văn hóa dân chủ với tư cách là một giá trị mang tính phổ quát của nhân loại..., khiến cho dân chủ trở thành một xu thế của thời đại, vượt qua những hiện tượng, khuynh hướng, trào lưu phi dân chủ nhất thời, cực đoan, bản vị, phản ánh tiến trình đi lên của lịch sử nhân loại. Sự phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta cũng không nằm ngoài dòng chảy chủ đạo đó của thời đại, gắn chặt quá trình không ngừng mở rộng dân chủ với tiếp thu có chọn lọc các giá trị tiến bộ của nhân loại về dân chủ để xây dựng một nền dân chủ khác về bản chất và phát triển cao hơn nền dân chủ tư sản.
Thứ hai, giữa lý luận dân chủ và thực hành dân chủ còn khoảng cách và thiếu tương hợp.
Lý luận của Đảng ta về dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng có bước phát triển với sự nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn về bản chất, hình thức, tính chất, vị trí, vai trò, tác dụng... của dân chủ xã hội chủ nghĩa; xem xét cả trên chiều cạnh dân chủ với tư cách là chế độ chính trị gắn với giai cấp và nhà nước cụ thể, với dân chủ là giá trị phổ quát của nhân loại... Lý luận dân chủ và chế độ dân chủ ngày càng sáng rõ tạo tiền đề cho thực hành dân chủ ngày càng rộng rãi và thực chất trong thực tiễn ở nước ta, thông qua cả phương thức ủy quyền gián tiếp và dân chủ trực tiếp.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, bước chuyển từ nhận thức dân chủ đến thực hành dân chủ ở nước ta cũng còn độ trễ, thậm chí có sự thiếu tương hợp giữa ý thức dân chủ và thực hành dân chủ, khiến cho việc hiện thực hóa nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân, thực hành quyền làm chủ của nhân dân trong thực tiễn còn bộc lộ không ít bất cập, điển hình là tình trạng “còn xem nhẹ việc thực hành dân chủ”(5); có lúc, có nơi vẫn xảy ra hiện tượng mất dân chủ hay dân chủ hình thức và ở chiều ngược lại là dân chủ quá trớn, cực đoan, vô chính phủ; chưa coi trọng đúng mức việc thực hành dân chủ trực tiếp; thiếu cơ chế giám sát thực chất và hiệu quả của người dân, tổ chức xã hội đối với các cơ quan nhà nước khi thực thi quyền lực được nhân dân ủy thác...
Độ vênh giữa nhận thức lý luận dân chủ và thực hành dân chủ có nguyên nhân sâu xa do trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta về mọi phương diện vẫn “còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra”(6). Đây là đặc điểm khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhất là đối với những nước tiểu nông, lạc hậu. Đó là xã hội thoát thai từ trong lòng chế độ phong kiến, với những di tồn lịch sử giam hãm con người vào những lễ giáo khắt khe, trật tự ngôi thứ, tôn ty, đẳng cấp nghiệt ngã. Xã hội đó đương nhiên xa lạ với dân chủ và tự do của quảng đại quần chúng. Suốt tiến trình lịch sử sau đó, nhân dân ta ít có cơ hội cọ xát, trải nghiệm với đời sống dân chủ khi phải sống dưới chế độ thực dân chuyên chế về chính trị, độc quyền về kinh tế, ngu dân về văn hóa. Rồi phải trải qua chiến tranh lâu dài, áp dụng máy móc cơ chế kế hoạch hóa tập trung..., người dân chưa có điều kiện thực hành dân chủ đầy đủ. Đặc điểm trên ăn sâu trong nếp nghĩ, nếp sống, khiến xã hội nước ta thiếu truyền thống dân chủ và những di tồn lịch sử còn ảnh hưởng lâu dài, làm cho một bộ phận cán bộ, công chức hiện nay xem nhẹ vai trò dân chủ, quản lý chủ yếu theo mệnh lệnh hành chính, chuyên quyền, hành xử mang nặng cơ chế ban phát, xin - cho, quan liêu, sách nhiễu; trong khi không ít người dân chưa có ý thức và năng lực thực hành dân chủ, khi các mâu thuẫn hay xung đột xã hội xảy ra dễ rơi vào cực đoan này hay cực đoan khác. “Việc thực hiện dân chủ chưa trở thành một giá trị xã hội phổ biến”(7). Văn hóa dân chủ chưa định hình rõ nét trong đời sống xã hội của nước ta.
Mức độ bất tương hợp giữa lý luận - thực hành dân chủ phần nào là tấm gương phản chiếu trình độ phát triển của một xã hội. Như một quá trình lịch sử - tự nhiên, khi xã hội càng phát triển, thì sự không phù hợp giữa luật pháp văn bản với việc thực hiện các quyền con người, quyền công dân trong thực tiễn sẽ càng giảm bớt và ngược lại. Tuy nhiên, ngoài yếu tố khách quan do lịch sử, truyền thống, văn hóa, thì nhân tố chủ quan và các điều kiện bảo đảm cho thực hành dân chủ có vai trò quyết định làm thu hẹp hay giãn cách xa thêm giữa lý luận và thực hành dân chủ, nhất là nhân tố sự tiến bộ của lực lượng lãnh đạo, quản lý xã hội; hành lang pháp lý để dân chủ được bảo đảm và có điều kiện rộng đường thực thi trong thực tiễn...
Các lực lượng kinh tế và thị trường vừa là nhân tố nuôi dưỡng tiền đề vật chất cho sự ra đời của dân chủ, nhưng đồng thời chính nó lại góp phần làm gia tăng quá trình tha hóa quyền lực nhà nước, do ảnh hưởng tiêu cực của các “nhóm lợi ích” gây lũng đoạn thị trường, “bẻ lái” chính sách, hạn chế tự do cạnh tranh, đe dọa đến dân chủ. Mặt khác, quyền dân chủ sẽ chỉ dừng lại ở lý thuyết và trên danh nghĩa nếu không có những thiết chế, thể chế bảo đảm cho thực hành dân chủ. Nhiều chủ trương đúng đắn về dân chủ, nhưng do chưa hoặc chậm được thể chế hóa, nên thực hành dân chủ trong xã hội hạn chế, quyền làm chủ của nhân dân chưa được tôn trọng và phát huy đầy đủ. Chính vì vậy, việc chế định hóa các quyền và tự do của công dân trong Hiến pháp và pháp luật cùng với việc hoàn thiện các thiết chế và cơ chế hữu hiệu để thực thi chúng trong thực tiễn được xem là tiền đề quan trọng bậc nhất của nền dân chủ hiện đại.
Thứ ba, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật chưa ăn sâu trong đời sống chính trị - xã hội.
