Hàng loạt “quan chức” hầu tòa: Lỗi cơ chế hay phẩm chất?

LTS: 10 năm qua (2012-2022), đã có 7.390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng. Riêng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (TNTC) đã đưa vào diện theo dõi, chỉ đạo gần 1.000 vụ án, vụ việc ở 3 cấp độ; đã đưa ra xét xử sơ thẩm 120 vụ án, 1.083 bị cáo, trong đó có 37 cán bộ diện Trung ương quản lý bị xử lý hình sự.

Nhiều “quan chức” cấp cao hầu tòa khiến dư luận cộm lên một câu hỏi: Lỗi ấy do đâu? Một câu hỏi nhức nhối và đó là lý do nhóm phóng viên Báo Quân đội nhân dân tổ chức loạt bài này.

 

Bài 1: “Bẫy” suy thoái không cấp thẻ miễn trừ

Không tự giác sẽ biến mình thành người có tội

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng: “Tham nhũng là "khuyết tật bẩm sinh" của quyền lực, là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ ta. Thời đại nào, chế độ nào, quốc gia nào cũng có, không thể xóa ngay tận gốc tham nhũng trong một thời gian ngắn”. Nhận định ấy có nghĩa là, nơi nào có quyền lực nhà nước thì nơi ấy có nguy cơ xảy ra tham nhũng.

Nhận định ấy cũng rất đúng với tư tưởng Hồ Chí Minh, khi mà từ 70 năm trước (năm 1952), Người từng viết: “Có những người trong lúc tranh đấu thì hăng hái, trung thành, không sợ nguy hiểm, không sợ cực khổ, không sợ quân địch, nghĩa là có công với cách mạng. Song đến khi có ít nhiều quyền hạn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí, quan liêu, không tự giác, mà biến thành người có tội với cách mạng”.

Phát biểu trước tòa, ông Đinh La Thăng cựu Ủy viên Bộ Chính trị, người từng được Đảng, Nhà nước giao rất nhiều trọng trách, đã rơi nước mắt nhắc lại những năm tháng tuổi trẻ với sự hy sinh, cống hiến tuổi xuân trên công trường thủy điện Sông Đà. Nghe ông nói, không ai phủ nhận ông đã có một thời tuổi trẻ sôi nổi, với một lý tưởng sống rất đẹp. Nhưng khi bước lên những nấc thang của quyền lực, đứng đầu một tập đoàn kinh tế, đứng đầu một bộ, ông đã cố ý (hoặc vô tình) làm trái các quy định của pháp luật, gây ra những hậu quả to lớn, nghiêm trọng cho kinh tế đất nước.

Ông nắm rõ quy định của pháp luật về quản lý tài sản Nhà nước, nhưng vẫn cố tình thu xếp cho Công ty Yên Khánh của Đinh Ngọc Hệ trúng thầu quyền thu phí một tuyến cao tốc, gây thất thoát 725 tỷ đồng. Ông biết rõ việc góp vốn của Nhà nước vào OceanBank là trái thẩm quyền, không đúng chức năng nhưng vẫn cố tình ký kết, làm thất thoát 800 tỷ đồng... Đó chỉ là hai trong nhiều vụ án mà ông Đinh La Thăng bị khởi tố, cho thấy ông đã “tự tung, tự tác”, tự cho mình quyền coi thường kỷ luật của Đảng, pháp luật Nhà nước.

Ông Nguyễn Bắc Son, cựu Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, người giữ vai trò quyết định trong thực hiện dự án MobiFone mua 95% cổ phần AVG bất chấp quy định của pháp luật. Hành vi của ông Son và đồng phạm gây thiệt hại tài sản Nhà nước 6.500 tỷ đồng. Riêng ông Son nhận 3 triệu USD tiền hối lộ trong vụ việc này. Một hành vi tham ô khủng khiếp, không gì bào chữa được. Ông Son từng là sĩ quan quân đội, đã tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, nhưng những phẩm chất cao quý mà ông tích lũy được trong quân ngũ đã bị bắn gục bởi “viên đạn bọc đường” khi đã lên đến một nấc rất cao của danh vọng.

Minh họa: QUANG CƯỜNG

Minh họa: QUANG CƯỜNG


Ông Vũ Huy Hoàng, cựu Bộ trưởng Bộ Công Thương là một ví dụ điển hình về sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Ông đã sử dụng quyền lực được nhân dân ủy thác để vụ lợi trong việc tiếp nhận, bổ nhiệm con trai là Vũ Quang Hải làm kiểm soát viên Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam; quyết định điều động và đề cử Vũ Quang Hải tham gia Hội đồng quản trị Tổng công ty Bia-Rượu-Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) để bầu làm thành viên Hội đồng quản trị, Phó tổng giám đốc Sabeco. Trên cương vị Bộ trưởng, ông Vũ Huy Hoàng đã có ý kiến chỉ đạo Sabeco góp vốn bằng quyền sử dụng khu đất số 2-4-6 Hai Bà Trưng (TP. Hồ Chí Minh) và tiền của Sabeco để thành lập liên doanh Sabeco Pearl, đầu tư thực hiện dự án "xây dựng khách sạn 6 sao" tại khu đất trên. Sau đó, ông lại chỉ đạo Sabeco thoái toàn bộ vốn góp tại Sabeco Pearl, dẫn tới quyền quản lý, sử dụng khu đất số 2-4-6 Hai Bà Trưng bị chuyển từ doanh nghiệp nhà nước sang tư nhân trái pháp luật, gây thất thoát hơn 2.700 tỷ đồng. Những hành vi của ông đã vi phạm quy định của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về những điều đảng viên không được làm và quy định của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; vi phạm Luật Phòng, chống tham nhũng, gây bức xúc trong xã hội.

Nếu nhắc tới sự tha hóa phẩm chất khi đã ngồi vào vị trí “chức trọng, quyền cao", chúng ta không khỏi đau xót khi nhắc đến ông Nguyễn Đức Chung, cựu Chủ tịch UBND TP. Hà Nội. Ông trưởng thành trong ngành công an, từng là người cảnh sát hình sự nổi tiếng dũng cảm, từng lập được không ít chiến công trên lĩnh vực phòng, chống tội phạm, được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, trở thành một vị tướng công an khi độ tuổi còn trẻ. Với những phẩm chất đáng quý đó, người dân từng tràn trề hy vọng ông sẽ có những đóng góp xứng đáng khi trở thành người đứng đầu chính quyền TP. Hà Nội. Nhưng sự suy thoái không có “thẻ miễn trừ” với bất kỳ ai, khi ông sa vào chủ nghĩa cá nhân, khi ông bỏ quên sự tu dưỡng, rèn luyện các phẩm chất đạo đức và để chủ nghĩa danh lợi lấn át. Ông bị tòa án tuyên phạm tội "chiếm đoạt tài liệu bí mật nhà nước"; “lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” với tổng mức hình phạt trong 3 vụ án là 12 năm tù tính từ ngày bị bắt 28-8-2020. Đáng nói hơn, ông Nguyễn Đức Chung có học vị tiến sĩ luật, rất hiểu biết pháp luật nhưng lại cố tình vi phạm pháp luật.

“Không thích thú gì việc kỷ luật đồng chí, đồng đội của mình, thậm chí rất đau xót, nhưng buộc phải làm. Như Bác Hồ đã nói, phải cắt bỏ một vài cành cây sâu mọt để cứu cả cây” - Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu trong tiếp xúc cử tri Hà Nội ngày 23-6-2022. 

 

Không thể đổ lỗi cho cơ chế

Một số trường hợp “quan chức” kể trên sa ngã trên những con đường khác nhau nhưng ở họ có một điểm chung: Họ từng là những cán bộ ưu tú của Đảng, Nhà nước nhưng khi được giao những chức quyền cao cấp, họ đã trượt xuống vũng bùn của chủ nghĩa cá nhân, đánh mất những phẩm chất đạo đức tốt đẹp mà họ đã đánh đổi cả tuổi xuân để tôi luyện. Ngự trị nơi đỉnh cao quyền lực, họ lơ là phòng bị, để “giặc trong lòng” đánh bại hoàn toàn. Sự tha hóa của những người có quyền lực hoàn toàn không phải là điều xa lạ với những người cộng sản, và không thể đổ lỗi cho bất kỳ cơ chế nào.

Cách đây ngót 180 năm, khi nghiên cứu sự tha hóa của quyền lực nhà nước ở Tây Âu, Các Mác đã đưa ra những cảnh báo: Quyền lực nhà nước càng lớn thì sự tha hóa của nó càng nguy hiểm, nó càng gần với tư cách một lực lượng tự trị thoát khỏi sự kiểm soát của con người. Các Mác coi giới quan chức tạo thành một xã hội đóng kín trong nhà nước. Nhà nước chỉ còn tồn tại dưới dạng những lực lượng quan chức cụ thể khác nhau và với mỗi quan chức cụ thể thì “mục đích nhà nước biến thành mục đích cá nhân của y, thành việc chạy theo chức tước, thành việc mưu danh, cầu lợi”.

Sự tha hóa của giới quan chức là biểu hiện của việc tha hóa quyền lực chính trị, đây dường như là căn bệnh chung của mọi kiểu nhà nước. Các Mác đặc biệt lưu ý sự tha hóa của quyền lực trong nền kinh tế thị trường, đó là hiện tượng tôn thờ đồng tiền, bất chấp đạo lý. Ông đã viết: “Sức mạnh của tiền lớn bao nhiêu thì sức mạnh của tôi cũng lớn bấy nhiêu... Tôi là người xấu, không thật thà, không có lương tâm, ngu ngốc, nhưng tiền được tôn thờ thì người có tiền cũng được tôn thờ, tiền là cái tốt cao nhất thì người có nó cũng tốt”.

Từ phân tích của Các Mác về nguy cơ tha hóa của những người giữ quyền lực mà những người cộng sản đặt ra yêu cầu rất cao của việc giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng. Lê-nin từng yêu cầu phải “lay động các tòa án nhân dân và dạy cho họ biết trừng trị một cách không thương xót, kể cả việc đem bắn những kẻ lạm dụng chính sách kinh tế mới”, “đối với người cộng sản phải trừng phạt nặng hơn gấp ba lần so với những người ngoài đảng”, “tôi rất mong chúng ta có thể đuổi ra khỏi đảng từ 10 vạn đến 20 vạn người đã len lỏi vào đảng và đã không những không biết đấu tranh chống bệnh giấy tờ cùng nạn hối lộ, mà còn cản trở cuộc đấu tranh này”.

Lê-nin cũng cảnh báo hai khuynh hướng sai lầm trong đấu tranh chống sự suy thoái của những người giữ quyền lực nhà nước: Một là, quan niệm giản đơn, đây là căn bệnh dễ chữa trị nên những người cộng sản có thể hạn chế, khắc phục nó chỉ trong thời gian ngắn. Hai là, cho rằng đó là thuộc tính xã hội của quyền lực nhà nước nên sự tồn tại của tham nhũng là tất yếu, con người chỉ có thể hạn chế mà không thể xóa sạch nó.

PGS, TS Nguyễn Thanh Hải, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên từng trả lời phóng viên Báo Quân đội nhân dân về văn hóa liêm chính trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay: “Trước đây, trong các cuộc kháng chiến, bảo vệ Tổ quốc, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã xây dựng nên một xã hội liêm chính với tinh thần “con cá, chột nưa”, kể cả trong thời bao cấp thì văn hóa “cho không lấy, thấy không xin, xin không cho” vẫn lan tỏa trong xã hội như một nếp sống đẹp. Đến khi mở cửa, hội nhập với thế giới, phát triển kinh tế thị trường, chúng ta đã sớm biết rõ tác hại từ mặt trái của nó, nói một cách hình ảnh là khi ta mở cửa thì cùng với những làn gió tươi mới, mát lành cũng không thể tránh khỏi có cả những làn gió độc bay vào.

“Văn hóa thực dụng” xuất hiện, dẫn tới nhiều cái xấu độc cũng bị ngộ nhận trở thành văn hóa. Đồng tiền chi phối cuộc sống khiến nhiều quan niệm văn hóa bị méo mó, lệch lạc. Ví dụ, bây giờ có những cán bộ liêm chính mà tác phong, lối sống quá giản dị thì thường bị dư luận chê là nghèo, cổ hủ, lạc hậu. Hoặc có những cán bộ trong sạch, gương mẫu nhưng không được xung quanh ủng hộ, cùng lắm là được “kính nhi viễn chi”, được an ủi, động viên riêng lẻ chứ ít được ủng hộ công khai. Hay những người đấu tranh chống TNTC lại bị chính người thân phản đối, ghẻ lạnh. Đó là những vấn đề khiến văn hóa liêm chính chưa lan tỏa mạnh mẽ trong cộng đồng”.

Lịch sử cách mạng Việt Nam chứng minh, từ khi trở thành Đảng cầm quyền cho đến nay, những người cộng sản Việt Nam đã nêu những tấm gương sáng ngời về đạo đức khi được nhân dân giao phó giữ chức trọng, quyền cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ tối cao của dân tộc và Người đã hiến cả cuộc đời cho lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong lòng dân và trong trái tim nhân loại, Người là hiện thân của đạo đức mới, đạo đức cộng sản. Trong di sản mà Người để lại cho con cháu mai sau, có một kho báu vô tận đó là nền tảng đạo đức “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.

Trong bài viết "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam", Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải chăng những mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi”.

Vì thế, chẳng phải ngẫu nhiên khi phát biểu kết luận Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác phòng, chống TNTC ngày 30-6-2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lại giãi bày tâm sự: “Cái quý nhất của con người là cuộc sống và danh dự sống, bởi vì đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí; để khỏi hổ thẹn vì những việc làm ti tiện, đớn hèn, bị mọi người khinh bỉ; để đến khi nhắm mắt, xuôi tay, ta có thể tự hào rằng: Tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời - sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì sự trường tồn của dân tộc, sự vẻ vang của giống nòi và hạnh phúc của nhân dân”.

Bằng con đường thực hành đạo đức cách mạng trong cơ chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất định những người cộng sản Việt Nam sẽ tránh được “bẫy” suy thoái của quyền lực. Con đường đó không hề bằng phẳng, dễ dàng, thậm chí sẽ phải trả giá bằng việc loại ra khỏi đội ngũ rất nhiều cán bộ cấp cao vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước. Cùng với thực hành đạo đức cách mạng, Đảng, Nhà nước còn phải thực thi kiểm soát quyền lực. Vấn đề này sẽ được chúng tôi đề cập ở những bài viết tiếp theo.

“Tham nhũng thường diễn ra trong nội bộ, do người có chức, có quyền thực hiện. Phòng, chống tham nhũng là cuộc đấu tranh ngay trong chính bản thân mỗi con người, trong mỗi cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương mình; liên quan đến lợi ích, chức vụ, danh vọng, uy tín của tổ chức, cá nhân. Vì vậy, phải có thái độ thật kiên quyết, không khoan nhượng và hành động thật quyết liệt, cụ thể, hiệu quả. Người đứng đầu phải chịu trách nhiệm về những yếu kém, sai phạm về tham nhũng trong tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương mình”-Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu ngày 30-6-2022. 

 

 

Bài 2: Khi quyền lực chưa bị nhốt trong “lồng cơ chế”

Dù khẳng định việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống là nhân tố quyết định để cán bộ, đảng viên (CBĐV) không TNTC nhưng thực tế cho thấy, TNTC - biểu hiện rõ nhất của sự tha hóa quyền lực cũng là yếu tố khách quan ở bất kỳ chế độ xã hội và thời đại nào.

Bởi tạo hóa sinh ra con người vốn có lòng tham và những ham muốn mang tính bản năng. Chính vì vậy, muốn ngăn chặn TNTC thì phải có giải pháp kiểm soát quyền lực hiệu quả, nói như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là phải “nhốt quyền lực trong lồng cơ chế”. Thế nhưng, dù Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều quy định để kiểm soát quyền lực song “lồng cơ chế” vẫn còn những “lỗ hổng”...

Nguy hiểm từ quyền lực “ngầm”

Tìm hiểu những vụ việc vi phạm pháp luật, kỷ luật của cán bộ có chức quyền trong những năm qua, nhất là những vụ án cán bộ cấp cao vi phạm pháp luật, chúng tôi nhận thấy hầu hết khi đương chức, những cán bộ này như là “vua con”. Dù họ có nhiều việc làm sai trái nhưng cấp dưới không dám ngăn cản, thậm chí buộc phải làm theo. Chẳng hạn, ông Vũ Huy Hoàng có nhiều sai phạm trong việc bổ nhiệm cán bộ khiến dư luận rất bất bình. Rồi các ông: Nguyễn Bắc Son khi làm Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, Tất Thành Cang khi làm Phó bí thư Thường trực Thành ủy TP. Hồ Chí Minh, Nguyễn Đức Chung khi làm Chủ tịch UBND TP. Hà Nội... cùng nhiều cán bộ cấp bộ, cấp tỉnh, cấp huyện đã ngang nhiên lạm dụng quyền lực, lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ để tham nhũng, trục lợi.

Vì sao Đảng ta đã có quy định về những điều đảng viên không được làm, đã ban hành các quy chế, quy định yêu cầu các cấp ủy và CBĐV, nhất là cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu tổ chức đảng phải gương mẫu thực hiện để chống lạm dụng quyền lực; pháp luật cũng có những quy định khá chặt chẽ để phòng, chống lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ, chống TNTC, nhưng vẫn có nhiều CBĐV, công chức, nhất là cán bộ cấp cao vi phạm như vậy?

Minh họa: Thái An

Minh họa: Thái An


Thẳng thắn nhìn nhận chúng ta sẽ thấy, “lỗ hổng” ở đây chính là sự lạm quyền của một số cán bộ cấp cao, của người đứng đầu. Lạm quyền dẫn đến siêu quyền lực, siêu mánh lới, siêu mưu kế đen tối ở một số cán bộ, một số người đứng đầu. Nguyên nhân sâu xa dẫn đến “lỗ hổng” kiểm soát quyền lực này chính là vai trò của người cầm cân nảy mực. Việc phát huy trách nhiệm, quyền hạn người đứng đầu là phù hợp với thực tế phát triển, nhưng nhiều người đứng đầu không chuẩn mực về đạo đức, tư cách, nhiều trường hợp tham lam vô độ, nịnh trên nạt dưới, tạo bè cánh bao bọc cho mình. Với cơ chế chủ yếu vẫn là xin - cho, người đứng đầu có quyền phân bổ kinh phí, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ, phân công các công việc gắn liền với lợi ích cá nhân; người đứng đầu phẩm chất kém khi đã thích ai, có cảm tình với ai thì người đó được hưởng lợi (và ngược lại) thì khó ai dám trái ý "sếp" mà chủ yếu là lờ đi hoặc đồng lõa với những sai phạm của “sếp” để được lòng (đồng nghĩa với được hưởng lợi).

Thực tế cho thấy, hầu hết những sai phạm của cán bộ lãnh đạo trong những năm qua đều có sự độc đoán, chuyên quyền, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc; vi phạm các quy định trong công tác cán bộ, quản lý đầu tư, xây dựng, sử dụng đất đai, tài chính, tài sản... và cái đích cuối cùng là tham nhũng, trục lợi... Những vi phạm này, không thể nói là tất cả các thành viên cấp ủy, ban lãnh đạo và chi bộ, đồng nghiệp cùng công tác với những cán bộ đó đều “không biết”, mà nhiều người biết rõ nhưng không có ý kiến phản biện. Nhiều trường hợp tập thể phải biểu quyết theo quy định cũng chỉ là để “hợp lý hóa ý muốn của thủ trưởng”! Việc kiểm soát quyền lực thực sự rất khó ở chỗ này và vì thế, nhiều cán bộ cấp cao, người đứng đầu đã lạm quyền, bị quyền lực làm cho tha hóa, dẫn đến vi phạm pháp luật, kỷ luật.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã thẳng thắn đánh giá: Tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ; việc kiểm soát quyền lực còn lúng túng, hiệu quả thấp... 

 

Kiểm tra... không ra vi phạm

Như đã phân tích ở trên, tha hóa quyền lực là một thực tế khách quan, việc cán bộ tha hóa, biến chất cũng không thể tuyệt đối tránh dù ở chế độ xã hội nào. Chính vì thế, cần phải có cơ chế chặt chẽ để kiểm soát quyền lực, phòng, chống cán bộ vi phạm pháp luật, kỷ luật.

Làm cho đội ngũ cán bộ, công chức “không thể, không dám, không cần, không muốn tham nhũng” là mong muốn chung của nhân loại cũng như mọi nhà nước. Nhưng để thực hiện được “không cần, không muốn tham nhũng” là vô cùng khó. Do đó, các quốc gia đều chú trọng những giải pháp kiểm soát quyền lực để quan chức “không thể, không dám tham nhũng” và Việt Nam cũng như vậy. Cùng với những quy định chặt chẽ, chế tài xử lý nghiêm khắc của pháp luật Nhà nước, kỷ luật của Đảng, chúng ta có hệ thống các cơ quan thanh tra, kiểm tra, giám sát, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án để bảo đảm pháp luật được thực thi nghiêm túc và hiệu quả.

Nhưng những năm qua, công tác kiểm tra, giám sát của các cấp ủy đảng và thanh tra, kiểm tra của chính quyền dưới cấp Trung ương hầu như chỉ phát hiện được sai phạm của cán bộ cấp dưới, rất hiếm khi phát hiện ra sai phạm trong cấp ủy, chính quyền cùng cấp, nhất là sai phạm của người đứng đầu. Bên cạnh đó, khá nhiều tổ chức, cá nhân có vi phạm kéo dài nhưng qua nhiều lần kiểm tra, thanh tra vẫn không phát hiện ra vi phạm. Thời gian qua, có những người đứng đầu (thậm chí cả ban lãnh đạo) không chỉ vi phạm mà còn ngang nhiên can thiệp, chỉ đạo sai trái hoạt động thanh tra, kiểm tra, khiến cơ quan kiểm tra, thanh tra ở cùng cấp bị vô hiệu hóa. Đây là thực trạng rất đáng báo động. “Lỗ hổng” này đặt ra thách thức lớn trong việc kiểm soát quyền lực, phòng, chống TNTC.