Dân chủ gắn bó chặt chẽ và tự nhiên với pháp luật, như là môi sinh và điều kiện không thể thiếu để bảo đảm, bảo vệ dân chủ được nảy sinh, nuôi dưỡng và phát triển. Sẽ là sai lầm khi cho rằng, dân chủ đối lập với pháp luật; cũng không có thứ dân chủ tuyệt đối phi chính trị hay vượt ra ngoài khuôn khổ pháp luật. Tất nhiên, hệ thống pháp luật ở đây phải là công bằng, tiến bộ, nhân văn; không phải thứ pháp luật chỉ thuần túy tuân theo ý chí và bảo vệ cho thiểu số lợi ích của giai cấp thống trị coi pháp luật là công cụ để cai trị, trấn áp quảng đại quần chúng.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên nền tảng dân chủ và tinh thần thượng tôn pháp luật. Hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam là pháp luật của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Các quy định của pháp luật xuất phát từ ý chí, nguyện vọng của nhân dân và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân. Nhân dân không chỉ là người thừa hành pháp luật, mà còn là chủ thể xây dựng và bảo vệ pháp luật. Hơn nữa, đây là hệ thống pháp luật mang bản chất tiến bộ và có tính xã hội, tính nhân dân sâu sắc (ngoài mang bản chất chung về tính giai cấp như các kiểu pháp luật khác), bởi nó thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, điều mà hệ thống pháp luật tư bản chủ nghĩa không có được - nơi luôn tồn tại sự đối kháng lợi ích không thể dung hòa giữa thiểu số giai cấp tư sản cầm quyền với lợi ích của nhân dân lao động.
Thượng tôn pháp luật là điều kiện tiên quyết để dân chủ được thực hành rộng rãi và thực chất. Sau gần 35 năm đổi mới, hệ thống pháp luật nước ta thể hiện tư duy lập pháp dựa trên nguyên tắc pháp quyền, mang đầy đủ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ, ngày càng hoàn thiện cả về nội dung, hình thức, kỹ thuật lập pháp, theo hướng thống nhất, đồng bộ, khả thi, toàn diện và minh bạch, đáp ứng được vai trò vừa là công cụ quản lý nhà nước và xã hội, vừa là công cụ để phát huy quyền làm chủ, cũng như kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân. Pháp luật xã hội chủ nghĩa bảo đảm cho Đảng cầm quyền bằng pháp luật, đồng thời kiểm nghiệm năng lực lãnh đạo của Đảng bằng chất lượng pháp luật và hiệu lực thi hành luật. Hệ thống pháp luật khá đầy đủ và hoàn chỉnh là cơ sở và điều kiện tiên quyết để pháp chế xã hội chủ nghĩa ngày càng được tăng cường, đòi hỏi mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội, từ cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội đến mọi công dân, đều phải tôn trọng và thực hiện các nghĩa vụ pháp lý và phải chịu trách nhiệm bắt buộc khi vi phạm pháp luật...
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, ưu điểm, pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta cũng còn nhiều hạn chế, điển hình là hệ thống pháp luật còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, thiếu ổn định, chi phí tuân thủ còn cao. Chất lượng của một số đạo luật và văn bản dưới luật chưa cao, còn chồng chéo, mâu thuẫn, chưa phù hợp với thực tiễn; kỷ luật, kỷ cương trong xây dựng và ban hành văn bản pháp luật chưa nghiêm. Tình trạng luật khung, luật ống, luật phải chờ văn bản hướng dẫn thi hành mới phát sinh hiệu lực thực tế vẫn còn. Tình trạng “nợ” văn bản hướng dẫn thi hành tuy có cải thiện nhưng chưa được khắc phục triệt để. Thêm vào đó, vấn đề thực thi pháp luật đang là một tồn tại rất lớn. Chúng ta chưa có sự nhận thức một cách đầy đủ về việc xây dựng các cơ chế bảo đảm thực thi pháp luật một cách hiệu quả. Kỷ cương, kỷ luật trong thi hành công vụ và trong đời sống xã hội có lúc, có nơi còn lỏng lẻo, dẫn đến tình trạng khinh nhờn pháp luật. Thượng tôn pháp luật và bảo đảm tính tối thượng của Hiến pháp chưa trở thành thói quen thường trực của đội ngũ cán bộ, công chức và của các tổ chức, cá nhân trong xã hội, chưa ăn sâu vào đời sống chính trị - xã hội. Vụ việc tại xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Hà Nội (tháng 1-2020) là một điển hình của việc coi thường và vi phạm pháp luật, gây hậu quả nghiêm trọng, đồng thời cũng cho thấy những hạn chế của khâu tổ chức thực hiện pháp luật và đấu tranh với vi phạm pháp luật, khiến hiệu lực, hiệu quả bị suy giảm... Đặc biệt, nhân vụ việc này, các phần tử cơ hội chính trị và các thế lực thù địch trong và ngoài nước kích động cái gọi là “Bất tuân dân sự” nhằm chuyển hóa những bức xúc, mâu thuẫn, xung đột dân sự thông thường thành các hành vi chống phá, đối đầu với chính quyền. Đây là âm mưu hết sức thâm độc nhằm cổ xúy cho thái độ, hành vi bất tuân pháp luật, hòng vô hiệu pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta, mà mục đích là lật đổ chính quyền nhân dân.
Một nguyên nhân quan trọng của tình trạng trên là do xã hội truyền thống ở nước ta chưa có nhà nước pháp quyền và văn hóa thượng tôn pháp luật. Phép trị quốc đề cao nhân trị, đức trị, lễ trị hơn pháp trị; dùng luân lý phong kiến “tam cương, ngũ thường” để ràng buộc con người là chính. Lối sống xã hội đề cao “trọng tình khinh lý”, không có thói quen sử dụng công cụ pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội, thậm chí ác cảm với các hoạt động tố tụng để xét xử và giải quyết các xung đột nhằm bảo vệ công lý, các quyền con người, khi quan niệm “vô phúc đáo tụng đình”. Mặt khác, “văn hóa làng xã” bên cạnh những yếu tố tích cực, thì có nhiều mặt tuyệt đối hóa vai trò điều chỉnh quan hệ xã hội bằng luật tục, hương ước, đẩy pháp luật của Nhà nước xuống hàng thứ yếu theo kiểu “phép vua thua lệ làng”, luật pháp bị địa phương hóa hay bị biến dạng theo ý chí chủ quan của cộng đồng địa phương, dòng tộc. Những tàn dư đó gây không ít trở ngại cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, áp dụng nguyên tắc pháp quyền trong tổ chức và quản trị xã hội hiện đại, làm suy giảm hiệu lực, hiệu quả điều chỉnh của pháp luật.
Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, mệnh lệnh hành chính thay cho luật pháp ngự trị trong cả đội ngũ cán bộ, công chức và người dân. Do đó, dù công cuộc đổi mới đất nước đã trải qua gần 35 năm, song khoảng thời gian đó vẫn chưa đủ để xóa hẳn tư duy cơ chế cũ và tích lũy được đầy đủ kinh nghiệm xây dựng pháp luật xã hội chủ nghĩa trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Mặt khác, hệ thống pháp luật được xây dựng và hoàn thiện trong điều kiện chuyển đổi, vừa tìm tòi, vừa rút kinh nghiệm nên khó tránh khỏi những hạn chế, bất cập. Nhiều cơ chế mới được vận hành nên chưa thể dự báo được đầy đủ tác động, khiến cho một số quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật còn chung chung hoặc khi ban hành chưa phát huy đầy đủ tác dụng trong thực tiễn. Việc thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện là cần thiết, nhưng cũng làm cho hệ thống pháp luật thiếu ổn định, thiếu đồng bộ...