Chúng ta không khỏi giật mình khi ông Nguyễn Đức Chung lúc là Chủ tịch UBND TP. Hà Nội đã chỉ đạo Công ty TNHH MTV thoát nước Hà Nội mua chế phẩm Redoxy-3C thông qua Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Arktic (là công ty gia đình của ông Chung) với giá cao hơn mua trực tiếp từ công ty của Đức, gây thiệt hại cho Nhà nước 36 tỷ đồng. Trước những ý kiến của dư luận, UBND TP. Hà Nội ban hành quyết định thanh tra việc mua sắm, quản lý và sử dụng chế phẩm Redoxy-3C để xử lý ô nhiễm các hồ ở Hà Nội. Thực hiện quyết định này, Thanh tra TP. Hà Nội đã tiến hành thanh tra và chỉ ra nhiều sai phạm. Nhưng ông Nguyễn Đức Chung lợi dụng chức vụ, nhiều lần tổ chức họp, chỉ đạo, định hướng, ép buộc Thanh tra thành phố phải kết luận là không có sai phạm, dẫn tới Chánh thanh tra TP. Hà Nội phải ký quyết định thay đổi kết luận thanh tra. Sau này, Ủy ban Kiểm tra Trung ương và cơ quan cảnh sát điều tra đã làm rõ sự việc.

Nguyên nhân nào khiến cơ quan hoặc cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra bị người đứng đầu hoặc ban lãnh đạo tổ chức đảng, chính quyền vô hiệu hóa, can thiệp, ép buộc phải kết luận sự việc không đúng với bản chất? Câu trả lời vẫn là do chịu chi phối về nhiều mặt, phụ thuộc vào lợi ích, tạo thành một vòng khép kín mang lại lợi ích cho nhau. Thật vô cùng khó để cơ quan, cán bộ cấp dưới dám chỉ ra vi phạm của cán bộ, cơ quan cấp trên có “quyền sinh quyền sát” hoặc có thể gây khó dễ đối với bản thân mình. Đây chính là bất cập lớn cần phải sớm tháo gỡ.

Bên cạnh đó, việc chúng ta gần như “bỏ ngỏ” trách nhiệm, chưa xử lý nghiêm khắc đối với cơ quan và cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra khi không phát hiện ra vi phạm của đối tượng được thanh tra, kiểm tra cũng là một “lỗ hổng” trong kiểm soát quyền lực, dẫn đến vụ việc TNTC không được phát hiện, ngăn chặn từ sớm nên ngày càng “phát triển” thành vụ việc lớn hơn.

“Khoảng trống” nhân dân giám sát

Muốn phòng, chống TNTC hiệu quả thì phải phát huy tốt vai trò kiểm tra, giám sát của nhân dân, bởi không có gì mà nhân dân không biết và không có gì qua mắt được nhân dân. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Phải biến hàng ức, hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần chúng thành những ngọn đèn pha soi sáng khắp mọi nơi, không để cho tệ tham ô, lãng phí, quan liêu còn chỗ ẩn nấp”.

Nhận thức rõ vấn đề này, suốt quá trình cách mạng, Đảng ta luôn quán triệt và thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát”, đến Đại hội lần thứ XIII vừa qua, Đảng đã bổ sung thêm “dân thụ hưởng”. Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều quy định để phát huy vai trò của nhân dân trong công tác xây dựng Đảng nói chung, trong phòng, chống TNTC nói riêng, như: Luật Phòng, chống tham nhũng; Luật Khiếu nại; Luật Tố cáo; Quy chế dân chủ ở cơ sở... Đặc biệt, ngày 3-10-2017, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Quyết định số 99-QĐ/TW về hướng dẫn tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Theo đó, các cấp ủy, tổ chức đảng phải công khai để nhân dân biết về nhiều nội dung, làm cơ sở góp ý và giám sát việc tu dưỡng, rèn luyện, giữ vững lập trường tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của cấp ủy, tổ chức đảng, CBĐV...

Tuy nhiên, hiện nay, việc phát huy vai trò kiểm tra, giám sát của nhân dân vẫn là khâu yếu, thậm chí còn tồn tại nhiều “khoảng trống” dẫn đến nhân dân rất khó thực hiện quyền kiểm tra, giám sát.

Đầu tiên, việc công khai, minh bạch là cơ sở, điều kiện để phát huy vai trò, trách nhiệm của nhân dân trong tham gia kiểm soát quyền lực, phòng, chống TNTC, bởi nếu nhân dân không biết thì làm sao có thể kiểm tra, giám sát? Thế nhưng lâu nay, việc thực hiện các quy định về công khai, minh bạch ở nhiều cơ quan, đơn vị, địa phương còn mang tính hình thức, đối phó; thậm chí, có tình trạng không thực hiện công khai và hiện tượng cố tình đóng dấu “mật” vào những tài liệu lẽ ra cần công khai. Hình thức công khai cũng chưa phù hợp, người dân khó tiếp cận, dẫn đến rất ít người biết. Đơn cử, việc công khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức là biện pháp vô cùng hiệu quả để phòng, chống tham nhũng, vì quần chúng sẽ giám sát, kịp thời phát hiện những tài sản bất thường, thông báo cho các cơ quan chức năng kiểm tra xem đó có phải là từ thu nhập phi pháp hay không; nhưng hiện nay, chúng ta chưa quy định công khai rộng rãi bản kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ các cấp để đông đảo nhân dân được biết. Việc phải công khai bản kê khai tài sản, thu nhập của những người có nghĩa vụ kê khai tại cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người đó thường xuyên làm việc (và một số trường hợp khác) cũng ít đơn vị thực hiện nghiêm.

“Khoảng trống” nữa là mặc dù Hiến pháp đã quy định rõ: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền” (Điều 8) và “... Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân” (Điều 28)... song hiện nay, vừa thiếu những quy định chi tiết để thực hiện, vừa chưa có chế tài thực sự hiệu quả để bắt buộc các cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức thực hiện đúng trách nhiệm của mình khi nhân dân thực hiện quyền giám sát và phản ánh, kiến nghị. Thậm chí, khá nhiều người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương còn chưa chấp hành nghiêm quy định tiếp công dân; vẫn còn hiện tượng trù dập, thành kiến với người khiếu nại, tố cáo, chưa thực sự quan tâm giải quyết.

Ngay việc dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị là chủ trương nhất quán của Đảng, nhưng chúng ta cũng chưa có đầy đủ quy định để phát huy hiệu quả vai trò của nhân dân trong công tác này, đặc biệt là chưa có quy định cụ thể để nhân dân tham gia vào việc đánh giá, bổ nhiệm cán bộ và phòng, chống TNTC trong đội ngũ CBĐV, dẫn đến không ít trường hợp chọn nhầm cán bộ hoặc không kịp thời phát hiện cán bộ vi phạm. Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII) đã thẳng thắn nhìn nhận: “Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của CBĐV chưa hiệu quả”...

Thực tế cho thấy, hầu hết những trường hợp cán bộ vi phạm pháp luật thì dư luận nhân dân đều có ý kiến xì xào về phẩm chất đạo đức, lối sống, về tài sản nghi ngờ bất minh từ trước khi những cán bộ này bị cơ quan chức năng phát hiện, xử lý. Vì thế, khi cán bộ đó bị kỷ luật hoặc truy tố thì người dân ở nơi cư trú và quần chúng cùng cơ quan, đơn vị cũng không mấy bất ngờ, nhất là với những cán bộ ngang nhiên vi phạm hoặc có nhiều dấu hiệu bất thường trong suốt thời gian dài, như: Trịnh Xuân Thanh (thời kỳ công tác tại Tổng công ty Cổ phần xây lắp dầu khí Việt Nam và Bộ Công Thương), Vũ Huy Hoàng (lúc là Bộ trưởng Bộ Công Thương), Tất Thành Cang (khi là lãnh đạo các cấp ở TP. Hồ Chí Minh), hay một số cựu lãnh đạo của TP. Đà Nẵng, tỉnh Bình Thuận, Bộ Y tế... 

Những “lỗ hổng” trong cơ chế kiểm soát quyền lực, cùng với hệ thống pháp luật chưa thực sự chặt chẽ, nhiều kẽ hở là nguyên nhân cơ bản khiến một số cán bộ thiếu bản lĩnh đã vi phạm pháp luật, kỷ luật. Vấn đề này, chúng tôi sẽ tiếp tục đề cập ở những bài sau.

Cùng với "nhốt" quyền lực vào trong "lồng" cơ chế, thể chế thì công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình là điều kiện đầu tiên để kiểm soát quyền lực, bảo đảm quyền lực được vận hành đúng đắn, không bị tha hóa. Vì vậy, phải tiếp tục hoàn thiện và thực hiện nghiêm các quy định về công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị và các biện pháp bảo đảm để công dân thực hiện đầy đủ quyền tiếp cận thông tin theo quy định của pháp luật - Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác phòng, chống TNTC (2012-2022).

 

 

Bài 3: Những lỗ kim đủ cho voi chui lọt

Đại án ở ngành y tế, ngoại giao chưa dừng lại; sai phạm trong quản lý đất đai, quản lý tài sản công xảy ra ở nhiều địa phương trên cả nước, điển hình là Bình Dương, Bình Thuận, Khánh Hòa, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng... đã dấy lên vấn đề: Lỗi do phẩm chất cán bộ hay do cơ chế, chính sách, luật pháp? Có thể thấy, khi cán bộ thoái hóa về phẩm chất đạo đức, lại chủ ý lợi dụng sự chưa hoàn thiện của cơ chế, kẽ hở của chính sách, pháp luật để trục lợi thì con đường từ đỉnh cao quyền lực đến "xộ khám" là tất yếu. Trong tiến trình xây dựng luật pháp và chính sách, Đảng, Nhà nước đang quyết tâm để hoàn thiện các hệ thống này.

Từ kẽ hở luật pháp về đất đai...

Trong số hàng loạt cán bộ vướng vào vòng lao lý thì số có liên quan đến sai phạm trong lĩnh vực đất đai không nhỏ. Thực tế cho thấy, khoảng 70% các vụ khiếu kiện hiện nay liên quan đến đất đai, nhiều vụ có tính chất phức tạp, kéo dài. Trong số những đơn thư khiếu kiện mà chúng tôi có điều kiện tiếp cận, phần lớn có nội dung không đồng thuận trong thu hồi, đền bù, áp giá đất giữa cơ quan nhà nước, doanh nghiệp với người bị thu hồi đất.

Luật Đất đai năm 1987 ra đời đã đóng vai trò quan trọng, thực hiện được sứ mệnh tạo ra khung khổ pháp lý hoàn thiện hơn trong lĩnh vực đất đai. Cho đến Luật Đất đai năm 2013, qua gần 9 năm thực hiện, luật đã giải quyết được nhiều tồn tại phát sinh trong thực tiễn. Tuy nhiên, trước thực tiễn thay đổi nhanh chóng, Luật Đất đai năm 2013 đã dần bộc lộ một số bất cập, trong đó có những kẽ hở, gây ra nhiều hệ lụy xã hội. Đúng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng phát biểu: “Nhiều người giàu lên nhờ đất, nhưng cũng có không ít người nghèo đi vì đất, thậm chí bị đi tù cũng vì đất, mất cả tình nghĩa cha con, anh em, đồng chí cũng vì đất”.

Hàng loạt đại án liên quan đến đất đai ở các địa phương cho thấy lĩnh vực này đã phát hiện nhiều sai phạm, phổ biến nhất là sai phạm trong giao đất, cho thuê đất, thu hồi, đền bù đất, định giá đất, đấu giá đất dẫn đến tình trạng trục lợi về đất rất lớn. Giá đất được xác định trong các trường hợp này thường thấp hơn nhiều so với giá đất trên thị trường, một mặt gây bức xúc dư luận, mặt khác đã để những kẻ cơ hội trục lợi. Các chuyên gia cho rằng, luật pháp hiện hành đang giao cho UBND cấp tỉnh, thành phố quá nhiều quyền, trong đó có quyền quyết định giá đất. Nhiều tổ chức, cá nhân lợi dụng điều này để thâu tóm, trục lợi đất. Thế mới có chuyện, có nơi người dân bị thu hồi đất được đền bù số tiền ít ỏi nhưng lại phải bỏ ra số tiền gấp nhiều lần số tiền được đền bù trả cho doanh nghiệp để mua lại một phần diện tích đất của mình bị thu hồi trước đó. Tất nhiên, diện tích đất ấy đã được chuyển đổi mục đích sử dụng thành đất ở, đất thương mại.

Một kẽ hở khác trong luật pháp về đất đai, đó là các chế tài chưa bảo đảm cho thị trường bất động sản phát triển lành mạnh, minh bạch. Vụ việc điển hình gần đây là việc đấu giá 4 lô đất ở Thủ Thiêm (TP. Hồ Chí Minh) đã cho thấy sự nguy hiểm trong lĩnh vực này. Dư luận đi từ ngỡ ngàng đến bàng hoàng khi mức trúng đấu giá của một công ty con thuộc Tập đoàn Tân Hoàng Minh lên tới 2,4 tỷ đồng/m2. Ngay sau đó, thị trường giá đất trên cả nước như "diễn xiếc", đẩy lên cao ngất ngưởng. Nhưng trớ trêu là, cuối cùng, cả 4 đơn vị trúng đấu giá này đều bỏ cọc và không nộp tiền sử dụng đất. Dư luận té ngửa khi biết rằng, luật pháp về vấn đề này chưa chặt chẽ. Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc từng phát biểu: “Có những trường hợp, vốn vay lớn gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu nhưng vẫn phát hành trái phiếu doanh nghiệp để huy động tiền, rồi lấy tiền đó đi buôn bán bất động sản. Như vụ việc đấu giá đất ở Thủ Thiêm là điển hình của việc làm nhiễu loạn thị trường". Đất đai bị đầu cơ hoặc lạm dụng sẽ ảnh hưởng lớn đến toàn bộ nền kinh tế, gây tác hại khôn lường.

Nếu cú áp phe trong vụ đấu giá đất ở Thủ Thiêm trót lọt thì sự trục lợi của các nhóm lợi ích đã toan tính là rất lớn, sẽ lại có những tỷ phú đất mới xuất hiện. Một thực tế đáng suy nghĩ, đó là nhiều tỷ phú, triệu phú ở nước ta giàu có từ kinh doanh đất đai, bất động sản, hoặc khởi đầu từ lĩnh vực này. Sự giàu có từ buôn bán đất đai trên thực tế không tạo ra nhiều giá trị gia tăng về của cải vật chất như lĩnh vực sản xuất. Một hiện tượng bất thường trong xã hội, đó là rất nhiều người dân “chân đất” cũng đi buôn bán đất, đầu cơ đất. Thị trường mua bán đất ngầm hoạt động rầm rộ, lượng tiền giao dịch thực tế rất lớn nhưng số thuế Nhà nước thu được lại không phản ánh đúng thực tế.

Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16-6-2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về "Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao" cũng chỉ ra: “Chính sách, pháp luật về đất đai còn nhiều hạn chế, bất cập, chồng chéo, thiếu thống nhất, ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý, tạo kẽ hở để không ít cá nhân, tổ chức lợi dụng, tham nhũng, trục lợi, gây thất thoát, lãng phí tài sản nhà nước”. Bởi thế, việc hoàn thiện thể chế, chính sách, luật pháp trong lĩnh vực đất đai vừa cấp bách, vừa lâu dài.

Minh họa: Phạm Hà

Minh họa: Phạm Hà


... Đến lỗ hổng trong quản lý tài sản nhà nước

Vấn đề nhức nhối trong quản lý tài sản công đã thường xuyên làm nóng các cuộc họp, trao đổi từ nghị trường cho đến bàn trà, quán cóc. Sở dĩ tài sản công rất được quan tâm bởi đó là nguồn lực quan trọng của quốc gia. Nhiều cán bộ biến chất, nhiều “nhóm lợi ích” đã tìm mọi cách để đục khoét. Vì sao một cá nhân như Phan Văn Anh Vũ (Vũ "nhôm") có thể lấy được mấy chục trụ sở nhà đất vốn thuộc các cơ quan nhà nước, ở các vị trí đắc địa? Vì sao trong vụ AVG (sai phạm ở Tổng công ty Viễn thông Mobifone), các đối tượng có thể chia chác được nhiều nghìn tỷ đồng bằng một hợp đồng “diễn xiếc” qua mặt các cơ quan chức năng có trách nhiệm thẩm định, giám sát? Vì sao sau cổ phần hóa, một số đất đai, nhà máy, xí nghiệp, tài sản của tập thể, sở hữu nhà nước trước đây đã rơi vào tay một vài cá nhân, trở thành của tư? Không chỉ vậy, có những tài sản nhà nước trong tổ chức, doanh nghiệp cũng bị rơi vào tay cá nhân, hoặc bị sử dụng lãng phí, bị thâu tóm với giá "bèo". Dư luận không khỏi xót xa với những dây chuyền mua sắm công nghệ cũ, lạc hậu của một số nhà máy đường, xi măng, nhà máy gang thép, đóng tàu... sau một thời gian ngắn đã phải "đắp chiếu".

Có thể nói rằng, cùng với Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017 và các văn bản pháp luật, chúng ta đã có hệ thống pháp luật quản lý tài sản công khá đầy đủ, giúp từng bước chấn chỉnh việc quản lý không chặt chẽ tài sản công. Tuy vậy, trên thực tế, tình trạng làm sai pháp luật, lợi dụng kẽ hở để lách luật vẫn rất đáng lo ngại. Điển hình là một số lĩnh vực trong thực hiện cơ chế tự chủ đối với các đơn vị công lập; thực hiện hợp đồng BT, BOT; cơ chế quản lý, hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty, tổ chức tín dụng... Tại Hội thảo “Đổi mới quản lý tài sản công ở nước ta gắn với phòng, chống “nhóm trục lợi” được tổ chức mới đây, PGS, TS. Đoàn Minh Huấn, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản cho rằng, nhận diện "nhóm trục lợi", những lỗ hổng trong quản lý tài sản công, đúc rút bài học kinh nghiệm và kiến nghị để hoàn thiện, bổ sung chính sách... là vấn đề khó của mọi quốc gia và là vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.

Nhiều chuyên gia trong lĩnh vực quản lý đã chỉ ra, trong quản lý tài sản công vẫn chưa rõ trách nhiệm của các chủ thể thực thi quyền tài sản công, gồm người định đoạt tài sản, người chiếm hữu, quản lý tài sản, người sử dụng tài sản. Cũng từ thực tế cho thấy, tình trạng người đứng đầu cơ quan, đơn vị không ban hành quy chế quản lý, sử dụng tài sản công để tổ chức thực hiện không hiếm. Điều này dẫn đến một số nơi tài sản công bị quản lý lỏng lẻo, không rõ trách nhiệm. Những sai phạm này không được thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát kịp thời dẫn tới hậu quả xảy ra trong thời gian dài, phức tạp, rất khó khắc phục. Ngay trong phiên chất vấn và trả lời chất vấn về công tác quản lý, khai thác, sử dụng quỹ nhà, đất thuộc quản lý nhà nước trên địa bàn TP. Hà Nội diễn ra đầu tháng 7-2022, các đại biểu Hội đồng nhân dân TP. Hà Nội đã chất vấn việc thành phố có 802/803 hợp đồng nhà chưa được gia hạn, chưa được ký và có sai phạm trong sử dụng nhà chuyên dùng. Đặc biệt, nợ nghĩa vụ tài chính của các tổ chức, cá nhân sử dụng nhà chuyên dùng trên địa bàn TP. Hà Nội khoảng 1.200 tỷ đồng kéo dài nhiều năm và xu hướng ngày càng tăng. Đây cũng là thực trạng chung ở một số địa phương hiện nay.

Cũng theo các chuyên gia, trong quản lý tài sản công, điều quan trọng là phải bằng mọi quy định pháp luật để từng bước loại bỏ hoàn toàn cơ chế “xin - cho”. Nếu đâu đó còn việc phân bổ nguồn lực theo cơ chế “xin - cho”, quan hệ thân hữu không dựa trên cơ chế thị trường và cạnh tranh công bằng thì nơi đó chắc chắn hình thành “nhóm lợi ích”, “nhóm trục lợi”. Loại bỏ dứt điểm cơ chế "xin - cho" phải bằng chế tài pháp luật chặt chẽ chứ không thể dùng mệnh lệnh hành chính. Để phòng, chống tham nhũng hiệu quả, nhất là lĩnh vực quản lý tài sản công, tài chính công, chúng ta nên nghiên cứu xây dựng Luật Đăng ký tài sản. Chế tài luật để xử lý hiện tượng nhiều người đang đứng tên, chiếm, sở hữu tài sản mà có thể đó là hợp pháp hay không hợp pháp, có chứng minh được nguồn gốc hợp pháp hay không. Đó cũng là chế tài để xử lý tình trạng các đối tượng tham nhũng che giấu tài sản.

Tiên và hậu đều trách... cán bộ thoái hóa

Hơn 20 năm trước đây, đăng đàn trước Quốc hội, một vị chánh án từng phát biểu gây xôn xao dư luận, nêu ra thực trạng đáng suy ngẫm, đó là tình trạng luật pháp của chúng ta tạo ra những cách hiểu khác nhau. Ông nói điều đó nhằm cảnh báo về hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh.