Pháp luật nước ta hiện nay là pháp luật của thời kỳ đổi mới toàn diện, với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen. Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Điều đó đòi hỏi pháp luật Việt Nam phải không ngừng được hoàn thiện, là điều kiện tiên quyết để pháp chế xã hội chủ nghĩa được thực hiện nghiêm minh; và đến lượt nó, pháp chế xã hội chủ nghĩa lại là bệ đỡ vững chắc để ngày càng mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa. Mở rộng thực hành dân chủ luôn phải đi liền với siết chặt kỷ cương xã hội. Đó chính là mối quan hệ khăng khít giữa thực hành dân chủ và pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Ngoài ba nguyên nhân chính nêu trên, việc cần thiết bổ sung thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội thành mối quan hệ lớn còn do sự tác động thuận chiều của quá trình phát triển nhận thức lý luận mới về nhiều vấn đề có liên quan trực tiếp tới cặp phạm trù trên, như về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhất là mở rộng nguyên tắc pháp quyền điều chỉnh toàn bộ xã hội (xã hội pháp quyền hoặc xã hội thượng tôn pháp luật); về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam; về quản lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội; về mở rộng dân chủ trong Đảng như yếu tố quyết định tới xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa...
Như vậy, gần 35 năm đổi mới đã cho chúng ta đủ không gian, thời gian và sự trải nghiệm để dân chủ xã hội chủ nghĩa và pháp chế xã hội chủ nghĩa được Đảng ta xác định không chỉ là những vấn đề quan trọng đặt trong các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, các phương hướng phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ hoặc thuộc về hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng..., mà còn trở thành vấn đề cốt lõi phản ánh quy luật vận động của cách mạng Việt Nam thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sự định vị lại và nâng tầm này không phải là sự ngẫu nhiên, mà đã phải trải qua quá trình không ngừng tìm tòi và phát triển lý luận lâu dài, với những đúc kết sâu sắc từ chính thực tiễn cuộc sống, trong đó có cả không ít bài học đắt giá từ những thiếu sót, sai lầm. Do đó, việc bổ sung mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội trở thành một mối quan hệ lớn cấu thành trong tổng thể hệ thống các mối quan hệ lớn ở thời điểm hiện nay là sự chín muồi cả về lý luận và thực tiễn./.
-------------------------------------
(1) Nguyễn Đức Bình: Chủ thuyết cách mạng và phát triển Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 198
(2) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t. 49, tr. 592
(3) Nguyễn Sự: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ to lớn như ngày nay”, https://www.vietnamplus.vn/dat-nuoc-ta-chua-bao-gio-co-duoc-co-do-to-lon-nhu-ngay-nay/616466.vnp
(4) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 33, tr. 97
(5) Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 - 2016), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2015, tr. 144 .
(6) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, t. 19, tr. 33.
(7) Báo cáo 10 năm thực hiện Cương lĩnh 2011, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2020, tr. 106.
KỲ 2
Biện chứng và bản chất mối quan hệ lớn giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội
Trên bình diện tổng thể, khi xem xét và xử lý các mối quan hệ lớn cần trên quan điểm toàn diện, hệ thống, liên thông. Các yếu tố cấu thành của từng mối quan hệ lớn đều có quan hệ biện chứng, chế ước, ràng buộc lẫn nhau, tương hỗ phát triển khi được kết hợp hài hòa, ở thế cân bằng phát triển. Mặt khác, các mối quan hệ lớn vừa thống nhất, vừa đấu tranh giữa các yếu tố cấu thành, các mặt đối lập, nhất là khi sự phát triển quá thiên lệch hay trạng thái cân bằng, trật tự lô-gíc bị phá vỡ hoặc can thiệp duy ý chí. Sự đấu tranh này không triệt tiêu, phủ định nhau, nhưng là lực cản làm chậm sự phát triển, tạo nên những khúc quanh, những bước thụt lùi, thoái bộ tạm thời, thậm chí những thất bại, đổ vỡ, trước khi bước vào giai đoạn phát triển mới cao hơn. Đơn cử, trong mối quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển, nếu quá đề cao sự ổn định mà không đổi mới dễ dẫn tới sự trì trệ, ngưng đọng; nhưng đổi mới bằng mọi giá, bất chấp điều kiện hiện thực, nhảy từ cực nọ sang cực kia, phủ định sạch trơn cái cũ hay nóng vội, tùy tiện, vô nguyên tắc thường gây ra đổ vỡ, thất bại tạm thời...
Mặt khác, các mối quan hệ lớn luôn tuân theo nguyên lý về mối liên hệ phổ biến nên không tách rời, đứng biệt lập, mà tồn tại và vận động trong một thể thống nhất cùng hướng đích thực hiện hệ mục tiêu của đổi mới và cũng là đặc trưng tổng quát của chủ nghĩa xã hội ở nước ta: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Tuy nhiên, việc giữ trạng thái cân bằng giữa các mối quan hệ, các yếu tố cấu thành từng mối quan hệ mang ý nghĩa tương đối; trong mỗi giai đoạn cần xác định yếu tố cấu thành trọng yếu và thứ yếu của từng mối quan hệ, cũng như xác định mối quan hệ trọng tâm trong tổng thể các mối quan hệ lớn, để linh hoạt ưu tiên xử lý, tránh cực đoan, tuyệt đối hóa hay cào bằng, dàn hàng ngang, phân tán nguồn lực trong phát triển.
Xem xét riêng mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội cũng cần đặt trong tổng thể quan điểm toàn diện, hệ thống, liên thông nêu trên. Đây là cặp quan hệ có vị trí rất quan trọng trong các mối quan hệ lớn bởi nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, là thuộc tính tự nhiên của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng; trong khi đó, pháp chế xã hội chủ nghĩa khi được xác lập như một hiện thực, một trạng thái xã hội có sức mạnh của lực lượng vật chất trực tiếp góp phần thiết lập trật tự, kỷ cương, thúc đẩy và bảo vệ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nghiêm trị mọi hành vi phá hoại quyền làm chủ của nhân dân, nhờ đó thúc đẩy xã hội phát triển.
Thực hành dân chủ là tiến trình đưa các quan điểm, lý luận của Đảng về dân chủ xã hội chủ nghĩa vào hiện thực cuộc sống. Việc chuyển hóa từ tư tưởng, lý thuyết dân chủ thành thực hành dân chủ cần có yếu tố trung gian bảo đảm là các thiết chế và cơ chế đủ mạnh. Thước đo hiệu quả của thực hành dân chủ chính là những kết quả cụ thể, thấy rõ trong thực tiễn khi các chủ thể trong xã hội thực hiện quyền dân chủ và nghĩa vụ dân chủ của mình một cách chủ động, thực chất và rộng rãi.