Luật pháp và chính sách là xương sống trong quản trị quốc gia. Đảng, Nhà nước không bao biện và luôn nhìn thẳng vào thực tế để thấy rằng, chúng ta có hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ; có rất nhiều chính sách tiến bộ, phù hợp với thực tiễn, đặc biệt những chính sách về an sinh xã hội bảo đảm tốt nhất quyền con người. Dù vậy, còn những văn bản luật, những chính sách cần nghiên cứu sâu từ thực tiễn để điều chỉnh cho phù hợp, nhất là những bộ luật, chính sách có ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội như đã phân tích. Đại dịch Covid-19 đã cho chúng ta thêm góc nhìn khách quan về các chính sách ở nhiều lĩnh vực, trong đó có chính sách công. Ở những thời điểm khó khăn nhất, về cơ bản, đội ngũ ngành y vẫn quyết tâm, làm việc hết mình, sẵn sàng xả thân nơi gian khó. Nhưng sau một thời gian dài trên tuyến đầu chống dịch, chính sách tiền lương, chế độ ưu đãi với họ không phù hợp sức lao động bỏ ra đã khiến hàng nghìn nhân viên ngành y rời hệ thống y tế công lập. Không chỉ ngành y, nhiều ngành nghề đang có những bất cập giữa lương và thu nhập, giữa lao động và hưởng thụ, giữa quyền lợi và trách nhiệm.

Không thể phủ nhận, tiến trình từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật luôn được Đảng, Nhà nước ta coi trọng. Chúng ta có đủ các chế tài bao quát mọi lĩnh vực và thượng tôn pháp luật đang đóng vai trò chủ đạo trong quản lý nhà nước. Tuy vậy, cũng như bất cứ quốc gia nào, Việt Nam đang trên con đường hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN, một mô hình nhà nước chưa có sẵn. Lập pháp (bao gồm cả sửa luật) phải tuân theo những trình tự, thủ tục chặt chẽ và không phải bao giờ cũng dự báo được mọi tình huống xảy ra. Hơn nữa, việc này cần thực tiễn chứng minh. Bởi thế, những khoảng trống, kẽ hở, khiếm khuyết trong quá trình thực thi pháp luật là khó tránh khỏi. Yếu tố cốt lõi chúng ta đang làm là tiếp tục xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, quản lý kinh tế - xã hội và phòng, chống TNTC; kịp thời khắc phục những bất cập, bịt kín những "khoảng trống", "kẽ hở" để "không thể TNTC".

Có đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn để trả lời câu hỏi "Hàng loạt “quan chức” hầu tòa thì lỗi tại phẩm chất hay cơ chế?".

Các Mác từng luận giải một cách thuyết phục: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”. Luận điểm này đã trở thành nền tảng, cơ sở khoa học khi nghiên cứu, giải quyết vấn đề bản chất con người. Những quan chức, cán bộ sai phạm có cả nguyên nhân do phẩm chất đạo đức, cả nguyên nhân do kẽ hở về cơ chế, chính sách, pháp luật. Trong mối quan hệ này, lỗi do sự suy thoái phẩm chất đạo đức của cán bộ mang tính quyết định. Cơ chế, chính sách, pháp luật có lỗ hổng là điều kiện để thúc đẩy họ vi phạm. Hay có thể nói, những cán bộ này là những người cơ hội chủ nghĩa. Ở một góc nhìn khác, một phần nguyên nhân dẫn tới luật pháp, chính sách của chúng ta có những kẽ hở, còn hạn chế cũng có yếu tố do chủ quan phẩm chất đạo đức của chính đội ngũ cán bộ có trách nhiệm, nghĩa vụ xây dựng hệ thống luật pháp, chính sách đó. Luật pháp, chính sách cũng là do con người xây dựng nên. Loại bỏ yếu tố về trình độ, năng lực còn hạn chế khi xây dựng luật thì tình trạng xây dựng luật pháp, chính sách theo kiểu “cuốc giật vào lòng”, “lợi ích nhóm”, "cài cắm" lợi ích vào văn bản, lợi dụng cái hợp pháp để làm điều không hợp lý chưa thực sự chấm dứt.

Đi đôi với việc tập trung chỉ đạo công tác phát hiện, xử lý tham nhũng, công tác xây dựng, hoàn thiện cơ chế, thể chế về quản lý kinh tế - xã hội và phòng, chống TNTC cũng được chú trọng đẩy mạnh, từng bước hoàn thiện cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để "không thể", "không dám", "không muốn", "không cần" tham nhũng (Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác phòng, chống TNTC (2012-2022). 

 

 

Bài 4: Hoàn thiện cơ chế để hiện thực hóa “4 không”

Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống TNTC: Phòng, chống TNTC chính là "chống giặc nội xâm" - nhiệm vụ rất quan trọng nhưng vô cùng khó khăn, phức tạp, bởi TNTC thường xảy ra ở cán bộ có chức, có quyền.

Nó đòi hỏi chúng ta phải tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên tục, bền bỉ ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực; thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kinh tế, hình sự, với những bước đi vững chắc, tích cực, chủ động và có trọng tâm, trọng điểm. Đặc biệt, phải xây dựng cho được một cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để "không thể tham nhũng"; một cơ chế răn đe, trừng trị nghiêm khắc để "không dám tham nhũng"; và một cơ chế bảo đảm để "không cần tham nhũng, không muốn tham nhũng”. Chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp về hoàn thiện cơ chế, chính sách để bảo đảm thực hiện “4 không” này.

Trước hết, phải “tuyên chiến” với “chạy chức”

Sở dĩ trước hết phải “tuyên chiến” với “chạy chức”, vì đây vừa là biểu hiện rõ nhất của sự tha hóa quyền lực, vừa là nguyên nhân cơ bản, trực tiếp dẫn đến tha hóa quyền lực, TNTC. Cổ nhân đã đúc rút “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”. Người không tốt mà lại làm cán bộ, nắm quyền lực trong tay thì đương nhiên sẽ dẫn đến tha hóa quyền lực. Ai đó đã phải đầu tư để “chạy chức”, “chạy quyền” thì tất yếu sẽ nghĩ cách TNTC để ít nhất là thu hồi số tài sản đã dùng để “chạy”, rồi còn phải tìm cách “chạy” tiếp. Thật vô cùng nguy hiểm vì đối tượng “chạy chức” sẽ lại ưu ái sử dụng những người biết “dùng phong bì, đi cửa sau”. Cái vòng “chạy chọt” cứ thế tiếp diễn, khiến người thực sự có tâm, có tài không được trọng dụng. Tha hóa quyền lực nói chung và TNTC nói riêng vì thế sẽ ngày càng nghiêm trọng, đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ. Do đó, trước tiên phải chặn bằng được nạn “chạy chức”, “chạy quyền”, kiểu “nâng đỡ không trong sáng”.

Minh họa: Mạnh Tiến

Minh họa: Mạnh Tiến


Vậy chống nạn “chạy chức” bằng cách nào?

Ngày 23-9-2019, Bộ Chính trị khóa XII đã ban hành Quy định số 205-QĐ/TW “về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền”. Mới đây, Bộ Chính trị khóa XIII tiếp tục ban hành Quy định số 69-QÐ/TW về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm, trong đó có Điều 30 về kỷ luật đảng viên vi phạm liên quan đến chạy chức, chạy quyền. Theo các quy định này, đảng viên vi phạm các quy định về chống chạy chức, chạy quyền bị xử lý kỷ luật từ khiển trách đến khai trừ; nếu liên quan đến việc đưa, nhận hối lộ hoặc các hành vi vi phạm khác đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì phải chuyển hồ sơ sang cơ quan chức năng để xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật; nghiêm cấm giữ lại để xử lý hành chính.

Thế nhưng, để có bằng chứng về việc đưa và nhận hối lộ nhằm “chạy chức”, “chạy quyền” là vô cùng khó vì nó diễn ra hết sức tinh vi, bí mật. Do đó, trước hết phải siết chặt quy trình, quy định về công tác tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ theo hướng: Gắn trách nhiệm cụ thể của người đề cử cán bộ và người đứng đầu cấp ủy đề nghị bổ nhiệm cán bộ. Ví dụ, nếu phát hiện cán bộ có sai phạm nghiêm trọng trước khi được đề cử và trong 5 năm đầu kể từ khi được bổ nhiệm thì người đề cử cán bộ đó và người đứng đầu cấp ủy đề nghị bổ nhiệm cán bộ đó cũng bị xem xét xử lý kỷ luật (tránh tình trạng núp bóng tập thể cấp ủy để “nâng đỡ không trong sáng”). Bên cạnh đó, cần thực hiện ngay việc công khai danh sách cán bộ từ quy hoạch đến đề bạt, bổ nhiệm, đánh giá, luân chuyển để quần chúng biết và cùng giám sát, vì “ngọn đèn công khai” càng rộng rãi thì càng ít “khoảng tối” mờ ám.

Đặc biệt, Đảng, Nhà nước phải kiên quyết đổi mới công tác đánh giá CBĐV, công chức, viên chức theo nguyên tắc lấy phẩm chất, tư cách và hiệu quả công việc làm thước đo chủ yếu; chuyển từ đánh giá định tính sang định lượng bằng hình thức chấm điểm trên từng nội dung, như: Bản lĩnh chính trị; phẩm chất đạo đức, lối sống; trình độ, năng lực công tác; kết quả hoàn thành nhiệm vụ theo chức trách; tinh thần đấu tranh phê bình; việc chấp hành pháp luật, kỷ luật... Chấm điểm cụ thể trên từng biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để tránh tình trạng đánh giá chung chung, cào bằng; đại đa số CBĐV được nhận xét hoàn thành tốt và xuất sắc nhiệm vụ nhưng sau đó lại “lòi ra” vi phạm pháp luật, kỷ luật. Cần nghiên cứu ban hành cơ chế lấy phiếu tín nhiệm CBĐV, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý mỗi năm một lần ở trong cấp ủy, tổ chức đảng và tập thể cơ quan, đơn vị. Như vậy sẽ hạn chế được nạn “chạy chức”, “không dám chạy” vì không xứng đáng thì sẽ sớm bị loại.

Bên cạnh đó, việc tổ chức thi tuyển cán bộ cần được triển khai thống nhất theo lộ trình ở từng cấp đối với những chức vụ có thể thi tuyển. Với mỗi vị trí cán bộ cần bổ nhiệm, trên cơ sở quy hoạch cán bộ, người đứng đầu tổ chức đảng, chính quyền hoặc thủ trưởng cấp trên trực tiếp giới thiệu hai ứng viên trở lên cùng trình bày chương trình hành động trong hội nghị cấp ủy và hội nghị cán bộ chủ trì trước khi bỏ phiếu tín nhiệm, đề cử để bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, đánh giá khách quan hơn. Đó là những biện pháp hiệu quả phòng ngừa nạn “chạy chức”, “nâng đỡ không trong sáng”, đồng thời tạo động lực để CBĐV, công chức, viên chức phấn đấu không ngừng và phòng, chống tha hóa quyền lực, TNTC...

Một bất cập nữa cần khắc phục ngay, đó là hiện nay chưa có quy định nào về xử lý hình sự đối với hành vi liên quan đến việc thiếu trách nhiệm hay vi phạm các quy định về công tác tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ. Trong khi đó, việc lợi dụng chức vụ quyền hạn, thiếu trách nhiệm dẫn đến “bổ nhiệm nhầm cán bộ” có khi còn gây hậu quả nghiêm trọng hơn nhiều so với những thiệt hại về kinh tế, sức khỏe, môi trường... của các tội danh khác.

Thủ đoạn của những người “chạy chức”, “chạy quyền”, “nâng đỡ không trong sáng” là rất tinh vi, nguy hại khôn lường. Muốn phòng, chống tha hóa quyền lực, nhất là chống TNTC thì trước hết phải khắc phục triệt để những hạn chế, tiêu cực trong công tác cán bộ để bảo đảm cho CBĐV “không thể", "không dám” TNTC.

Đại hội XIII của Đảng xác định: Tiếp tục hoàn thiện thể chế Đảng lãnh đạo công tác cán bộ, cải cách thủ tục hành chính và đẩy mạnh phân cấp, phân quyền về công tác cán bộ. Kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong từng khâu của công tác cán bộ, nhất là đối với người đứng đầu cấp ủy đồng thời là thủ trưởng cơ quan, đơn vị. Giữ vững kỷ luật, kỷ cương; tăng cường kiểm tra, giám sát, chống chạy chức, chạy quyền... Kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực trong công tác cán bộ... 

 

Dẹp ngay cơ chế xin - cho

Những hệ lụy từ cơ chế xin - cho quá rõ ràng và đã được bàn rất nhiều trong những năm qua, vì đây chính là nguyên nhân trực tiếp sinh ra tha hóa quyền lực, TNTC. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng đã yêu cầu: “Các cấp ủy, tổ chức đảng chỉ đạo rà soát, hoàn thiện các quy định, văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, điều hành bảo đảm công khai, minh bạch, góp phần xóa bỏ cơ chế xin - cho; ngăn chặn, đẩy lùi TNTC, "lợi ích nhóm", "sân sau”...

Theo tinh thần này, những năm qua, nước ta đã ban hành nhiều quy định về cải cách hành chính và thủ tục hành chính; yêu cầu các bộ, ngành, địa phương rà soát loại bỏ rất nhiều thủ tục hành chính, “giấy phép con” gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp... Thế nhưng cơ chế xin - cho vẫn chưa được loại bỏ và có nhiều biến tướng tinh vi hơn. Lẽ đương nhiên, đã có “xin” thì ắt có “cho” hoặc “không cho”. Những tổ chức, cá nhân được trao thẩm quyền (cũng là nghĩa vụ, trách nhiệm phải làm) “tự nhiên” được quyền ban ơn: Cho hay không cho, cho ít hay nhiều, cho sớm hay muộn... Chính điều vô lý này là nguyên nhân cơ bản, trực tiếp dẫn đến tha hóa quyền lực của không ít cán bộ, công chức mà biểu hiện rõ nhất là sự nhũng nhiễu, tiêu cực, “gây khó để có phong bì”; đồng thời làm người dân và cấp dưới lúc nào cũng có tâm lý đi “xin”, tạo thành lệ “muốn được việc thì phải biết bôi trơn”.

Cùng với đó, phải có cơ chế bắt buộc các cơ quan công quyền công khai minh bạch tất cả những thủ tục hành chính, các nguồn lực, tiêu chuẩn chế độ, kinh phí, chính sách, chương trình dự án, mức phân bổ cho các cơ quan, đơn vị, địa phương (trừ trường hợp thuộc danh mục phải giữ bí mật do Nhà nước quy định) để mọi người đều có thể giám sát, tránh tình trạng “ưu tiên, thiên vị” những tập thể, cá nhân “đi cửa sau”.

Chăm lo đời sống cán bộ thỏa đáng 

Làm cán bộ, công chức mà các khoản thu nhập chính đáng không đủ trang trải cuộc sống ở mức trung bình trở lên thì rất khó để giữ mình trong sạch, không TNTC. Đó là thực tế cần phải được nhìn nhận thẳng thắn, nghiêm túc và sớm có giải pháp khắc phục, vì cổ nhân đã đúc rút “có thực mới vực được đạo”, “đói ăn vụng, túng làm càn”.

Thực tế là mức thu nhập chính đáng của đa số cán bộ, công chức ngày càng thấp so với mặt bằng xã hội, bởi thu nhập bình quân của người dân tăng nhanh nhưng nhiều năm rồi nước ta chưa cải cách tiền lương; tiền thưởng của cán bộ, công chức cũng rất ít so với người lao động ngoài nhà nước. Ngay cả với cán bộ cấp cao, sau nhiều năm phấn đấu và cống hiến thì lương, phụ cấp cũng chỉ trên dưới 20 triệu đồng, không bằng thu nhập của chủ một cửa hàng hoặc cơ sở sản xuất nhỏ, hay cử nhân trẻ làm việc ở doanh nghiệp tư nhân khấm khá... Trong khi đó, cán bộ càng giữ cương vị cao thì càng có nhiều mối quan hệ, riêng khoản chi việc hiếu, việc hỷ đã rất tốn kém; rồi áp lực “một người làm quan, cả họ được nhờ”, cả đại gia đình, họ hàng, dân làng, bè bạn trông chờ giúp đỡ, tài trợ... Thực tế này ai cũng biết rõ và như vậy thì không phải cán bộ nào cũng có thể giữ mình liêm chính, nhất là khi nhiều người dân, doanh nghiệp và cấp dưới tìm cách gửi “quà” để nhờ vả, mua chuộc người có chức quyền để được ưu tiên, thỏa thuận ngầm “đôi bên cùng có lợi”! Việc bảo đảm chế độ, chính sách thỏa đáng cho cán bộ, công chức đúng với những đóng góp và trách nhiệm trên từng cương vị là giải pháp không thể thiếu để phòng, chống tha hóa quyền lực, TNTC. Nó giúp đội ngũ cán bộ chuyên tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ, vừa không cần tham nhũng, vừa không dại gì tham nhũng.

Trong nhiều nghị quyết mà gần đây là Nghị quyết Đại hội XIII, Đảng ta đã nêu rõ: Chính sách cán bộ chưa thực sự tạo động lực để cán bộ toàn tâm, toàn ý với công việc; do đó phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách chính sách tiền lương, nâng cao thu nhập và có chính sách nhà ở, bảo đảm cuộc sống để cán bộ, công chức, viên chức yên tâm công tác. Đáng tiếc là việc hiện thực hóa chủ trương này quá chậm do nhiều nguyên nhân, nhất là chưa có đủ nguồn lực. Nhưng cần thẳng thắn nhìn nhận rằng, nguồn lực của đất nước bị thất thoát do tham nhũng, lãng phí có khi còn nhiều hơn nguồn lực để cải thiện đời sống cho cán bộ, công chức, nên nếu quản lý tốt, chặn được tham nhũng, lãng phí thì sẽ có nguồn lực để trả lương tương xứng cho cán bộ, công chức.

Hoàn thiện hệ thống luật pháp để không thể tham nhũng

Trong các thành tố cơ bản có tác dụng ngăn chặn từ gốc hành vi TNTC thì cùng với chuẩn mực đạo đức trên các lĩnh vực và cơ chế kiểm soát quyền lực thì thể chế nói chung, thể chế về phòng, chống TNTC nói riêng đóng vai trò rất quan trọng. Muốn xây dựng thể chế phòng, chống TNTC tốt, phải kiểm soát chặt chẽ được việc xây dựng chính sách, pháp luật để hạn chế sự tác động tiêu cực của "nhóm lợi ích", "sân sau", "tư duy nhiệm kỳ"; ngăn chặn nguy cơ nảy sinh TNTC ngay từ khi xây dựng chính sách, luật pháp.

 Hệ thống luật pháp hiện nay của chúng ta tương đối đầy đủ, nhưng chưa thực sự đồng bộ, tính thống nhất chưa cao, còn có kẽ hở, một số nội dung còn chồng chéo, mâu thuẫn, xung đột, tính dự báo, khả thi chưa thực sự đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Đơn cử như những mâu thuẫn, chồng chéo, xung đột giữa các văn bản quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực đất đai, đầu tư, xây dựng, quy hoạch, nhà ở, kinh doanh bất động sản, môi trường... Điều quan trọng trong công tác xây dựng luật pháp, chính sách là phải lựa chọn được đội ngũ cán bộ có năng lực chuyên môn sâu, có khả năng phân tích, dự báo chính sách tốt, chuyên nghiệp, tuân thủ pháp luật, đặc biệt có đạo đức tốt, bởi xây dựng chính sách, pháp luật là công việc rất khó khăn, phức tạp.

Trong cơ chế hiện nay của chúng ta, nhiều ý kiến cho rằng, cần nghiêm túc quy trách nhiệm, xem xét, xử lý trách nhiệm đối với người đứng đầu các cơ quan, đơn vị chủ trì soạn thảo văn bản luật, xây dựng chính sách để nâng cao chất lượng xây dựng luật. Bởi một văn bản luật yếu kém, một chính sách bất cập có ảnh hưởng đến rất nhiều người, tác động xã hội lớn. Vấn đề này hiện còn bị xem nhẹ, trách nhiệm không rõ ràng. Cách thức xây dựng luật ở nước ta không do cơ quan chuyên trách, độc lập, hoặc các ủy ban của Quốc hội chủ trì soạn thảo mà thường được giao cho cơ quan thuộc Chính phủ hoặc cơ quan trực tiếp quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực xây dựng. Bởi vậy, nếu không có cơ chế kiểm soát tốt, không quy rõ trách nhiệm thì khó đạt được chất lượng văn bản tốt. Tại một số kỳ họp Quốc hội, nhiều đại biểu Quốc hội đã lên tiếng về tình trạng cài cắm “lợi ích cục bộ”, “cuốc giật vào lòng” trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Ông Nguyễn Đình Quyền, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội cảnh báo: “Lợi ích nhóm người ta cài vào thì chuyên gia pháp luật mới phát hiện được, cài kín lắm, cài đủ các loại luôn, rất kín. Không có sự phát hiện, bóc tách thì rất tai hại”.

Kiểu tham nhũng này nguy hiểm nhưng lại rất tinh vi chứ không dễ nhìn, dễ thấy như tham nhũng kinh tế. Tình trạng cài cắm “lợi ích nhóm” vào văn bản là rất nguy hiểm. Nó phá hỏng tất cả các nguyên tắc, quy tắc trong xây dựng luật pháp, làm méo mó chính sách, làm mất lòng tin của xã hội. Sâu xa hơn, nó làm tha hóa đội ngũ cán bộ, làm đảo lộn giá trị xã hội, tạo cơ hội cho các thế lực chống phá Đảng, Nhà nước, chống phá chế độ.