Pháp chế là sự ngự trị của pháp luật trong đời sống xã hội, là trật tự pháp luật đòi hỏi mọi chủ thể trong xã hội phải tôn trọng, thực hiện đúng, nghiêm và mọi vi phạm pháp luật đều bị xử lý theo quy định, không có ngoại lệ. Như vậy, một xã hội muốn có pháp chế phải bảo đảm hai điều kiện: Điều kiện cần là xã hội phải có hệ thống pháp luật - pháp luật được coi là tiền đề của pháp chế; điều kiện đủ là pháp luật đó phải được mọi chủ thể trong xã hội tôn trọng, thực hiện đúng và chịu trách nhiệm pháp lý khi vi phạm. Nếu pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được đưa lên thành luật, thì pháp chế là việc đưa ý chí đó vào cuộc sống, trở thành hiện thực và tạo ra được sức mạnh vật chất trực tiếp thiết lập kỷ cương xã hội.
Pháp luật ra đời gắn liền với sự ra đời của Nhà nước. Tuy nhiên, không phải kiểu nhà nước nào cũng có pháp chế. Theo V.I. Lê-nin chỉ có pháp chế tư sản và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các hình thức nhà nước trước đó xây dựng hệ thống pháp luật nhằm hợp thức hóa ý chí và bảo vệ lợi ích độc tôn của giai cấp thống trị, cưỡng bức quần chúng tuân thủ, trong khi nhà cầm quyền lại nằm ngoài sự điều chỉnh của pháp luật - điều đó trái ngược hoàn toàn với nguyên tắc tuân thủ pháp luật bình đẳng của mọi chủ thể trong xã hội, kể cả lực lượng cầm quyền, nên đương nhiên không tồn tại pháp chế. Pháp chế tư sản khi mới ra đời là một bước tiến lớn, mở rộng giới hạn dân chủ, tạo lập nhân quyền, khẳng định quyền tự nhiên của con người đã bị chế độ chuyên quyền phong kiến tước đoạt, đồng thời cũng thiết lập về mặt lý thuyết việc bảo vệ các quyền cơ bản của con người, cùng những kinh nghiệm lập pháp, hành pháp, tư pháp sinh động, phong phú. Tuy nhiên, khi nắm quyền lực trong tay, giai cấp tư sản biến pháp chế khởi nguyên có mục đích tốt đẹp bảo vệ lợi ích của nhân dân đó thành thứ pháp chế ngày càng tha hóa chỉ bảo vệ lợi ích của thiểu số giai cấp tư sản.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là chế độ chính trị - xã hội xã hội chủ nghĩa, trong đó đòi hỏi mọi chủ thể trong xã hội tôn trọng, tuân thủ, không có ngoại lệ. Pháp chế xã hội chủ nghĩa dựa trên một số nguyên tắc, như: Bảo đảm sự thống nhất của pháp chế trên quy mô toàn quốc; bảo đảm hiệu lực pháp lý cao nhất của Hiến pháp; thực hiện nghiêm pháp luật là nguyên tắc bắt buộc chung của mọi chủ thể, không có ngoại lệ; mọi vi phạm pháp luật phải được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh, không có ngoại lệ; bảo đảm và bảo vệ quyền và tự do của con người và công dân theo quy định của pháp luật... Nội dung của pháp chế xã hội chủ nghĩa thể hiện trên ba mặt chủ yếu: Xây dựng, hoàn thiện pháp luật; tổ chức thực hiện pháp luật; phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật.
Thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm kỷ cương xã hội có mối quan hệ hữu cơ chặt chẽ, nương tựa và làm tiền đề tồn tại cho nhau. Thực hiện pháp chế nghiêm minh là yếu tố bảo đảm, bảo vệ quyền dân chủ của nhân dân được thực hành thực chất trong thực tiễn; đồng thời, thực hành dân chủ của nhân dân được mở rộng và phát huy sẽ càng làm cho pháp chế được tăng cường và kỷ cương trong xã hội được tôn trọng. Kỷ cương xã hội là kết quả và biểu hiện ra bên ngoài của pháp chế.
Khi xã hội còn phân chia giai cấp, thì sẽ không có thứ dân chủ vô hạn độ hay dân chủ vô pháp luật, tức không thể có dân chủ chân chính bên ngoài pháp chế xã hội chủ nghĩa. Dân chủ có nghĩa là người dân có các quyền của mình song cũng phải có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật và các quy tắc chung để bảo vệ lợi ích của cộng đồng. Quyền và nghĩa vụ phải hài hòa hóa, luôn đi đôi với nhau. Dân chủ nhưng không thể để tình trạng tự do phường hội, vô chính phủ trong quản lý xã hội, cá nhân coi thường pháp luật. Đến lượt mình, pháp chế không những không kìm hãm, mà ngược lại khi được thực hiện nghiêm sẽ xử lý theo pháp luật các hành vi xâm phạm tới dân chủ, bảo vệ và nuôi dưỡng thực hành dân chủ chân chính phát triển. Sự đối lập hay tách rời giữa thực hành dân chủ với tăng cường pháp chế sẽ dẫn đến những hệ lụy khôn lường, đe dọa tới sự ổn định chính trị và kỷ cương, trật tự xã hội.
Nền dân chủ trong đời sống xã hội càng cao thì nhà nước pháp quyền và nguyên tắc pháp chế càng được củng cố và hoàn thiện. Vì thế, không ngừng mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ cơ bản, thiết yếu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; sẽ là sai lầm nếu cho rằng có thể xây dựng nhà nước pháp quyền chỉ bằng siết chặt pháp chế, không cần thiết mở rộng dân chủ, thực hiện dân chủ hóa xã hội.
Thể chế dân chủ và pháp chế mang tính nhất nguyên chính trị được hình thành ở nước ta như một tất yếu khách quan. Bản chất tiến bộ của một nền dân chủ và pháp chế không phải ở chỗ nó tồn tại trong chế độ đa đảng, lưỡng đảng hay đơn đảng, mà ở chỗ đảng cầm quyền đại diện cho lợi ích giai cấp nào, sử dụng quyền lực nhà nước vào mục đích gì, đem lại quyền lợi cho ai. Đảng Cộng sản Việt Nam được lịch sử và nhân dân tin cậy giao phó trách nhiệm là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội, không có mục đích nào khác ngoài phụng sự cho lợi ích của giai cấp, dân tộc và nhân dân, phấn đấu cho nền dân chủ đích thực và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Sự nhất nguyên về chính trị và việc xây dựng nền dân chủ, pháp chế xã hội chủ nghĩa không những không đối lập, loại trừ nhau, mà trái lại vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố có ý nghĩa quyết định để xây dựng thành công nền dân chủ, pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bản chất tiến bộ và cách mạng của nền dân chủ, pháp chế xã hội chủ nghĩa cũng tự nó là luận chứng sống động và đầy sức thuyết phục phủ định luận điệu ca tụng, tán dương phi lý rằng, chỉ có chế độ chính trị đa nguyên hay đa đảng mới sinh ra thứ “dân chủ và nền pháp chế ưu việt” (?!).
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin không phủ nhận tính kế thừa của dân chủ và pháp chế giữa các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau. Trong thực tiễn, việc xây dựng nền dân chủ và pháp chế xã hội chủ nghĩa không đứng trên “mảnh đất trống”, mà luôn có sự kế thừa các hình thức dân chủ và pháp chế đã có trong lịch sử, kể cả những giá trị mang tính phổ quát của nhân loại của nền dân chủ và pháp chế tư sản. Mặc dù vậy, sẽ không bao giờ có một hình mẫu lý tưởng về dân chủ và pháp chế để có thể áp dụng chung cho mọi thể chế chính trị, mọi quốc gia. Ở góc độ khác, quá trình xây dựng nền dân chủ và pháp chế xã hội chủ nghĩa vừa phải tính tới những điều kiện cụ thể của Việt Nam, nhất là đặc điểm của thời kỳ quá độ, chế độ chính trị, kinh tế, điều kiện lịch sử, truyền thống, văn hóa, tâm lý xã hội..., vừa khắc phục tính dân tộc cực đoan hay các yếu tố dị biệt làm cho các giá trị dân chủ, pháp chế không được phát huy, gây nguy cơ rơi vào tình trạng biệt lập trong một thế giới hiện đại.
Nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội
Thứ nhất, củng cố, mở rộng và phát triển các điều kiện bảo đảm, nhất là bảo đảm chính trị và bảo đảm kinh tế đối với dân chủ và pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là bảo đảm chính trị và là nhân tố có ý nghĩa quyết định để xây dựng thành công nền dân chủ, pháp chế xã hội chủ nghĩa. Sự lãnh đạo duy nhất của Đảng bảo đảm định hướng và tính chất xã hội chủ nghĩa của nền dân chủ, bởi đường lối chính trị của Đảng là dẫn dắt dân tộc ta đi lên chủ nghĩa xã hội - chế độ phát huy đầy đủ nhất quyền dân chủ của nhân dân. Sự bảo đảm đó càng được khẳng định bởi mục tiêu chính trị cao nhất của Đảng là vì lợi ích tối cao của nhân dân, của Tổ quốc và dân tộc. Chỉ khi quyền lực nằm trong tay giai cấp tiến bộ và cách mạng, đại biểu cho toàn thể xã hội trong thời đại mình, không mưu cầu lợi ích riêng của giai cấp mình hay một nhóm người nào, cá nhân nào, nghĩa là trong tay giai cấp công nhân - mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam - thì tính tích cực và đích thực của dân chủ mới biểu hiện rõ rệt và được thực hành thực thụ, rộng rãi. Không bảo đảm sự thống trị chính trị của giai cấp vô sản (trong sự liên minh với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức), sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thì nhân dân không có quyền lực thực sự, nền dân chủ không được bảo đảm. Điều đó cũng đúng với việc xây dựng nền pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Pháp luật là công cụ sắc bén nhất thể hiện sức mạnh Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa một cách công khai, để xử lý và trừng trị nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật, gây tổn hại, nguy hiểm cho cộng đồng, xã hội, chế độ. Từ trong bản chất, nguyên tắc pháp quyền, pháp chế do Đảng ta lãnh đạo xây dựng nên không chỉ thể hiện ý chí, mục tiêu chính trị của Đảng, những giá trị tốt đẹp, tiến bộ và cách mạng của hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, mà còn thể hiện ý chí, nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân. Đó là nền pháp quyền nhân văn, vì con người, được mọi người chấp thuận và thực hành bằng cả lương tâm và trách nhiệm, không còn vì “sự sợ hãi” quyền lực, dần phát triển thành ý thức tuân thủ pháp luật tự giác và văn hóa thượng tôn pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Dân chủ và kỷ cương trong Đảng là hạt nhân và có ý nghĩa quyết định tới việc thực hiện dân chủ và kỷ cương trong hệ thống chính trị và toàn xã hội. Thiếu dân chủ nội bộ sẽ làm cho “nội bộ của Đảng âm u”(1), sinh hoạt đảng không còn trong sáng nữa, và do vậy, tập trung - kỷ luật gắn với thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ không còn tạo nên sức mạnh của Đảng, như lời nhắc nhở, cảnh báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Một đảng duy nhất cầm quyền dễ dẫn đến nguy cơ chủ quan, tự mãn, “kiêu ngạo cộng sản”, quan liêu, xa dân. Và, khi đã quan liêu, thiếu dân chủ trong nội bộ Đảng thì khó có dân chủ ra ngoài xã hội, dân chủ với nhân dân. Do đó, cùng với việc bảo đảm tuyệt đối vai trò duy nhất lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, thì việc làm cho Đảng ta thực sự là biểu tượng về dân chủ và kỷ cương là vấn đề cốt tử để phát huy dân chủ, pháp chế rộng rãi trong đời sống xã hội... Đảng phải cầm quyền vì dân, cầm quyền một cách dân chủ, khoa học và cầm quyền theo pháp luật.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là bảo đảm kinh tế của dân chủ và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển tạo nền tảng và cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, đồng thời thúc đẩy sự hoàn thiện của kiến trúc thượng tầng tương ứng, trong đó có dân chủ và pháp luật. Không thể có nền dân chủ đích thực trên một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, đời sống vật chất và tinh thần của người dân ở mức thấp. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là môi sinh cho dân chủ thực chất, loại bỏ dân chủ hình thức, bắt đầu từ dân chủ hóa về kinh tế mà thúc đẩy dân chủ hóa trên các mặt chính trị, văn hóa, xã hội, ý thức - tư tưởng. Chỉ có nền dân chủ đầy đủ trên cơ sở một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mới khắc phục được bản chất vị lợi nhuận tàn nhẫn chà đạp lên máu, nước mắt của người lao động và quy luật bóc lột giá trị thặng dư ngày càng tinh vi - vốn là quy luật kinh tế tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam chỉ được bảo đảm ngay từ đầu khi gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, mà ở đó không thể tách rời với chức năng kinh tế và chức năng xã hội của Nhà nước tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền. Một mặt, Nhà nước thúc đẩy mạnh mẽ quá trình dân chủ hóa trong lĩnh vực kinh tế, khuyến khích, kích thích, phát huy quyền làm chủ và khả năng làm chủ kinh tế của các thành phần kinh tế, của mọi chủ thể kinh tế; phát huy cao độ tính năng động, sáng tạo, năng lực, nguồn lực của mọi thành viên trong xã hội để tổ chức sản xuất, kinh doanh, tạo ra của cải vật chất; mặt khác, Nhà nước sử dụng các nguồn lực kinh tế để quay trở lại thúc đẩy sự phát triển toàn diện về đời sống vật chất, tinh thần, trình độ dân trí, học vấn, kỹ năng, đạo đức, nhân cách... của con người mới xã hội chủ nghĩa - những tiền đề cần thiết để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế gắn chặt với phát triển văn hóa. Nhà nước vừa tôn trọng quy luật kinh tế trong việc phân phối theo lao động, theo nguồn lực đóng góp (lần đầu), vừa phải điều tiết phân phối lại thu nhập thông qua hệ thống phúc lợi xã hội và an sinh xã hội để thiết lập một xã hội công bằng.