Cùng với sớm giải quyết hiệu quả 3 vấn đề mang tính quyết định để phòng, chống TNTC là: Bịt “lỗ hổng” trong công tác cán bộ, xóa cơ chế xin - cho và chăm lo đời sống cán bộ, công chức thỏa đáng; Đảng, Nhà nước cần quan tâm xây dựng văn hóa chống TNTC và thực hiện công khai, minh bạch một cách triệt để (trừ những nội dung pháp luật quy định cần thiết phải bảo mật), phát huy tối đa vai trò giám sát, cùng tham gia phòng, chống tham nhũng của nhân dân, báo chí... Khi có đủ giải pháp bảo đảm những người có chức quyền “không dám, không thể, không cần, không muốn tham nhũng” và xã hội có văn hóa “không chấp nhận hành vi tham nhũng” thì việc kiểm soát quyền lực mới thực sự hiệu quả; hạn chế đến mức tối đa cán bộ, công chức phải hầu tòa vì TNTC. 

 

 

Bài 5: Phẩm chất là yếu tố quyết định

LTS: Cốt lõi phẩm chất của người cộng sản là quên mình vì nước, vì dân. Chính vì vậy, đối với họ “phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”.

Của cải, tiền vàng không mua chuộc được họ. Sự nghèo khó không làm họ nao núng tinh thần. Không một thế lực nào khiến họ cúi đầu khuất phục. Thứ duy nhất mà người cộng sản theo đuổi là lý tưởng “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.

Đó không phải là lý thuyết suông mà đã được chứng minh trên thực tế trong suốt lịch sử 92 năm qua của Đảng ta, đặc biệt là trong khoảng 10 năm trở lại đây, khi Đảng ta quyết tâm đẩy mạnh cuộc chiến phòng, chống tham nhũng, làm trong sạch Đảng và hệ thống chính trị.

Cơ chế thị trường càng ngời sáng phẩm chất cộng sản

10 năm qua, chỉ tính cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý đã có 170 người bị xử lý kỷ luật; chưa bao giờ, cuộc chiến phòng, chống tham nhũng ở nước ta lại quyết liệt và thu được nhiều thành công như vậy. Kết quả đó là nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nhưng sẽ là thiếu sót nếu không nhắc đến vai trò của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, người khởi xướng và giữ vai trò quyết định trong chiến dịch “đốt lò” hiện nay.

Tổng Bí thư cũng là biểu tượng niềm tin, người truyền cảm hứng thúc đẩy cuộc chiến phòng, chống tham nhũng với những câu nói đầy chất “thép”: “Lò đã nóng lên rồi thì củi tươi vào đây cũng phải cháy”; “Nếu ai cảm thấy cản trở, nhụt chí thì dẹp sang một bên cho người khác làm”; “Việc xử lý cán bộ có sai phạm, trước nói đánh từ vai đánh xuống, nhưng giờ đánh trên đầu nhiều hơn”; “Đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng và xây dựng, chỉnh đốn Đảng chỉ làm “chùn bước” những ai có động cơ không trong sáng, đã trót “nhúng chàm” và những người không nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng, thiếu kiến thức, kinh nghiệm và bản lĩnh”.

Chính việc hàng loạt “quan chức” hầu tòa hiện nay đã lấy lại niềm tin trong nhân dân về phẩm chất của đảng viên cộng sản, chấm dứt những luận điệu xuyên tạc Đảng ta “nói vậy nhưng không làm vậy”; khẳng định những chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Chống tham nhũng phải “nói đi đôi với làm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai, không chịu sức ép của bất kỳ tổ chức nào”.

Minh họa: MẠNH TIẾN

Minh họa: MẠNH TIẾN

 

Trong vòng 10 năm qua, hơn 167.700 cán bộ, đảng viên bị kỷ luật; trong đó có 170 cán bộ diện Trung ương quản lý, có 4 Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị; 29 Ủy viên Trung ương, nguyên Ủy viên Trung ương; 50 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang...

Những con số đó nói lên điều gì? Kỷ luật hơn 167.700 đảng viên, chứng tỏ hơn 167.700 lần, bí thư cấp ủy và cấp ủy, tổ chức đảng đã nêu cao dũng khí “chặt cành, cứu cây”; chứng tỏ những “bàn tay sắt”, “bàn tay sạch” đã vươn dài từ Trung ương đến cơ sở.

Kết quả đột phá của cuộc chiến phòng, chống tham nhũng 10 năm qua đã chứng tỏ: Mặt trái của cơ chế thị trường là “cạm bẫy” suy thoái rình rập những đảng viên có chức, có quyền; nhưng cũng chính cơ chế thị trường đã làm ngời sáng phẩm chất đảng viên cộng sản. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.

Thành tựu đó là công sức của cả dân tộc nhưng trước hết là sự cống hiến, hy sinh, gương mẫu đi đầu của hàng triệu đảng viên. Nhiều người nói, có thể ở Trung ương có nhiều đồng chí cán bộ cấp cao tiêu biểu nhưng ở cơ sở thì “chất đảng viên” có vẻ đang phai nhạt. Nói như vậy là không có căn cứ.

Tấm gương đảng viên Lê Đạo, nguyên Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy Lâm Đồng, nguyên Bí thư Huyện ủy Đức Trọng là một ví dụ. 10 năm, ông cùng các đồng chí kiên trung đấu tranh vạch mặt những kẻ tham nhũng, thu hồi về cho Nhà nước gần 30 tỷ đồng. 10 năm chịu đựng cực khổ vì những trò bôi nhọ, xuyên tạc, đe dọa của những người “đồng chí” có chức, có quyền; nhưng người đảng viên ấy không một phút ngã lòng, vẫn kiên cường, bất khuất đấu tranh đến ngày thắng lợi. Đồng chí Lê Đạo là một điển hình trong muôn vạn đảng viên của Đảng đang từng ngày, từng giờ ra sức công tác, chống lại những thói hư, tật xấu để từng bước hiện thực hóa mục tiêu, lý tưởng của Đảng.

Không có cơ chế nào hoàn hảo

Có chức, có quyền là mơ ước chân chính của mỗi người, lịch sử nhân loại từ xưa đến nay đã công nhận điều đó. Nhưng có chức, có quyền dễ dẫn đến suy thoái, biến chất. Người đảng viên khi nhận thức được điều này thì phải có phương pháp tự tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cộng sản; chỉ có con đường đó mới tránh được cám dỗ về danh lợi, sắc dục.

Có người cho rằng, chỉ các nước theo chế độ tư bản chủ nghĩa với cơ chế tam quyền phân lập, các nhánh quyền lực nhà nước đối trọng, kiểm soát lẫn nhau thì quan chức mới tránh được tiêu cực, tham nhũng. Đó là quan niệm rất sai lầm.

Thực tế, các quốc gia trên thế giới hiện nay đều phải đối mặt với nạn tham nhũng, chỉ là ở mức độ khác nhau. Hàn Quốc là một nước tư bản phát triển, nhà nước theo mô hình tam quyền phân lập, pháp luật Hàn Quốc rất nghiêm khắc nhưng tình hình tham nhũng vẫn phức tạp.

Ở thượng tầng, nhiều Tổng thống Hàn Quốc bị cáo buộc dính dáng đến tham nhũng, như: Ông Kim Young-Sam (nhiệm kỳ 1993-1998) để con trai phạm tội hối lộ và trốn thuế, phải ngồi tù 3 năm và phạt 1,5 triệu USD; ông Kim Dae Jung (nhiệm kỳ 1998-2003) phải xin lỗi nhân dân trên truyền hình vì để hai người con trai bị cáo buộc tham nhũng, lạm dụng chức quyền và nhận “lại quả” từ doanh nghiệp; ông Roh Moo Hyun (tại nhiệm năm 2003-2004) đã tự tử năm 2009 sau khi sự việc người thân trong gia đình ông nhận 6 triệu USD từ một doanh nhân bị vỡ lở; ông Lee Myung Bak (nhiệm kỳ 2008-2013) cũng phải xin lỗi nhân dân vì để người thân, trợ lý nhận hối lộ; bà Park Geun Hye (nhiệm kỳ 2013-2017) còn bị phế truất chức Tổng thống, nhận án tù 20 năm vì nhận hối lộ và lạm dụng quyền lực.

Nhắc lại những trường hợp này, không phải để phân tích vấn đề của nước bạn mà để thấy, không có cơ chế hay mô hình nhà nước nào hoàn hảo để đủ sức ngăn ngừa mọi hành vi TNTC. Người đảng viên cộng sản cũng là con người, ai cũng có tính tốt và tính xấu, nhưng họ là những người có lý tưởng cộng sản, vì lý tưởng đó mà họ có ý thức phát triển những tính tốt, tránh xa “cạm bẫy” suy thoái, biến chất.

Con đường tu dưỡng của cán bộ có chức, có quyền

Nói chuyện với các đại biểu đảng viên trẻ toàn quốc ngày 27-8-2019, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tâm sự: “Nhân dịp này, tôi muốn tâm sự với các đồng chí, thật sự từ đáy lòng mình. Cứ nghĩ trong cuộc sống mà xem; có những người có thiếu thốn gì đâu mà sao tham thế? Chưa làm cái gì đã nghĩ đến “chấm mút” rồi, nói nhỏ là “chấm mút”, nói to là vi phạm pháp luật, bất chấp cả pháp luật, không còn xứng danh là đảng viên, dân khinh, coi thường.

Tại sao vừa qua đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực được dân ủng hộ? Vì nó đúng quá. Rất mong các đồng chí gương mẫu tiên phong... Hy vọng, mong các đồng chí ngồi đây có nhiều đồng chí sẽ vào Ban Chấp hành Trung ương... Nhưng không phải vào Trung ương cho nó oai, hay vào Trung ương để kiếm chác cái gì mà vào Trung ương để hy sinh, để cống hiến, để phấn đấu, để trung thành hơn nữa, làm cho Đảng ta mạnh hơn”.

Lời tâm sự từ đáy lòng của đồng chí Tổng Bí thư gợi mở điểm bắt đầu cho con đường tu dưỡng, rèn luyện của các đảng viên có chức, có quyền. Đảng ta là đảng cầm quyền, rất nhiều đảng viên vào Đảng để được dấn thân trên con đường cống hiến vì dân, vì nước; nguyện vọng được tổ chức trao các chức vụ, quyền hạn là hoàn toàn chính đáng. Đảng viên chân chính xem chức quyền như là phương tiện để khẳng định bản thân, thực hiện khát vọng, hoài bão cống hiến cho đất nước; còn người tham vọng thì coi quyền lực là phương tiện thỏa mãn mưu cầu danh lợi và lạc thú; có chức tước để dễ bề “vinh thân phì gia”. Bất luận trường hợp nào thì khi có chức, có quyền, “nói có người nghe, đe có người sợ”, sự cám dỗ sẽ giăng ra khắp nơi như mạng nhện, sẵn sàng “đón lõng, vây bắt”.

Dân gian có câu “Nay ăn cắp trứng gà, mai sẽ ăn cắp con bò”. Lòng tham của người cán bộ cũng vậy, thường bắt đầu từ những lợi ích nhỏ nhặt rất đỗi bình thường như “cân đường, hộp sữa” nhưng sẽ tăng lên từng ngày. Sa vào cạm bẫy của lòng tham nhiều khi người trong cuộc khó nhận biết, nó như sợi dây thòng lọng trói buộc người ta, lúc đầu chỉ nhẹ nhàng rồi dần bị siết chặt, rồi tự thiêu thân mình lúc nào chẳng biết. Lòng tham không cấp “kim bài miễn tử” cho bất kỳ ai, hễ người có chút chức quyền là nó lôi kéo. Chỉ một giây phút bất cẩn là rơi vào cạm bẫy của quyền lực, làm hại cả cuộc đời, có khi thân bại danh liệt.