Đồng thời, trong mỗi bước đi mở rộng dân chủ kinh tế tất yếu đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế và tăng cường hiệu lực điều chỉnh pháp luật nhằm bảo đảm mọi chủ thể kinh tế đều có các quyền và nghĩa vụ bình đẳng trước pháp luật; tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng, lành mạnh, vừa tôn trọng các quy luật của nền kinh tế thị trường, vừa khắc phục những khuyết tật của thị trường. Mở rộng dân chủ hóa trong kinh tế gắn chặt với tuân thủ kỷ luật, kỷ cương, loại trừ ngay từ đầu những nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế. Đơn cử, việc tập trung phát triển kinh tế tư nhân với vai trò là một động lực quan trọng của nền kinh tế không thể đi chệch quỹ đạo kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa...
Nền kinh tế nước ta ngày càng chú trọng chất lượng tăng trưởng, phát triển chiều sâu, hướng tới hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển phù hợp với nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2045, nước ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao là nhiệm vụ vô cùng nặng nề. Tuy nhiên, đây là những định hướng phát triển quan trọng, tạo nền tảng vật chất để nâng cao đời sống, trình độ dân trí, văn hóa dân chủ, văn hóa pháp lý... của nhân dân, là điều kiện phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, gắn với nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Khi nền kinh tế phát triển và phồn thịnh sẽ là cơ sở vững chắc để các thành viên trong xã hội thực hiện tốt các quyền, nghĩa vụ dân chủ, cũng như loại bỏ bớt những nguyên nhân của nhiều hành vi vi phạm pháp luật.
Bảo đảm chính trị là điều kiện có ý nghĩa quyết định; bảo đảm kinh tế là nền tảng, là cơ sở của các bảo đảm khác đối với nền dân chủ và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Ngoài bảo đảm chính trị, kinh tế, nền dân chủ và pháp chế xã hội chủ nghĩa còn chịu ràng buộc bởi bảo đảm pháp lý và xã hội. Hệ thống những điều kiện bảo đảm dân chủ và pháp chế xã hội chủ nghĩa ở trạng thái phát triển thường xuyên, liên tục, được củng cố và mở rộng không ngừng trong mỗi bước đi lên trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thứ hai, nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn để hài hòa hóa, kết hợp nhuần nhuyễn mối quan hệ giữa thực hành dân chủ với tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa có mối quan hệ không tách rời với pháp chế xã hội chủ nghĩa. Do đó cần tránh quan điểm xem nhẹ, tuyệt đối hóa hay tách biệt trong xử lý mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Khi tách biệt, xem nhẹ hay tuyệt đối hóa vai trò của bất kỳ thành tố nào trong cặp quan hệ trên đều khiến phá vỡ trật tự, trạng thái cân bằng cần có của mối quan hệ biện chứng này, từ đó có thể dẫn tới những chệch hướng, sai lầm trong nhận thức và vận dụng vào thực tiễn.
Đơn cử, việc mở rộng thực hành dân chủ là rất cần thiết và là yêu cầu khách quan. Đảng, Nhà nước ta luôn tôn trọng các quyền tự do, dân chủ của nhân dân, trong đó bao gồm cả các quyền như lập hội, biểu tình, quyền tự do liên kết và có sự tham dự của thiết chế đại diện của người lao động... Tuy nhiên, việc thực hành những quyền trên cần có sự tính toán đầy đủ và chín muồi trong tương thích với trình độ phát triển kinh tế, trình độ dân trí, văn hóa dân chủ và văn hóa pháp luật, năng lực thực hành dân chủ... của nhân dân, cùng sự đồng bộ với pháp chế xã hội chủ nghĩa - vốn cũng không sinh ra và tồn tại một cách tự nhiên, mà là sản phẩm dựa trên những tiền đề chính trị, kinh tế, xã hội nhất định. Đã có nhiều bài học, trong đó có cả những bài học đắt giá từ sai lầm khi tách biệt, xem nhẹ hay tuyệt đối hóa trong nắm và xử lý mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và pháp chế, giữa mối quan hệ thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế với các mối quan hệ lớn khác, khiến nhiều ý niệm tốt đẹp về phát huy dân chủ không thực hiện thành công, ngược lại còn đưa đến hậu quả làm mất an ninh, an toàn xã hội, tổn hại đến lợi ích của cộng đồng, quốc gia, dân tộc. Việc “phát huy dân chủ đến cùng” là đích đến cao đẹp của chế độ ta và cần tiến hành từng bước một cách chắc chắn. Điều đó thể hiện việc nhận thức ngày càng sâu sắc và xử lý ngày càng hài hòa mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội của Đảng, Nhà nước ta, vừa bảo đảm các quyền dân chủ của nhân dân, vừa bảo vệ lợi ích của cộng đồng, quốc gia, dân tộc. Điều này trái ngược hoàn toàn với một số nhận thức còn phiến diện, chưa đầy đủ khi cho rằng một số đạo luật vì “nhạy cảm” mà chúng ta chưa ban hành hoặc một số luận điệu xuyên tạc lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” để chống phá ta từ phía các thế lực thù địch.
Mặt khác, trong xem xét mối quan hệ biện chứng giữa thực hành dân chủ với tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, cần “nhìn ra” để thấy sự liên hệ tổng thể với các mối quan hệ lớn khác; nhưng đồng thời cũng cần “nhìn vào” để thấy mối liên hệ bên trong của các yếu tố nội tại cấu thành từng thành tố dân chủ và pháp chế, để xử lý hài hòa, nổi bật là mối quan hệ giữa nhận thức lý luận về dân chủ và thực hành dân chủ; giữa xây dựng pháp luật với tổ chức thực hiện pháp luật.
Có giai đoạn, chúng ta mới chú trọng nhiều tới nghiên cứu lý luận dân chủ, mà chưa thực sự quan tâm tới thực hành dân chủ, khiến hiện tượng dân chủ hình thức còn nặng nề, thậm chí dẫn tới những biến dạng của dân chủ, người dân thiếu năng lực thực hành dân chủ, các cơ quan công quyền chưa hình thành văn hóa phục vụ nhân dân theo đúng nghĩa... Tương tự, mặc dù hệ thống pháp luật của nước ta được xây dựng ngày càng đầy đủ hơn, bao quát được nhiều hơn các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng việc tổ chức thực thi pháp luật vẫn là một khâu yếu trong các nội dung cấu thành của pháp chế xã hội chủ nghĩa, làm cho tình trạng oan, sai, bỏ lọt tội phạm vẫn xảy ra hoặc một số luật được ban hành nhưng không đi vào cuộc sống, tình trạng vi phạm pháp luật nhưng không xử lý nghiêm minh khiến pháp luật bị coi thường, thậm chí có hiện tượng “nhờn luật”, thách thức pháp luật dưới cái gọi là “bất tuân dân sự”... Do đó, việc đưa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội trở thành mối quan hệ lớn chính là điều kiện để chúng ta khắc phục khoảng cách, “độ vênh” giữa thực hành dân chủ, pháp chế và lý luận về dân chủ, chú trọng nhiều hơn thành tố “thực hành”, quan tâm nhiều hơn tới những kết quả cụ thể hiện hữu trong thực tiễn bởi đó mới chính là đích đến của dân chủ và pháp chế, dần hình thành ngày càng sâu sắc văn hóa dân chủ và văn hóa thượng tôn pháp luật xã hội chủ nghĩa trong đời sống xã hội ở nước ta.
Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo tiêu chuẩn, nguyên tắc pháp quyền hiện đại. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và pháp chế xã hội chủ nghĩa có điểm giao thoa là luật pháp - khi luật pháp là bảo đảm của dân chủ, đồng thời là tiền đề của pháp chế. Do đó, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có vai trò quan trọng, là bảo đảm “song trùng” trong nhận thức và xử lý mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Điều này càng quan trọng khi lịch sử lập pháp hiện đại từ khi đổi mới của chúng ta có thời gian còn ngắn so với yêu cầu, hệ thống pháp luật còn chưa hoàn chỉnh.
Xây dựng và hoàn thiện để hệ thống pháp luật của Việt Nam có chất lượng, tạo tiền đề pháp lý vững chắc cho mọi hoạt động của Nhà nước trong quản lý xã hội và để nhân dân thực thi đầy đủ quyền dân chủ của mình. Đó phải là hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, công bằng, không thiên vị, dễ tiếp cận với chi phí tuân thủ thấp, lấy quyền và lợi ích hợp pháp của người dân là trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển bền vững kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh..., trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân... phù hợp với yêu cầu, thực tiễn đất nước.
Hệ thống pháp luật phải quy định rõ cơ chế để nhân dân tham gia thực chất vào quá trình hình thành nên hệ thống pháp luật, bảo đảm pháp luật thực sự phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Pháp luật được xây dựng, ban hành bằng con đường dân chủ, bảo đảm những tiêu chuẩn về tính công khai, minh bạch ngay từ khi mới hình thành ý tưởng, chính sách; bảo đảm cân bằng lợi ích giữa các thành viên trong xã hội, tránh để “nhóm lợi ích” thao túng, hướng lái chính sách, chỉ bảo vệ lợi ích cục bộ ngành/lĩnh vực trong quá trình xây dựng pháp luật; khắc phục tình trạng đưa dự thảo văn bản quy phạm pháp luật lên trang web một cách hình thức, chiếu lệ, chỉ nhằm “hợp thức hóa” quy trình, thủ tục lấy ý kiến nhân dân theo quy định của pháp luật. Đi kèm với đó là xây dựng một nền tư pháp hiện đại, bảo đảm tính độc lập trong hoạt động xét xử của tòa án, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, bảo vệ công lý, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
Việc tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW, ngày 25-5-2005, của Bộ Chính trị khóa IX, về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” đang được thực hiện giúp đánh giá khách quan, toàn diện về quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật thời gian qua; đúc kết, làm rõ những thành tựu, kết quả quan trọng đạt được, nhìn nhận, đánh giá nghiêm túc, chỉ ra những mặt còn bất cập, hạn chế của hệ thống pháp luật nói chung, công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật nói riêng, từ đó đề xuất mục tiêu, định hướng, giải pháp tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật trong thời gian tới. Cần thực hiện có hiệu quả trong thực tiễn Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật - “luật về làm luật” - vừa được kỳ họp thứ chín Quốc hội khóa XIV thông qua ngày 18-6-2020, có vai trò quan trọng thiết lập thể chế thống nhất cho việc xây dựng, ban hành hệ thống pháp luật quốc gia, củng cố trật tự, chất lượng việc xây dựng, ban hành pháp luật... Quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải ngày càng hoàn thiện theo hướng coi trọng hơn công tác phân tích chính sách, dự báo tác động và lấy ý kiến của các đối tượng chịu sự tác động của chính sách. Thời gian tới, tập trung nâng cao chất lượng công tác tổ chức thực thi pháp luật và xử lý vi phạm pháp luật - một mắt khâu còn yếu - góp phần nâng cao hiệu lực, tính nghiêm minh của pháp chế xã hội chủ nghĩa...
Nhìn rộng hơn, cần đổi mới tư duy xem pháp luật không chỉ là công cụ quản lý xã hội, mà chính là một nguồn lực phát triển, hơn thế còn là động lực, mũi đột phá để phát triển bằng thể chế, tháo gỡ các nút thắt pháp lý, tạo lập môi trường pháp lý bình đẳng, công bằng, lành mạnh, giải phóng mọi nguồn lực xã hội phục vụ sự phát triển của đất nước. Mặt khác, trên cơ sở tôn trọng đầy đủ các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên trong quá trình hội nhập, pháp luật cần trở thành một lợi thế cạnh tranh quốc gia, vừa thâu thái tinh hoa luật pháp thế giới, vừa phản ánh được những điều kiện đặc thù của Việt Nam, không chỉ tương thích, phù hợp với các chuẩn mực tiến bộ của luật pháp quốc tế, mà còn là hệ thống pháp luật có chất lượng, giàu sức hấp dẫn và tính cạnh tranh quốc tế, là công cụ quan trọng để thu hút các nguồn lực đầu tư từ bên ngoài.
Thứ tư, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục giương cao ngọn cờ bảo vệ quyền con người, coi việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người là một trong những sứ mệnh hàng đầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nền dân chủ và pháp chế xã hội chủ nghĩa đều có mục tiêu tất cả vì con người. Quyền con người, quyền công dân không chỉ được ghi nhận về mặt lập hiến và lập pháp, được thực thi về mặt hành pháp, mà còn được bảo vệ về mặt tư pháp. Điều này cũng phù hợp với quan điểm của Đảng, Nhà nước ta là đặt con người ở vị trí trung tâm của mọi sự phát triển, đồng thời đặt việc khơi dậy năng lực và phẩm chất của con người Việt Nam (tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển, tài năng, trí tuệ, phẩm chất...) là trung tâm, mục tiêu, nguồn lực và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước giai đoạn tới.
Bộ máy nhà nước và công chức nhà nước cần vượt lên tư duy quản lý truyền thống dựa trên “quyền uy”, “xin - cho” sang tư duy quản lý dựa trên nghĩa vụ, trách nhiệm - “phục vụ” người dân và doanh nghiệp như một sứ mệnh thiêng liêng, bằng sự thôi thúc của lương tri. Người dân phải là trung tâm của mọi hoạt động phục vụ của Nhà nước, đặt toàn bộ tổ chức và hoạt động của Nhà nước trên nền tảng “phục vụ nhân dân”. Bảo đảm nguyên tắc công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm, trong khi cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Khắc phục tình trạng thiếu sự phân công và phối hợp rõ ràng, thậm chí xung đột giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp dẫn tới các hiện tượng phân lập, cục bộ, khép kín, giảm hiệu lực, hiệu quả trong tổ chức và hoạt động của một số thiết chế thực thi quyền lực. Thực hiện các biện pháp để kịp thời phòng ngừa, kiểm soát, ngăn chặn và xử lý những biểu hiện tha hóa quyền lực, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của các thiết chế trong hệ thống chính trị.
Nhân dân trao quyền nhưng cũng có quyền thay thế những người không xứng đáng. Điều này từ sớm, ngay từ năm 1947, đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”(2). Sự ủy thác quyền lực của nhân dân cho nhà nước không phải bất biến, một lần, trái lại nó là quá trình không ngừng điều chỉnh và mang tính khả biến. Sự ủy thác quyền lực trên giống như một khế ước giữa nhân dân và nhà nước, nếu những điều khoản cam kết bị xâm hại và bị chối bỏ, cần xóa bỏ khế ước ấy và thay thế bằng một khế ước mới bằng cách nhân dân tìm cho mình những đại diện mới tin cậy hơn. Do đó, cần khắc phục những biểu hiện dân chủ hình thức trong bầu cử, bảo đảm cử tri trực tiếp bãi miễn đại biểu của mình nếu họ không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của cử tri. Trong bất kỳ nền dân chủ nào, cùng với các hình thức dân chủ gián tiếp, cũng cần thiết kế và hướng tới việc gia tăng không ngừng cách thức thực hành dân chủ trực tiếp của người dân. Nâng cao chất lượng, hiệu quả việc tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân và giải quyết các công việc sau đối thoại của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền; thiết lập cơ chế các đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách, chuyên nghiệp, có văn phòng tiếp xúc cử tri, gia tăng hình thức tiếp xúc cử tri thực chất, hạn chế những tiếp xúc còn mang tính hình thức. Đại biểu dân cử tiếp nhận đơn, thư, kiến nghị của nhân dân phải đồng hành cùng đơn, thư đó đến các địa chỉ có thẩm quyền, trách nhiệm giải quyết cuối cùng, khắc phục bằng được tình trạng đơn, thư vòng vèo. Tăng cường các cơ chế đối thoại với mọi tầng lớp nhân dân, tập hợp trí tuệ của rộng rãi nhân dân, nhất là trí tuệ của tầng lớp tinh hoa, những người tiêu biểu, có uy tín. Các tổ chức xã hội không chỉ được xem là đối tượng chịu sự quản lý của Nhà nước mà còn là đối tác của Nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề của đời sống xã hội, có vai trò tích cực trong các hoạt động xây dựng, hoạch định, phản biện chính sách, các hoạt động lập pháp, lập quy. Sớm xây dựng và ban hành luật về giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, của nhân dân.
Trong xử lý mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội cần tính đến những biến thể mới của các hình thức dân chủ và pháp chế trong kỷ nguyên số và thời đại ngày nay. Xây dựng mô hình chính quyền mở trên cơ sở tận dụng công nghệ thông tin, các phương tiện truyền thông mới để gia tăng độ mở thông tin và sự tương tác trực tuyến giữa chính quyền và nhân dân; đồng thời bổ sung chế tài xử lý những hành vi vi phạm pháp luật trên không gian mạng... Quá trình giải quyết các mâu thuẫn xã hội phát sinh phải dựa trên giá trị quan hoặc sự giao tiếp, đối thoại, thay cho sự áp đặt hay lối thỏa hiệp tùy tiện; trang bị kỹ năng xử lý, ứng biến với khủng hoảng thông tin cho cấp ủy, chính quyền các cấp. Đặc biệt quan tâm giải quyết căn cơ những vấn đề vốn đang là tâm điểm xảy ra các xung đột, mâu thuẫn xã hội, nhất là liên quan tới vấn đề về lợi ích, sở hữu, quản lý tài nguyên, nhất là tài nguyên đất đai...
Xây dựng văn hóa dân chủ và văn hóa thượng tôn pháp luật xã hội chủ nghĩa. Dù thể chế và các thiết chế dân chủ được bảo đảm, thì dân chủ vẫn khó thực hành được trong thực tiễn một cách nhuần nhuyễn và thực chất nếu bản thân chủ thể của quá trình đó là người dân chưa có năng lực thực hành dân chủ, chưa biết sử dụng quyền dân chủ của mình, dễ dẫn tới hai thái cực: chịu đựng sự hạn chế về dân chủ hoặc dân chủ cực đoan. Do đó, như Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, cần “làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”(3). Việc nâng cao dân trí, bồi đắp nhận thức về dân chủ, phương pháp thực hành dân chủ, bản lĩnh thực hành dân chủ, cao hơn phải trở thành văn hóa dân chủ là yêu cầu cấp thiết đặt ra, cần được giáo dục ngay từ trong các cấp học, thẩm thấu lâu dài, bền bỉ. Điều đó cũng tương tự với việc xây dựng văn hóa thượng tôn pháp luật. Khi trở thành văn hóa, dân chủ và pháp chế xã hội chủ nghĩa không chỉ là thước đo về dân trí, mà còn là dân khí, trở thành một động lực cho phát triển.
***
Tuy nhiên, do nền tảng văn hóa dân chủ và văn hóa pháp luật còn yếu trong đời sống xã hội nước ta, nên trong xử lý mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội cần xác định đây là mối quan hệ phải giải quyết lâu dài, thường xuyên, không thể một sớm một chiều, để thẩm thấu dần ý thức tuân thủ pháp luật một cách tự giác, trở thành thói quen, cao hơn là thành văn hóa đối với mọi chủ thể trong xã hội, đồng thời người dân biết hưởng quyền và biết cách dùng quyền dân chủ của mình. Nhưng mặt khác, trong điều kiện hiện nay, do tầm quan trọng và sự ảnh hưởng rộng lớn của mối quan hệ trên đối với mọi mặt của đời sống xã hội, “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”(4) như Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, nên mặc dù được xác lập sau, mối quan hệ lớn giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội cần được chú trọng hơn trong tổng thể việc nhận thức và giải quyết các mối quan hệ lớn khác, nhất là việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Đồng thời, xem xét nên thay thế thuật ngữ “pháp chế” bằng “pháp quyền”. Bởi, chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền được chính thức hiến định, nhất là trong Hiến pháp năm 2013, là một bước tiến lớn về nhận thức lý luận và chính trị - pháp lý của Đảng ta. Bản thân thuật ngữ “pháp chế” thiên về phản ánh yêu cầu tuân thủ pháp luật, mà chưa hàm ý nhiều về yêu cầu chất lượng pháp luật hoặc tính chất của pháp luật. Trong khi đó, khái niệm “pháp quyền” vừa bao hàm ý trên (thượng tôn pháp luật), vừa mang hàm ý về thiên chức pháp luật là “kiểm soát quyền lực” (dù đó là quyền lực của nhà nước hay kiểm soát quyền lực của các tập đoàn, doanh nghiệp trong khu vực tư). Nói tới “pháp quyền” cũng đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật mang giá trị công bằng, không thiên vị, được hình thành bằng con đường dân chủ. Điều đó cũng đồng nghĩa, sử dụng thuật ngữ “pháp quyền” đã bao hàm yêu cầu “pháp chế”, đồng thời còn mang những hàm ý sâu sắc và tiến bộ phù hợp xu thế thời đại. Theo đó, nên định danh mối quan hệ lớn thứ mười thành mối quan hệ giữa: “Thực hành dân chủ, củng cố nền pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm kỷ cương xã hội”.
Việc bổ sung mối quan hệ lớn giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội là sự vận dụng sáng tạo và phát triển hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, làm phong phú thêm lý luận về đổi mới của Đảng ta. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận đổi mới là kim chỉ nam dẫn dắt dân tộc ta vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội./.
----------------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 320
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 75
(3), (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 293, 325
Lê Hải