Nhiều bị cáo từng là bộ trưởng, thứ trưởng, khi đứng trước tòa đã khóc, nghẹn ngào xin lỗi Đảng, xin lỗi nhân dân vì để lòng tham dẫn dắt vào chốn tù tội mà khi tỉnh ngộ thì đã quá muộn. Như vậy, con đường tu dưỡng của người có chức, có quyền phải bắt đầu từ đấu tranh loại bỏ sự ham muốn quá độ những lợi ích vật chất và tinh thần trong lòng mình.

Tránh rơi vào cạm bẫy của lòng tham cũng là lời dạy của Bác Hồ. Trong tác phẩm "Đường kách mệnh" xuất bản năm 1927, Người đã nêu ra tiêu chuẩn tư cách một người cách mạng. Trong đó, Người nhấn mạnh tiêu chuẩn “cần, kiệm, liêm, chính, vị công, vong tư” (điều 8) và tiêu chuẩn “ít lòng tham muốn về vật chất” (điều 13). Có người cho rằng, lòng tham là thuộc tính tự nhiên của con người, con người không thể từ bỏ được, Nhà nước và xã hội chỉ có thể hạn chế lòng tham của con người bằng cách dùng pháp luật kiểm soát chặt chẽ mà thôi.

Đó cũng là một quan niệm sai lầm, thiếu niềm tin vào tính người. Những người cộng sản Việt Nam đã chứng minh điều này bằng lớp lớp thế hệ sẵn sàng hiến cả đời mình cho lý tưởng của Đảng. Từ thế hệ tinh hoa đầu tiên của Đảng với các nhà lãnh đạo tiền bối như Hồ Chí Minh, Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Trường Chinh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh... đến thế hệ các đồng chí lãnh đạo cấp cao trong thời kỳ đổi mới như Nguyễn Văn Linh, Võ Chí Công, Phạm Hùng, Đỗ Mười... đã khẳng định nhân cách “sáng trong như ngọc” của người cộng sản.

Ngày nay, không chỉ các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu gương sáng; mà ở tất cả các cấp, các ngành, chúng ta đều thấy xuất hiện những tấm gương đảng viên tận hiến vì mục tiêu chung. Chúng ta làm sao có thể quên câu nói của đảng viên, Thiếu tướng Nguyễn Văn Man (Phó tư lệnh Quân khu 4) khi nhận nhiệm vụ đi cứu hộ Thủy điện Rào Trăng 3 (Thừa Thiên Huế) tháng 10-2020: “Nhân dân đang cần chúng ta từng giờ, từng phút, dù khó khăn thế nào cũng phải đi, kể cả có hy sinh”.

Chúng ta luôn nhớ câu chuyện về một cán bộ công tác tại Ủy ban Kiểm tra Trung ương, có người xách cả một va-li đầy ắp đô la đến hối lộ, nhưng anh đã lập biên bản rồi yêu cầu đối tượng hối lộ xách va-li về. Những câu chuyện về những đảng viên thanh liêm, chính trực, dũng cảm như vậy hiện nay không ít, ở cấp nào, ngành nào, địa phương nào cũng có. Đó là cơ sở để chúng ta tin rằng, người đảng viên hoàn toàn có thể tiêu diệt lòng tham, dù có phải trải qua bất kỳ sự cám dỗ, mê hoặc nào của quyền lực.

Thực chất cuộc chiến từ bỏ lòng tham là cuộc chiến giữa thiện và ác, diễn ra từng giờ, từng phút trong mỗi con người. Thiện là làm đúng đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, hết lòng phục vụ nhân dân. Ác là để lòng tham trỗi dậy, lạm quyền, tham nhũng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống, nó do rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển, củng cố, cũng như “ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.

Phẩm chất đạo đức của đảng viên không tự nhiên mà có, nó là kết quả của sự tu dưỡng kiên trì qua từng ngày và người có đạo đức rồi thì không phải có vĩnh viễn, nó sẽ suy thoái, biến chất nếu đảng viên không tự giác tôi luyện, nhất là khi được tổ chức trao cho chức quyền. Quá trình tu dưỡng của đảng viên có chức quyền chính là quá trình tiên phong, gương mẫu thực hiện chức trách, nhiệm vụ. Muốn lãnh đạo người khác thì phải lãnh đạo chính mình, cải tạo lòng mình; bảo đảm mọi lời nói, việc làm của mình đều đúng đắn thì nhất định sẽ có uy tín để lãnh đạo người khác.

Phương pháp tu dưỡng đạo đức của người cán bộ trước hết là “tự soi, tự sửa”. Đó là một quá trình thôi thúc tự giác của chính mình, là nhu cầu tự nhiên chứ không phải sự hối thúc của ngoại cảnh. Người cán bộ phải đấu tranh với chính mình, với cái “lợi” bất chính, cái “danh” vô thực và cái “tâm” vô cảm.

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Mỗi chứng bệnh là một kẻ địch. Mỗi kẻ địch bên trong là một bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra. Vì vậy, ta phải ra sức đề phòng những kẻ địch đó, phải chữa hết những chứng bệnh đó”. “Chúng ta phải ráo riết tự phê bình và phê bình để giúp nhau chữa hết những bệnh ấy”. Những từ “ráo riết”, “giúp nhau” của Bác Hồ đã nói lên phương pháp biện chứng trong quá trình tu dưỡng của cán bộ; đó là kết hợp chặt chẽ giữa tự phê bình và phê bình.

Tự phê bình mình và phê bình đồng chí, đồng đội phải đi đôi với nhau, trên tinh thần “giúp nhau” cùng tiến bộ. “Tự soi, tự sửa” nếu chỉ làm một mình thì không đạt kết quả, vì khuyết điểm đôi khi như cái nhọ trên trán, tự mình không nhìn thấy được; chỉ có ráo riết tự phê bình và thực lòng phê bình đồng chí, đồng đội; kết hợp chặt chẽ hai công việc ấy với nhau thì sự tu dưỡng mới có kết quả. Chính vì thế mà tự phê bình và phê bình trở thành quy luật phát triển của Đảng và mỗi đảng viên; đồng thời cũng là một trong 5 nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt được xác định trong Điều lệ Đảng.

Điều đáng nói hiện nay là, khi đảng viên trở thành người có chức, có quyền, nhất là khi trở thành thủ trưởng đứng đầu đơn vị, nhiều người quên mất “vũ khí” tự phê bình và phê bình. Họ lý do bận rộn để không dự sinh hoạt và thường cố tình lờ đi việc tự kiểm điểm, tự phê bình trong chi bộ, cấp ủy. Họ chỉ thích nghe những lời xu nịnh “rót mật vào tai”. Họ tìm mọi sơ hở của những người nói thẳng để trù dập, vô hiệu hóa. Với những người như vậy, con đường dẫn đến suy thoái, biến chất chỉ còn một khoảng ngắn, thậm chí rất ngắn.

Quá trình tu dưỡng đạo đức của người cán bộ tất yếu phải gắn với nêu gương. Khác với đảng viên thường, đảng viên có chức, có quyền phải thực hành nêu gương vì đó là một phương thức lãnh đạo của Đảng, cũng là một giải pháp của tổ chức để mỗi đảng viên có chức quyền phát huy vị trí, vai trò của mình trong xây dựng Đảng. Hiện nay, Đảng ta có nhiều văn bản quy định rõ trách nhiệm nêu gương của cán bộ. Như Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018 của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương; Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 07-6-2012 của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, chủ chốt các cấp; Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19-12-2016 của Bộ Chính trị về một số việc cần làm ngay để tăng cường trách nhiệm nêu gương.

Việc thực hành nêu gương được các đảng bộ trực thuộc Trung ương tiến hành với nhiều cách làm sáng tạo, phù hợp đặc thù đảng bộ mình. Như Quân ủy Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 847-NQ/QUTW "về phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới". Nghị quyết đã nêu rõ 5 đặc trưng cơ bản nhất của phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ và 10 biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân. Nghị quyết nhấn mạnh, đối với cán bộ, đảng viên nhất là cán bộ chủ trì, cấp ủy viên, phải nâng cao “tinh thần trách nhiệm, gương mẫu tu dưỡng, rèn luyện, giữ gìn phẩm chất, đạo đức người quân nhân cách mạng, danh hiệu cao quý Bộ đội Cụ Hồ”.

Với sự tự giác nêu gương của đội ngũ cán bộ có chức, có quyền; cùng với sự lãnh đạo, quản lý chặt chẽ, khoa học của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp; nhất định công cuộc phòng, chống “giặc nội xâm” của Đảng ta sẽ giành thắng lợi vẻ vang, cùng với quá trình hiện thực hóa khát vọng phồn vinh của dân tộc.

Từ kinh nghiệm tu dưỡng, rèn luyện của các nhà cách mạng tiền bối, chúng tôi xin kiến nghị 4 việc cụ thể nên làm dành cho các đảng viên có chức, có quyền như sau:

Một là, lý tưởng. Học tập để nắm vững những nội dung cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là cái gốc của đạo đức và lập trường cách mạng, không nắm vững thì lý tưởng cộng sản trong mỗi đảng viên chỉ còn là mớ lý thuyết sáo rỗng. Lý tưởng cộng sản là nền tảng tư tưởng cho mỗi đảng viên, không theo đuổi lý tưởng ấy, tất sa vào cám dỗ thấp kém, ươn hèn.

Hai là, dân chủ. Thực hành dân chủ rộng rãi theo nguyên tắc tập trung dân chủ, cùng với nghiêm túc thực hành chế độ tự phê bình và phê bình. Dân chủ là “chìa khóa vạn năng” để giải quyết mọi vấn đề của cơ quan, đơn vị. Khi nào người cán bộ “sợ” công khai, dân chủ thì nguy cơ suy thoái, biến chất đã xuất hiện.

Ba là, đúng đắn. Bảo đảm mọi lời nói, hành động và quyết định của mình đúng với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Khi quyết định những vấn đề mà pháp luật còn “vận dụng theo nhiều kiểu” thì phải bám sát các quy định của Đảng, với tinh thần “chí công vô tư”, “dĩ công vi thượng”, “cái gì có lợi cho dân, cho nước thì phải ra sức làm; cái gì hại cho dân, cho nước thì phải hết sức tránh”; tuyệt đối không vụ lợi.

Bốn là, gần dân. Rèn luyện tác phong gần gũi quần chúng, lắng nghe dân, sắp xếp kế hoạch công tác hợp lý để định kỳ hằng tháng gặp gỡ trực tiếp quần chúng nhân dân. Nghe dân phải chắt lọc thông tin, phải dùng lập trường tư tưởng của Đảng để phán quyết, nếu không sẽ sa vào “dân túy”.

 

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất