Bài 1: Đừng để khát vọng hùng cường chỉ là "giấc mơ"
(ĐCSVN) - Khát vọng hùng cường không chỉ là mục tiêu của riêng quốc gia nào trên thế giới. Có điều, nếu chưa xác định được lợi thế so sánh và năng lực cạnh tranh quốc gia, cũng như nguồn lực để hiện thực hóa, đặc biệt là ý chí hành động của cả dân tộc thì rất có thể khát vọng hùng cường cũng chỉ là “giấc mơ”.
Nguồn lực nào cho khát vọng hùng cường?
Làm sao huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của xã hội để phục vụ cho phát triển đất nước là câu hỏi lớn không chỉ đối với riêng nước ta; đây là bài toán hóc búa, không dễ tìm lời giải trong một sớm một chiều, có khi phải đánh đổi bằng nhiều năm, thậm chí là nhiều thế hệ. Nhưng, một đất nước muốn trở nên thịnh vượng thì nhất định phải xác định được lợi thế so sánh của quốc gia (bao gồm lợi thế tương đối và lợi thế tuyệt đối) cũng như phải huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của xã hội cho các mục tiêu phát triển của đất nước và xa hơn là hiện thực hóa khát vọng hùng cường cho dân tộc mình.
Trong xã hội phong kiến trước đây, đề cập về sự thịnh - suy của xã hội, các bậc tiền nhân có câu: “Phi nông bất ổn; Phi công bất phú; Phi trí bất hưng; Phi thương bất hoạt”, có nghĩa là các trụ cột: nông nghiệp, công nghiệp, giáo dục - đào tạo và thương mại nếu bị thiếu, bị yếu hoặc bỏ sót thì xã hội không thể phát triển và hưng thịnh được. Khẳng định này có tính trụ cột, nền tảng và mang ý nghĩa sống còn trong việc chấn hưng xã hội cũng như huy động và sử dụng các nguồn lực của xã hội đối với việc quản trị nhà nước trong xã hội phong kiến ở nước ta trước đây. Đặc biệt, việc quý trọng và đề cao nguồn lực trí thức, trí tuệ đến nay vẫn còn nguyên giá trị tham khảo cho hậu thế…
Để huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của xã hội, trước tiên phải xác định được các nguồn lực hiện có của xã hội là những gì, bao gồm cả nguồn lực hữu hình và nguồn lực vô hình, cũng như đâu là nguồn lực hữu hạn, đâu là nguồn lực vô hạn (có thể gia tăng, phát triển)… Cụ thể, nguồn lực hữu hình chính là lợi thế về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, đất đai, tài nguyên khoáng sản, dự trữ tài chính quốc gia…; cũng như nguồn lực vô hình đến từ con người, là trí tuệ, tư duy, phát minh, sáng chế, là các sản phẩm khoa học, công nghệ… Những nguồn lực này hiện có như thế nào và được sử dụng ra sao vẫn là một câu hỏi nan giải!
Ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nào là chủ lực, mang giá trị cốt lõi sẽ trở thành mục tiêu chiến lược quốc gia; sản phẩm, hàng hóa nào sẽ trở thành thương hiệu quốc gia để khi nhắc đến, nói đến thì khách hàng quốc tế đều biết đó là hàng hóa của Việt Nam, do Việt Nam sản xuất - “made in Vietnam”. Không dễ để có được những điều này, nếu hoạch định chiến lược quốc gia, quy hoạch vùng và địa phương chưa xác lập được tầm nhìn dài hạn hoặc thiếu đồng bộ, phù hợp với các nguồn lực…
Người dân không khỏi băn khoăn làm sao để hiện thực hóa khát vọng Việt Nam hùng cường? Bằng cách nào, bao lâu nữa…? Trong khi mọi nguồn lực của đất nước còn eo hẹp? Nói như dân gian “có thực mới vực được đạo”… tương tự, có thể sẽ có nhiều góc nhìn, khía cạnh đánh giá khác nhau và những câu hỏi kèm theo cả những thắc mắc, lo lắng, hoài nghi… cũng là đương nhiên, lẽ thường. Nhưng với vai trò quản lý nhà nước, quản trị quốc gia thì các nhà lãnh đạo nhất định phải xác định được đâu là lợi thế so sánh, năng lực cạnh tranh quốc gia và đâu là những nguồn lực hiện có của đất nước, cũng như làm sao để huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực này cho phát triển đất nước. Muốn vậy thì công tác thống kê và các chỉ số thống kê phải đáng tin cậy, chứ không chỉ là những con số thành tích làm đẹp báo cáo…
Nếu không, người dân chỉ biết rằng Việt Nam được cho là có những lợi thế về vị trí địa lý và nhiều ưu đãi về tự nhiên, có phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp, “rừng vàng, biển bạc”, có bờ biển dài với nhiều vịnh biển đẹp nổi tiếng thế giới như vịnh Hạ Long, vịnh Đà Nẵng, vịnh Nha Trang… Những lợi thế này nếu biết cách khai thác sẽ là điểm tựa vững chắc cho “ngành công nghiệp không khói” phát triển mạnh mẽ, tuy nhiên, sức hút du lịch của nước ta vẫn thiếu hấp dẫn, doanh thu tài chính của lĩnh vực này chưa tương xứng với tiềm năng vốn có. Nguyên nhân cũng đã được chỉ ra, đó là những hạn chế về tư duy và phương pháp quản lý, là cách làm “chộp giật - chặt chém”, dịch vụ thiếu chuyên nghiệp, chưa có chiến lược kinh doanh phù hợp, dài hơi… tức là vấn đề con người, liên quan đến con người chứ không phải yếu tố nào khác. Nhưng tại sao những bất cập, hạn chế này vẫn chưa được khắc phục triệt để, tư duy “ăn xổi ở thì” đã vô tình làm triệt tiêu nguồn lực tự nhiên của quốc gia đầy tiềm năng này.
Nguồn lực đất đai, tài nguyên thì có hạn, nhưng cũng chưa tận dụng được tối đa lợi thế từ những nguồn lực này, việc tích tụ đất đai, “dồn điền đổi thửa” vẫn gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc… vô tình làm chậm quá trình công nghiệp hóa nông nghiệp, hiện đại hóa nông thôn cũng như phát triển liên kết chuỗi giá trị trong sản xuất và cung ứng hàng hóa lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, nông thôn… vì thế mà các sản phẩm nông lâm sản của người dân cứ được mùa là mất giá, được giá lại mất mùa hoặc hễ có biến động bất thường của thị trường là cộng đồng lại phải kêu gọi giải cứu.
Vấn đề thương mại và cán cân xuất nhập khẩu cũng như thu hút đầu tư nước ngoài cũng còn nhiều điểm phải suy nghĩ. Hàng hóa nào của Việt Nam được bạn bè quốc tế yêu thích, có giá trị xuất khẩu lớn mang lại cân bằng cán cân xuất - nhập khẩu và giá trị thặng dư cho đất nước? Mặc dù mục tiêu phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng cho đến hiện tại, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam vẫn là những doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa; còn các tập đoàn kinh tế, công ty nước ngoài có hoạt động tại Việt Nam mới chỉ dừng lại ở việc khai thác về đất đai và nhân công giá rẻ, còn tỉ lệ nội địa hóa hoặc cho phép chúng ta tham gia vào công nghệ, bí quyết sản xuất… hầu như rất thấp hoặc họ chưa muốn chia sẻ với chúng ta, vô hình trung, chúng ta lại trở thành nước xuất khẩu hộ quốc gia khác.
Nguồn lực khoa học & công nghệ có những bước tiến quan trọng, đóng góp thiết thực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, góp phần nâng cao chất lượng đời sống nhân dân và củng cố quốc phòng, an ninh. Tuy nhiên, tinh thần khoa học, văn hóa đổi mới sáng tạo chưa thấm sâu vào tư duy, nhận thức cộng đồng xã hội, nhất là tư duy về cách mạng công nghiệp 4.0. Khoa học & công nghệ Việt Nam phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, chưa thật sự trở thành động lực cho tăng trưởng kinh tế - xã hội; chưa có sản phẩm khoa học & công nghệ nổi tiếng thế giới cũng như có thể xuất khẩu…
Nguồn nhân lực là một trong những nguồn lực quan trọng nhất trong các nguồn lực nhưng Việt Nam lại chưa thực sự khai thác hiệu quả được nguồn lực này, nhất là nguồn nhân lực trí thức, trí tuệ cao... Đơn cử là chúng ta chưa thu hút được các chuyên gia, nhà khoa học đang công tác và giảng dạy ở các trường Đại học, viện nghiên cứu trên thế giới; các học sinh, du học sinh, sinh viên có học lực tốt, đạt kết quả cao ở các cuộc thi trong nước và quốc tế vào làm việc trong bộ máy nhà nước. Việt Nam không những chưa hấp dẫn và thu hút được nguồn nhân lực chất lượng cao mà còn có nguy cơ “chảy máu chất xám” là hiện hữu.
Hơn nữa, tuy chúng ta đang trong thời kỳ có cơ cấu “dân số vàng” nhưng cơ hội và thách thức luôn đan xen, có thể vượt qua bẫy thu nhập trung bình hay không, câu trả lời vẫn còn đang ở phía trước. Lực lượng lao động trẻ, dồi dào nhưng chất lượng lao động chưa đồng đều; lao động giản đơn, lao động phổ thông chưa qua đào tạo vẫn chiếm tỷ lệ lớn và chủ yếu làm công nhân ở các khu công nghiệp hoặc làm nông nghiệp ở các vùng nông thôn. Lao động xuất khẩu đi lao động ở nước ngoài cũng chủ yếu làm công nhân và những công việc nặng nhọc, giản đơn… chưa phải là chuyên gia, lao động chất lượng cao. Đáng chú ý là chênh lệnh về mức năng suất lao động Việt Nam với các nước vẫn còn khoảng cách khá xa, năm 2019 năng suất lao động của Việt Nam chỉ bằng 7,64% mức năng suất của Singapore; 19,53% của Malaysia; 37,92% của Thái Lan; 45,56% của Indonesia; 56,88% của Philippines; 88,05% của Lào. Năng suất lao động của Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á chỉ cao hơn năng suất lao động của Campuchia (gấp 1,6 lần).
Hệ thống hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật (giao thông, đường xá, bệnh viện, trường học…) mặc dù đã có những bước phát triển, đáp ứng phần nào yêu cầu phát triển kinh tế xã hội nói chung. Tuy nhiên sự xuống cấp của hệ đường sắt, giao thông đường bộ quá tải, tình trạng ùn tắc giao thông ở các đô thị lớn đang là nỗi lo lắng gây nhức nhối cộng đồng cũng như làm tăng chi phí xã hội. Ô nhiễm môi trường, rác thải sinh hoạt, khói bụi và rác thải công nghiệp… hiện tại đang đặt ra những thách thức không nhỏ, tác động trực tiếp đến việc huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực của xã hội…
Giải pháp nào để huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực?
Thực trạng cho thấy, các nguồn lực của chúng ta có không ít tồn tại, bất cập... Để huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước, đã có không ít những bài viết phân tích, những ý kiến đóng góp của các học giả, chuyên gia, các nhà nghiên cứu, lão thành cách mạng, cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước và người dân chỉ ra những nhóm giải pháp phù hợp để kiến giải cho khát vọng Việt Nam hùng cường. Một trong những nhóm giải pháp được đề cập nhiều nhất vẫn là phải đổi mới tư duy quản lý nhà nước, quản trị quốc gia; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế và thực thi pháp luật hiệu lực, hiệu quả là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy phát triển đất nước.
Đến nay, chúng ta không thiếu, không yếu về lý luận cũng như giải pháp, nhưng công tác quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy hiệu quả các nguồn lực hiện vẫn còn hạn chế, bất cập; phân bổ và sử dụng các nguồn lực chưa hợp lý; hiệu quả chưa cao, nhiều trường hợp chưa thực sự theo cơ chế thị trường, gây lãng phí và làm cạn kiệt nguồn lực của đất nước. Công tác quản lý nhà nước đã bộc lộ những yếu kém trong quá trình vận hành, khâu thực hiện vẫn là một trong những khâu yếu nhất, tồn tại không ít bất cập, hạn chế, biểu hiện là tình trạng trì trệ, đùn đẩy, “đá bóng” trách nhiệm ở các cơ quan quản lý nhà nước, hay “trên nóng dưới lạnh”, “dân cần nhưng quan không vội”… Những tồn tại này đã tạo ra những rào cản không nhỏ cho phát triển đất nước, nguyên nhân một phần là do thể chế, cơ chế chính sách, nhưng chủ yếu vẫn là con người - do năng lực hoặc cố tình gây phiền hà, sách nhiễu hòng mưu lợi cá nhân, lợi ích nhóm và tham nhũng của một bộ phận cán bộ, lãnh đạo, quản lý nhà nước.
Như vậy, muốn huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước, nhất định phải thay đổi tư duy quản lý nhà nước, tức phải loại bỏ các thủ tục hành chính, cơ chế, chính sách còn nặng hoặc mang hơi hướng xin-cho. Không để xã hội tồn tại tâm lý “nhất thân, nhì quen” trong mọi hoạt động giao dịch xã hội, bất kể đó là việc gì, từ đi viện khám chữa bệnh, xin học, đăng ký đất đai cho đến khai tử…, nhất là khi phải làm việc với cơ quan công quyền, hễ ai (kể cả cán bộ nhà nước lẫn thường dân) cứ có việc gì là phải tìm kiếm các mối quan hệ thân quen nhờ vả để được xử lý, giải quyết nhanh chóng, có như vậy mới an tâm, nếu không sẽ lo bị sách nhiễu, phiền hà… đó là tình trạng có thật vẫn tồn tại trong xã hội ta hiện nay.
Nhất định phải đẩy mạnh ứng dụng khoa học & công nghệ trong mọi hoạt động của xã hội, nhất là trong quản trị nhà nước; vận hành hiệu quả Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số và nền kinh tế số. Ứng dụng công nghệ thông tin để tích hợp và đồng bộ dịch vụ công nhằm công khai minh bạch mọi cơ chế, chính sách; đẩy nhanh hoàn thiện thể chế, cơ chế để “không thể, không dám, không muốn và không cần tham nhũng” tồn tại trong xã hội; có biện pháp quản lý sự minh bạch nguồn gốc tài sản trong sở hữu và giao dịch toàn xã hội. Duy trì xã hội “không tiền mặt” góp phần hạn chế tình trạng tham ô, tham nhũng của đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, quản lý trong bộ máy nhà nước cũng như trong nền kinh tế nói chung.
Phải đổi mới giáo dục - đào tạo, đặc biệt là giáo dục đại học và dạy nghề nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực quốc gia, giáo dục chính là nền tảng cho sự phát triển bền vững của đất nước, quyết định tương lai của dân tộc. Tuy ngành giáo dục đã có nhiều đổi mới, liên tục cải cách và đạt được những kết quả nhất định, nhưng thiết nghĩ, để cải cách giáo dục thực sự có hiệu quả lâu dài, ngành giáo dục nên tham khảo những nền giáo dục phát triển nhất trên thế giới xem họ đã làm những gì khác ta, cái gì giống ta; liệu họ có gì để chúng ta học hỏi được không, hay giáo dục Việt Nam vẫn cứ mãi điệp khúc cải cách?
Một đất nước có trở nên hùng cường hay không, trước hết thuộc về khả năng truyền cảm hứng từ các nhà lãnh đạo tới người dân. Biến mục tiêu, khát vọng thành hành động, thành tầm nhìn và tư duy lãnh đạo, nhất là kỹ năng và cách tiếp cận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước trong bộ máy công quyền phải được đổi mới theo hướng kiến tạo và phục vụ. Tất cả hướng về mục tiêu khát vọng hùng cường của dân tộc, cùng nhau đoàn kết, khơi dậy khát vọng làm giàu chính đáng của toàn dân với tinh thần quốc gia khởi nghiệp, nhà nhà khởi nghiệp, người người khởi nghiệp… theo đó là ý chí hành động của cả dân tộc vì mục tiêu hùng cường của đất nước. Nguyên Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc từng khẳng định: “Bất cứ quốc gia - dân tộc nào muốn trở nên thịnh vượng đều phải huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để phục vụ cho phát triển…”
Không có nguồn lực, không huy động và sử dụng nguồn lực hiệu quả thì không thể hiện thực hóa khát vọng hùng cường, nguồn lực thiếu thì khâu thực hiện phải tốt, ý chí, nghị lực phải mạnh mẽ. Quan trọng hơn là phải xác định được lợi thế so sánh, năng lực cạnh tranh quốc gia là những gì (công nghiệp, nông nghiệp hay dịch vụ,…), cơ hội nào và đâu là giá trị cốt lõi cần thúc đẩy; đâu là những giá trị kế thừa có chọn lọc để học hỏi từ những quốc gia thành công đi trước… thống nhất biến thành thông điệp truyền thông sâu rộng đến toàn dân về mô hình, hướng đi chiến lược phát triển đất nước mà chúng ta theo đuổi.
Khát vọng hùng cường có lẽ không chỉ là mục tiêu của riêng quốc gia nào trên thế giới. Có điều, nếu chưa xác định được lợi thế so sánh và năng lực cạnh tranh quốc gia cũng như nguồn lực để hiện thực hóa, đặc biệt là ý chí hành động của cả dân tộc thì rất có thể khát vọng hùng cường cũng chỉ là “giấc mơ”./.
***
Bài 2: Khát vọng hùng cường & tư duy lãnh đạo
(ĐCSVN) - Một dân tộc có trở nên hùng cường hay không, phần lớn ảnh hưởng bởi khát vọng, tư duy quản lý nhà nước và tầm nhìn của các nhà lãnh đạo. Suy cho cùng, mọi thành quả hoặc hệ lụy của một tổ chức, một doanh nghiệp, một địa phương hay một quốc gia đều chịu sự điều chỉnh và ảnh hưởng bởi thể chế, nói cách khác đó là hệ tư tưởng, là tư duy chiến lược và chính sách lãnh đạo, quản trị…
Lực cản: Thể chế hay con người?
Chúng ta thường nói về thể chế là một trong những yếu tố quan trọng nhất, vừa là động lực vừa là lực cản phát triển của nền kinh tế..., tùy theo sự phù hợp vào sứ mệnh lịch sử ở từng thời điểm, giai đoạn khác nhau mà thể chế ấy có thể trở thành động lực hoặc lực cản phát triển của nền kinh tế. Khẳng định này không sai! Tuy nhiên, sẽ còn thiếu, nếu không đề cập đến vấn đề tầm nhìn và tư duy lãnh đạo của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước, bởi thể chế cũng do chính con người tạo ra, chứ nó không tự nhiên mà sinh ra.
Nếu chỉ nói đến lực cản của thể chế thì cũng phải nhìn nhận một cách khách quan rằng: vẫn cùng thể chế, cơ chế chính sách như nhau, nhưng có địa phương, có nơi thì phát triển, có nơi lại chưa phát huy được. Vậy nguyên nhân là gì? Có thể nói, nguyên nhân thì có nhiều… Nhưng ngoài lợi thế về địa lý, điều kiện tự nhiên thì một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu và là nguyên nhân chính, đó là tư duy lãnh đạo và tầm nhìn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước.
Theo cách hiểu cơ bản nhất, tư duy lãnh đạo được xem là một quá trình sáng tạo và đa dạng, thể hiện tầm nhìn của các nhà lãnh đạo cho dù ở cấp độ nào, đòi hỏi họ phải gắn kết các hoạt động hằng ngày với mục tiêu chiến lược dài hạn của tổ chức, với phạm vi mà họ lãnh đạo, quản lý cũng như môi trường xung quanh… Tầm nhìn thường được hình tượng hóa bằng một hình ảnh, gợi ra định hướng cho tương lai, mang tính lựa chọn (một tiêu chuẩn, một điều lý tưởng có định hướng) và hướng đến khát vọng tạo ra một điều gì đó đặc biệt, là sự hình dung của một người hay một tổ chức về mục tiêu cần đạt được, về điểm cần đến trong một khoảng thời gian nào đó… Khát vọng "Việt Nam hùng cường" vào năm 2045 là một ví dụ về tầm nhìn.
Dưới góc độ kinh tế học, các tài liệu lý thuyết về quản trị cho thấy, cho dù ở góc độ vĩ mô hay vi mô thì tầm nhìn, tư duy của người lãnh đạo có yếu tố quyết định tới thành quả hay hệ lụy của nó là tất yếu. Thực tiễn cho thấy, lãnh đạo cho dù ở bất kỳ phạm vi lãnh đạo, quản lý nào, từ các tổ chức kinh tế cho đến chính quyền các cấp, từ cơ sở đến cấp cao, ở đâu người đứng đầu (lãnh đạo, quản lý) có tầm nhìn và tư duy năng động, sáng tạo, nhiệt huyết với tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, tất cả vì mục tiêu chung, đặt lợi ích của tập thể, của tổ chức và cao hơn đó là lợi ích của người dân, của đất nước lên trên lợi ích của bản thân, của cá nhân và nhóm lợi ích thì ở đó luôn có những giải pháp tối ưu và hiệu quả hơn cả.
Ở góc độ quản trị nhà nước (quản trị quốc gia), sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Đây là “nguyên tắc vàng”, là bài học vô giá về công tác cán bộ. Người nói: “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”, hay nói cách khác, làm sao để người cán bộ “vừa hồng vừa chuyên”, chính là vừa phải có đạo đức, vừa phải có trình độ chuyên môn. Cụ thể cái tài của người cán bộ chính là vừa phải có trình độ chuyên môn, kiến thức hiểu biết rộng, vừa phải có tầm nhìn và tư duy về lĩnh vực công tác lãnh đạo, quản lý; cái đức của người cán bộ chính là phải biết trọng liêm sỉ và danh dự, biết hi sinh những lợi ích cá nhân vì lợi ích chung của Đảng, của đất nước… có như vậy mới đảm nhiệm được vai trò quản trị nhà nước - nhiệm vụ nặng nề mà Đảng và nhân dân giao phó.
Như vậy, cái đức và cái tài của người cán bộ, lãnh đạo phải được thể hiện, đánh giá qua thực tế bằng hiệu quả công tác, công việc mà người cán bộ, người lãnh đạo đó đảm nhiệm. Người cán bộ, lãnh đạo có tài thì cho dù ở cương vị nào đi chăng nữa cũng phải khẳng định được vai trò sứ mệnh lãnh đạo của mình, phải thể hiện được tầm nhìn, tư duy lãnh đạo để tạo ra những sản phẩm lãnh đạo có ảnh hưởng và tác động tích cực mang lại những giá trị lâu dài, hiệu quả thiết thực cho người dân cũng như tổ chức, địa phương và đất nước. Nó là kết quả về đời sống thu nhập của người dân, được phản ánh qua các chỉ số cụ thể về tăng trưởng kinh tế, là các vấn đề an ninh trật tự, giao thông, giáo dục, y tế, môi trường và an sinh xã hội…
Nghĩ khác, làm khác
Đổi mới để tiến bộ hơn, không thể với tư duy cũ, cách nghĩ, cách làm cũ mà lại cho kết quả mới, chứ nói gì đến phát triển và hùng cường.
Thế giới đang thay đổi nhanh chóng trên tất cả mọi mặt, từ chính trị, quân sự đến kinh tế, văn hóa…, sự phát triển của công nghệ đã làm thay đổi nhiều hoạt động, hành vi của con người. Trong một thế giới kết nối và thông tin mở, hàng tỷ người trên thế giới cùng xem một trận bóng đá không còn là chuyện lạ; mỗi sự việc đâu đó trên thế giới, hành động, phát ngôn của những người nổi tiếng, thậm chí là chuyện thành công hay thất bại của một cá nhân, tổ chức, địa phương hay một quốc gia giờ đây không còn là bí mật. Mỗi người dân trên thế giới ngày nay giống như những phóng viên, mỗi chiếc điện thoại thông minh giờ đây như một tòa soạn báo thu nhỏ, mọi thông tin được lan truyền với tốc độ chóng mặt, thời gian thậm chí chỉ tính bằng giây. Vì vậy, các nhà lãnh đạo cần xoay chuyển được góc nhìn, thay đổi thái độ và tư duy lãnh đạo để phù hợp với bối cảnh của thời đại thông tin và công nghệ số, mọi thứ giờ đây trở nên minh bạch hơn…
Tư duy ngày nay là tư duy của công nghệ số, chuyển đổi số; tư duy của Chính phủ điện tử, Chính phủ số; thành phố thông minh; đô thị thông minh; làng xã thông minh; nông nghiệp thông minh… Trí tuệ nhân tạo (AI), người máy (Robot) đã được ứng dụng và thay thế con người trong nhiều hoạt động của đời sống xã hội. Để vận hành một xã hội mà các hoạt động chủ yếu dựa trên nền tảng công nghệ số thì những con người trong xã hội ấy buộc phải có tư duy công nghệ, tư duy số cũng như tầm nhìn về các xu hướng phát triển của công nghệ trong tương lai.
Tư duy ngày nay là tư duy về “thế giới phẳng và toàn cầu hóa”, mọi giới hạn về không gian, thời gian dường như đã phá vỡ những nguyên tắc truyền thống. Xã hội ngày nay là xã hội của thông tin đa chiều, thông tin mở, quản trị quốc gia nếu thiếu thông tin, không nắm được thông tin thì không thể ra quyết định đúng đắn và càng không thể có được những hoạch định, quyết sách dài hạn. Mà khi đã không có mục tiêu chiến lược dài hạn thì khó có thể theo đuổi mục tiêu hùng cường, thịnh vượng.
Nghị quyết Đại hội XIII khẳng định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, môi trường..., tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước”.
Một địa phương, một quốc gia muốn ổn định an ninh chính trị, trật tự xã hội thì đầu tiên phải hiểu được chân lý “Dân là gốc”, gốc có vững thì cây mới bền. Muốn vậy, người dân ở địa phương đó, quốc gia đó phải có cuộc sống ấm no, hạnh phúc tức là người dân phải có đủ điều kiện, môi trường, phương tiện sản xuất, kinh doanh, việc làm và thu nhập tối thiểu để kiếm kế sinh nhai cũng như cơ hội và khả năng làm giàu… Cán bộ, lãnh đạo, quản lý nhà nước phải nhận thức và tư duy nhất quán theo đuổi mục tiêu dân có giàu thì nước mới mạnh.
Suy cho cùng, mọi thành quả hoặc hệ lụy của một tổ chức, một doanh nghiệp, một địa phương hay một quốc gia đều chịu sự điều chỉnh và ảnh hưởng bởi thể chế, nói cách khác đó là hệ tư tưởng, là tư duy chiến lược và chính sách lãnh đạo, quản trị... Cho dù ở góc độ vĩ mô, vi mô hay trong phạm vi quản trị nào đó thì tư duy và tầm nhìn của đội ngũ lãnh đạo, quản lý nhà nước luôn là một trong những nhân tố quyết định hàng đầu.
Đổi mới để tiến bộ hơn, phải nghĩ khác, làm khác, không thể với tư duy cũ, cách nghĩ, cách làm cũ mà lại cho kết quả mới, nói gì đến phát triển và hùng cường. Một dân tộc có trở nên hùng cường hay không, phần lớn ảnh hưởng bởi khát vọng, tư duy quản lý nhà nước và tầm nhìn của các nhà lãnh đạo. Quốc gia nào cũng cần đội ngũ cán bộ, lãnh đạo có năng lực tư duy: Lo cho dân, nghĩ cho dân, làm lợi cho dân và làm việc vì dân…, cũng như khả năng truyền cảm hứng tới người dân, cùng hướng về mục tiêu khát vọng hùng cường của dân tộc./.
***
Bài 3: Khát vọng hùng cường và bài học về sự trỗi dậy
(ĐCSVN) - Mặc dù khác nhau về diện tích, quy mô dân số, vị trí địa lý, văn hóa, tài nguyên,… nhưng có một điểm chung của khá nhiều quốc gia, đó là sự trỗi dậy, sự vươn lên của người dân với ý chí, khát vọng chiến thắng nghịch cảnh, không chấp nhận số phận hèn kém… Tất cả đoàn kết, cùng nhau hướng tới mục tiêu khát vọng hùng cường mà các nhà lãnh đạo đã truyền cảm hứng tới người dân và chèo lái để tạo ra sự "lột xác" ngoạn mục cho đất nước.
Trong phạm vi của bài viết này, chỉ đề cập đến những quan điểm chung nhất dưới góc nhìn thực tế khách quan từ những thể chế, những nền kinh tế có sự tăng trưởng và thay đổi ngoạn mục, được xem là kỳ tích và gắn liền với dấu ấn về tầm nhìn, tư duy lãnh đạo. Đó là những kỳ tích như: “Thần kì Nhật Bản”, “Kỳ tích sông Hàn”, hay “Câu chuyện thần kì” mang tên Singapore, được xem là những hình mẫu về sự phát triển ngoạn mục trước sự ngỡ ngàng của thế giới.
30 năm, là bài học về sự trỗi dậy của người Nhật bởi chính sách Duy Tân Minh Trị gắn liền với dấu ấn của Thiên Hoàng Minh Trị - người đặt nền móng cho sự phát triển “Thần kì Nhật Bản”. Duy Tân Minh Trị được khởi nguồn từ 5 lời Tuyên thệ của Thiên Hoàng Minh Trị khi lên ngôi: “1- Mở ra hội nghị rộng rãi, trăm công ngàn việc đều lấy theo công luận mà quyết định; 2- Trên dưới một lòng, ra sức sửa sang việc nước; 3- Văn võ một đường, từ công khanh đến thứ dân, đều được toại chí, khiến cho lòng người hăm hở sốt sắng; 4- Thảy bỏ hết những thói hư mối tệ chất chứa lâu đời, từ đây gắng gổ duy tân tự cường, hiệp theo công đạo của Trời Đất; 5 - Cầu trí thức ở thế giới, làm cho nước nhà trở nên mạnh lớn vẻ vang".
Với 5 lời Tuyên thệ khi lên ngôi, Thiên Hoàng Minh Trị đã thể hiện tầm nhìn của một Hoàng đế với tư duy chiến lược cùng những mục tiêu đổi mới cụ thể, rõ ràng. Duy Tân Minh Trị đã trở thành nền móng vững chắc đưa Nhật Bản từ một nước nghèo nàn về tài nguyên, phần lớn nguyên, nhiên liệu phải nhập khẩu, kinh tế bị tàn phá kiệt quệ trong chiến tranh trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, sau Hoa Kỳ vào năm 1968. Với các chính sách phù hợp, kinh tế Nhật Bản đã nhanh chóng phục hồi trong giai đoạn 1945-1954 và phát triển cao độ ở giai đoạn 1955-1973 (với tốc độ phát triển GDP bình quân hàng năm khoảng 10%). Sự tăng trưởng ngoạn mục này đã làm thế giới phải kinh ngạc, vì thế mà câu chuyện mang tên "Thần kì Nhật Bản" vẫn được truyền tụng đến ngày nay.
Vậy từ đâu nước Nhật có được tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm liên tục? Có rất nhiều tranh cãi xung quanh việc lý giải về nguyên nhân giúp cho Nhật Bản có được thời kỳ tăng trưởng mạnh mẽ. Nhưng có thể thấy, những lý do nổi bật nhất mà người Nhật đã áp dụng: (1) Cải cách kinh tế - xã hội, dân chủ hóa hậu chiến tranh; (2) Thu hút sự đầu tư tích cực của các doanh nghiệp trong và ngoài nước; (3) Lực lượng lao động dồi dào, chất lượng cao; (4) Chính sách phù hợp; (5) Tích cực cải tiến và áp dụng công nghệ cao: (6) Chú trọng giáo dục - đào tạo; (7) Tích cực phát triển cơ sở hạ tầng, chi phí giao thông thấp, tăng cường lưu thông; (8) Quan hệ giai cấp tốt, chính trị ổn định. Và một điều quan trọng không thể không kể đến là tinh thần “Cố gắng vươn lên, đuổi kịp và vượt qua các nước phát triển” của người Nhật Bản lúc bấy giờ đã góp phần đưa nền giáo dục Nhật Bản ngày nay xếp thứ 2 thế giới về giáo dục người trưởng thành. Chính phủ Nhật từ lâu đã xác định giáo dục phải gắn liền với lợi ích đời sống nhân dân. Vì vậy, các ngành đào tạo nghề tại Nhật Bản được đánh giá rất cao - giáo dục hướng tới khoa học thực tiễn cho đời sống. Đây chính là điểm tiến bộ của nền giáo dục Nhật Bản đã đóng góp vào công cuộc đổi mới to lớn và sự trỗi dậy mạnh mẽ của người Nhật.
30 năm, tăng 100 lần là con số mà Hàn Quốc đưa Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người nhảy vọt từ 100 USD năm 1963 lên 10.000 USD năm 1995. Đây là sự phát triển thần kỳ sau chiến tranh, là dấu mốc quan trọng nhất trong lịch sử phát triển của Hàn Quốc gắn với câu chuyện "Kỳ tích sông Hàn” hay "Huyền thoại sông Hàn" làm thế giới phải kinh ngạc với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất trong lịch sử thế giới hiện đại.
Và Tổng thống Park Chung – Hee chính là một trong những người có tầm ảnh hưởng lớn nhất để viết lên câu chuyện “Kỳ tích sông Hàn”, tạo ra sự “chuyển mình” cho Đại Hàn Dân Quốc trở thành Nhà nước hiệu quả, có tầm nhìn và chiến lược, sách lược rõ ràng. Quyết tâm đưa Hàn Quốc trở thành một quốc gia thịnh vượng, Tổng thống Hàn Quốc Park Chung - Hee đã đưa ra “Kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm” với khẩu hiệu “Đối xử với công nhân như gia đình” được cho là đã giúp công nhân lao động Hàn Quốc làm việc với năng suất gấp hơn 2,5 lần so với công nhân Hoa Kỳ, mặc dù mức lương của công nhân Hàn Quốc chỉ bằng 1/10 công nhân Hoa Kỳ. Điều này đã giúp người dân Hàn Quốc có động lực để tiến tới những thành công về kinh tế sau này.
“Kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm” tập trung triển khai, đẩy mạnh chiến lược tăng trưởng kinh tế theo hướng xuất khẩu, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng các tập đoàn kinh tế lớn (chaebol). Với sự đồng lòng cùng tinh thần đoàn kết, ý chí vươn lên mạnh mẽ đã giúp Hàn Quốc làm nên "Kỳ tích sông Hàn" với sự ra đời của hàng loạt chaebol như: Samsung, Daewoo, Hyundai hay LG..., đưa quốc gia này trở thành một trong bốn "con rồng" kinh tế châu Á vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX.
Cũng như Nhật Bản, có rất nhiều yếu tố thành công để giúp Hàn Quốc tăng trưởng một cách ngoạn mục, nhưng có hai nhân tố quan trọng nhất, đó là giáo dục và vai trò của nhà nước. Với nhiệt huyết giáo dục cao nhất thế giới, nền giáo dục Hàn Quốc đã làm thay đổi số phận của mỗi người dân, gia đình, doanh nghiệp và số phận của quốc gia. Cựu Tổng thống Mỹ Barrack Obama đã từng phát biểu công khai: “Một đất nước từng nghèo hơn cả Kenya – quê hương của ông tôi là Hàn Quốc thời nay đang gia nhập các nước phát triển. Lý do chính là nhờ nhiệt huyết giáo dục cháy bỏng của Hàn Quốc”.
Cùng với đó là năng lực lãnh đạo tài tình của bộ máy chính quyền nhà nước, chính sách quốc gia hợp thời cơ, chính sách ngoại giao thực tiễn, thúc đẩy tinh thần doanh nghiệp, tạo điều kiện cho sáng tạo và nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, chính sách mở cửa quả cảm và toàn cầu hóa đã đưa Hàn Quốc đến những thành công ngoạn mục.
30 năm, cũng là con số mà Singapore viết lên “câu chuyện thần kì” với dấu ấn đặc biệt sau ba thập kỷ nắm quyền. Thể chế trung thực, kết hợp tư duy thực dụng, cố Thủ tướng Lý Quang Diệu đã xây dựng một đất nước Singapore năng động, sáng tạo, một Chính phủ tinh gọn và hiệu quả, trọng dụng nhân tài… Tạo dựng một nền thể chế đổi mới với hàng loạt cơ chế, chính sách phù hợp đã đưa Singapore từ một hòn đảo thuộc địa trở thành quốc đảo thịnh vượng, an toàn và trong sạch với thu nhập bình quân đầu người vào hàng cao nhất thế giới. Đầu thập niên 60, GDP đầu người của Singapore chỉ ở mức khoảng 4.000 USD, nhưng trong vòng nửa thế kỷ, GDP bình quân đầu người đã nhanh chóng tăng lên 50.000 USD. Với tốc độ tăng trưởng vượt bậc này, Singapore khiến cho nhiều cường quốc phải ghen tị.
Góp phần tạo nên sự thay đổi ngoạn mục cho Singapore chính là nền giáo dục tiên tiến đứng thứ 8 trên thế giới và đứng đầu tại châu Á. Nền giáo dục Singapore trở thành hình mẫu cho nhiều quốc gia trên thế giới. Có nhiều nguyên nhân làm nên sự thành công của giáo dục Singapore, như: Phương pháp giáo dục, trình độ giáo viên, các chính sách hỗ trợ, khích lệ của chính phủ…, nhất là việc đầu tư cho hệ thống cơ sở vật chất, xây dựng môi trường học tập năng động, sáng tạo, đáp ứng khả năng nghiên cứu, thực hành của học sinh, sinh viên… Đây là cơ sở quan trọng tạo nên xã hội học tập, nâng cao trình độ dân trí cũng như tạo ra những thay đổi kỹ năng nghiên cứu, lao động, sản xuất của người dân. Vì thế mà nguồn nhân lực chất lượng cao của Singapore đã tăng lên nhanh chóng.
Sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore đã giúp thế giới rút ra được nhiều bài học vô giá, đó là bài học về nhân tố con người, về giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực. Chính con người là nhân tố quan trọng để có thể vượt lên tất cả, mà hạt nhân là đội ngũ lãnh đạo, quản lý. Thực tế cho thấy, được dẫn dắt bởi những nhà lãnh đạo có tầm nhìn và tư duy lãnh đạo xuyên suốt từ chủ trương, đường lối cho đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành với chiến lược đúng đắn, phù hợp bối cảnh của thời đại, mà các quốc gia này đã tạo ra sự khác biệt với phần còn lại của thế giới.
Những quốc gia này đã chứng minh cho thế giới rằng, mặc dù khác nhau về diện tích, quy mô dân số, vị trí địa lý, văn hóa, tài nguyên,… nhưng có một điểm chung, đó là sự trỗi dậy, sự vươn lên của người dân với ý chí khát vọng chiến thắng nghịch cảnh, không chấp nhận số phận hèn kém… Giáo dục và vai trò dẫn dắt của Nhà nước là hai yếu tố quan trọng khơi dậy sự đoàn kết toàn dân hướng tới mục tiêu khát vọng hùng cường mà các nhà lãnh đạo đã truyền cảm hứng tới người dân và chèo lái để tạo ra sự lột xác ngoạn mục cho đất nước họ. Đúc kết này không chỉ cho thấy vai trò quan trọng, công lao to lớn các nhà lãnh đạo mà còn minh chứng cho vấn đề thể chế, tư duy lãnh đạo và khát vọng hùng cường của dân tộc cũng như lợi ích của người dân.
Kinh nghiệm từ sự vươn lên, sự trỗi dậy từ các quốc gia luôn bổ ích với các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Và sự trỗi dậy của Việt Nam cũng là tất yếu. Điều đó thể hiện rõ nhất tại Đại hội XIII của Đảng. Đó cũng là lần đầu tiên trong chủ đề Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra yêu cầu khơi dậy khát vọng Việt Nam, khát vọng hùng cường. Đây là thông điệp có sức thôi thúc mạnh mẽ. Lần đầu tiên chúng ta đưa ra tầm nhìn cho đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tầm nhìn Việt Nam phải trở thành một nước phát triển có thu nhập cao. Để thực hiện khát vọng đó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã kêu gọi: tôi mong đồng bào, chiến sĩ cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài tiếp tục phát huy cao độ truyền thống yêu nước, ý chí tự lực tự cường, khát vọng, trí tuệ và nhiệt huyết, chung sức đồng lòng vững bước trên con đường đổi mới, vì một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, phát triển cường thịnh./.
***
Bài 4: Khát vọng hùng cường & bản lĩnh Việt Nam
(ĐCSVN) – Bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam ngày càng tỏa sáng qua việc đẩy mạnh triển khai công cuộc đổi mới, hướng tới mục tiêu phát triển vì một Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Khí phách và sức mạnh Việt Nam
Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã kiên cường đấu tranh cho hoà bình, độc lập và tự do, chưa từng khuất phục trước bất cứ thế lực ngoại xâm nào dù chúng mạnh hơn ta rất nhiều, trong đó những thế lực xâm lược hùng mạnh nhất thế giới. Khí phách và sức mạnh Việt Nam đã trở thành huyền thoại sử sách mãi còn ghi.
Tự hào về Tổ quốc Việt Nam, một dân tộc quật cường đã trải qua nhiều chặng đường gian khó, từ đấu tranh giải phóng dân tộc cho đến công cuộc đổi mới xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội… Trải qua hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình, khơi dậy tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc…, dưới sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng, đã minh chứng cho tầm nhìn, tư duy lãnh đạo của các thế hệ lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta.
Nhờ đó, nhiều chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng được ban hành kịp thời đã mang lại lợi ích thiết thực cho người dân và sự phát triển của đất nước. Những thành tựu to lớn này càng khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, tư duy đổi mới, sáng tạo của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta qua các thời kỳ. Theo đó mà nhiều cơ chế, thể chế, chính sách được “xé rào”, “phá bỏ”, nhiều mô hình phát triển kinh tế mới được hình thành, tạo tiền đề quan trọng dẫn đến Nghị quyết số 10-NQ/TW (khoán 10) được Bộ Chính trị ban hành năm 1988 sau Đại hội Đảng VI - Đại hội đổi mới của đất nước.
Từ một nền kinh tế nông nghiệp, lạc hậu, quy mô nhỏ bé, với GDP chỉ 14 tỷ USDvà GDP bình quân đầu người chỉ khoảng 250 USD trong những năm đầu đổi mới, Việt Nam đã thoát ra khỏi tình trạng đói nghèo, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việt Nam đã có quan hệ chính thức với 189/193 quốc gia của Liên hợp quốc; có quan hệ kinh tế - thương mại và đầu tư với trên 224 nước và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới; có 16 đối tác chiến lược, 11 đối tác chiến lược toàn diện; tham gia hơn 500 hiệp định song phương và đa phương trên nhiều lĩnh vực (trong đó có 16 hiệp định thương mại tự do - FTA); có 71 nước đã công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường…
Trong 35 năm qua, kể từ Đại hội VI của Đảng năm 1986, những đổi mới kinh tế và chính trị đã thúc đẩy kinh tế phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng đưa Việt Nam từ một nước thiếu lương thực vươn lên trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp. Theo xếp hạng của các tổ chức quốc tế (Ngân hàng thế giới-WB, Quỹ tiền tệ quốc tế-IMF…), tính đến năm 2020, thu nhập bình quân đầu người của nước ta ước đạt khoảng 3.521 USD, đứng thứ 120 trên thế giới; quy mô nền kinh tế Việt Nam ước đạt khoảng 343 tỷ USD, đứng thứ 37 thế giới, đứng thứ 4 ASEAN. Việt nam lần đầu tiên lọt vào Top 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới. Và nếu duy trì được đà tăng trưởng như 3 thập niên vừa qua thì đến năm 2045 - kỷ niệm mốc lịch sử 100 năm Việt Nam độc lập (1945 - 2045), quy mô GDP của Việt Nam ước sẽ đạt khoảng 2.500 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 18.000 USD.
Bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam ngày càng tỏa sáng
Bày tỏ với những thành tựu đáng tự hào này, tại Hội nghị trực tuyến của Chính phủ với các địa phương ngày 28/12/2020, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã nhấn mạnh: “Hôm nay, nhìn lại cả chặng đường đã đi, tôi vui mừng được chia sẻ rằng đất nước ta thực sự tốt đẹp hơn bao giờ"… Sự thay da, đổi thịt được thể hiện rõ từ nông thôn đến thành thị, từ hạ tầng giao thông đến các loại hình dịch vụ giải trí… Sự sầm uất không chỉ dừng lại ở hình ảnh các tòa nhà cao tầng, xe cộ, phương tiện giao thông hiện đại hay các hoạt động giao thương thuần túy, mà nó còn được thể hiện ở một tầm cao mới với sự giao thương và hội nhập kinh tế số, sự sôi động đã có mặt hầu hết trong mọi hoạt động của xã hội thông qua nền tảng công nghệ. Việt Nam đã trở thành quốc gia hàng đầu thế giới có tốc độ gia tăng nhanh nhất về số thuê bao điện thoại di động và lượng người sử dụng internet cũng như các thiết bị thông minh như smartphone…
Hình ảnh, vị thế và uy tín của Việt Nam ngày càng được khẳng định trên trường quốc tế, nhất là thành công trong phòng, chống dịch COVID-19. Việt Nam đã được Tổ chức Y tế thế giới và cộng đồng quốc tế đánh giá là một trong số ít quốc gia có hoạt động chống dịch hiệu quả nhất thế giới trong bối cảnh là nước có thu nhập trung bình thấp, đầu tư cho y tế còn nhiều hạn chế. Có được thành công này càng khẳng định tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam đã lan tỏa và vượt ra ngoài biên giới, mang lại niềm tin cho các nhà đầu tư, sự yêu mến và khâm phục của bạn bè quốc tế.
Với ý chí kiên cường của người Việt Nam, với khát vọng của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, dân tộc ta nhất định sẽ đạt được khát vọng hùng cường. Bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam ngày càng tỏa sáng hơn qua việc đẩy mạnh triển khai công cuộc đổi mới, hướng tới mục tiêu phát triển đất nước theo tinh thần của Đại hội Đảng lần thứ XIII, khẳng định ý chí kiên cường và quyết tâm đi tới của cả dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh với phương châm “Đoàn kết-Dân chủ-Kỷ cương-Sáng tạo-Phát triển”.
Chúng ta càng thấy các giá trị định hướng, chỉ đạo sâu sắc trong Văn kiện Đại hội XIII: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Bài học về thể chế, về tư duy lãnh đạo và khát vọng hùng cường của dân tộc, cũng như lợi ích của người dân đã được nhận diện khá rõ ràng cả hai mặt thành tựu và hạn chế, được minh chứng xuyên suốt theo chiều dài lịch sử của đất nước. Có thể khẳng định, bất luận ở góc độ quản trị nào, từ doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế cho đến chính quyền các cấp từ cơ sở, địa phương cho đến quản trị quốc gia thì các yếu tố vĩ mô - nền tảng cốt lõi mang tính chiến lược dài hạn luôn phải được coi trọng hàng đầu, còn những giải pháp mang tính ngắn hạn bao giờ cũng phải đảm bảo phục vụ cho các mục tiêu dài hạn.
Tầm nhìn đó, tư duy đó luôn được khẳng định ở cương lĩnh chính trị, các văn kiện Đảng và ngày càng được bồi đắp, củng cố sau mỗi kỳ đại hội Đảng. Đó chính là sản phẩm kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, là khát vọng, là ý chí, nghị lực và bản lĩnh Việt Nam./.
***
Bài 5: Khát vọng hùng cường và hiện thực hóa ở Việt Nam
(ĐCSVN) - Một dân tộc thông minh, cần cù thì không cam chịu yếu kém và nghèo nàn. Một dân tộc hiếu học thì không thể chấp nhận tụt hậu về khoa học và tri thức… Việt Nam sẽ cần bao nhiêu năm để có được những kỳ tích như “Thần kì Nhật Bản”, “Kỳ tích sông Hàn”, hay “Câu chuyện thần kì” mang tên Singapore?
Nhìn lại để bước tới tương lai
Ngay trong thời kỳ kháng chiến chống giặc ngoại xâm, khát vọng, ý chí quyết tâm của cả dân tộc Việt Nam đã được khẳng định bằng Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”.
Thực hiện di nguyện và mong muốn của Người: “Xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, bằng ý chí quật cường, khát vọng mãnh liệt, dân tộc Việt Nam đã và đang gặt hái được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta…”.
Đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn trên mọi mặt từ chính trị, kinh tế - xã hội, nhưng chúng ta “không ngủ quên trên vòng nguyệt quế”. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh: "Không được ngủ quên trên chiến thắng"; “Chúng ta tuyệt nhiên không chủ quan, thoả mãn; không say sưa với thành tích, thắng lợi. Bởi vì đất nước vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức; tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường; kinh tế thế giới còn tiềm ẩn nhiều rủi ro; xuất hiện xu hướng bảo hộ trở lại và chống tự do hoá thương mại và đầu tư ở nhiều nơi”.
Kinh tế thị trường góp phần tạo nên chuyển biến tích cực trong đời sống thể hiện ở thu nhập của người dân từng bước được cải thiện và nâng cao; xã hội có những phát triển đáng mừng về mọi mặt đời sống - kinh tế, văn hóa… Tuy nhiên, thành quả đạt được chưa thực sự tương xứng với tiềm năng của đất nước cũng như kỳ vọng của nhiều người. Sự gia tăng phân hóa giàu - nghèo, chênh lệnh giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng kinh tế tạo ra nhiều tác động tiêu cực trong xã hội, mà hệ quả trực tiếp là gia tăng bất bình đẳng cơ hội, ảnh hưởng tới khả năng dịch chuyển xã hội của người dân lên các thang bậc kinh tế cao hơn, cũng như gây tác động không tốt tới sự phát triển chung của toàn xã hội. Và nếu so với các quốc gia có những câu chuyện thần kỳ về sự phát triển như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore…, Việt Nam vẫn còn những khoảng cách khá xa để theo kịp và hướng tới sự thịnh vượng ngang bằng với những quốc gia được cho là hình mẫu này.
Chúng ta đang ở đâu?
Cho tới hiện tại, Nhật Bản xếp thứ 11 thế giới về dân số với 126 triệu dân, quy mô nền kinh tế đứng 3 thế giới và thu nhập bình quân đầu người là 41.000 USD, đứng 24 thế giới. Hàn Quốc xếp thứ 28 thế giới về dân số với 51 triệu dân, quy mô nền kinh tế ước đạt 1.627 tỷ USD, đứng thứ 12 thế giới và thu nhập bình quân đầu người ước đạt 32.000 USD, xếp thứ 28 thế giới. Singapore xếp thứ 114 thế giới về dân số với 5,8 triệu dân, quy mô nền kinh tế ước đạt 340 tỷ USD, đứng thứ 39 thế giới và thu nhập bình quân đầu người ước đạt 58.000 USD, xếp thứ 7 thế giới. Trong khi đó, dân số Việt Nam xấp xỉ 100 triệu dân, xếp thứ 15 thế giới nhưng quy mô nền kinh tế mới đạt khoảng 343 tỷ USD, đứng thứ 37 thế giới, thu nhập bình quân đầu người của nước ta còn ở mức thấp (ước đạt khoảng 3.521 USD năm 2020), đứng thứ 120 trên thế giới.
“Mọi sự so sánh đều là khập khiễng”, tuy nhiên, nếu không so sánh thì chúng ta khó nhận biết được những thành tựu mà đất nước đã đạt được; so sánh với chính mình và so sánh với người để xem ta đã tiến bộ đến đâu và liệu ta có thể học hỏi được những kinh nghiệm nào từ quốc tế?… Nhưng, đúng là không có hình mẫu nào là hoàn hảo, cũng không có giải pháp nào là dễ dàng và lý tưởng để sao chép hay bắt chước nguyên mẫu 100%. Có điều, nếu cứ loay hoay mãi mà chưa tìm ra hướng đi hay mô hình phù hợp, thậm chí là bế tắc thì rất có thể những “khát vọng hùng cường” mãi cũng chỉ dừng lại là... “giấc mơ”.
Thay đổi để tiến bộ hơn
Thay đổi để tiến bộ hơn, kế thừa những nền tảng sẵn có, học hỏi kinh nghiệm và tiếp nhận có chọn lọc những thành tựu từ các quốc gia đi trước, dám chấp nhận loại bỏ những thứ không còn phù hợp là cách tốt nhất để chúng ta có thể đi nhanh hơn, xa hơn và bền vững hơn. So sánh với người và so sánh với chính mình là cách tốt nhất để đánh giá về những thành quả đã đạt được. Trong hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước, chúng ta đã bước qua những ngưỡng thử thách và đạt được nhiều thành tựu lớn lao, đúc rút được những kinh nghiệm bổ ích nào. Nhìn lại để bước tới tương lai, so sánh với các quốc gia khác để thấy rõ hơn vị trí mà mình đang đứng, để thấy được những thách thức phải vượt qua ở chặng đường phía trước…
Việt Nam sẽ cần bao nhiêu năm để có được những kỳ tích như “Thần kì Nhật Bản”, “Kỳ tích sông Hàn”, hay “Câu chuyện thần kì” mang tên Singapore? Câu trả lời là không dễ, nhưng không có lý do gì cản trở Việt Nam lập được những kì tích tương tự. Tuy nhiên, thể chế vẫn là một trong những nút thắt và lực cản đối với nền kinh tế nước ta, Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ XIII vừa qua vẫn khẳng định "cải cách thể chế là một trong những đột phá quan trọng"… Đổi mới thể chế mà trước hết là đổi mới tư duy về thể chế để thể chế thực sự trở thành động lực quan trọng, có giá trị dẫn đường, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển đất nước. Không để thể chế cản trở sự phát triển là một trong những ưu tiên hàng đầu.
Vì vậy, để phát huy vai trò của Nhà nước đối với mục tiêu khát vọng hùng cường, cần đẩy nhanh hoàn thiện, cải cách và nâng cao chất lượng thể chế cũng như thực thi pháp luật hiệu lực, hiệu quả là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy phát triển đất nước. Đổi mới thể chế, trong đó, đổi mới tư duy về thể chế, tư duy quản lý nhà nước phải đi đầu… tức là phải đổi mới tư duy lãnh đạo và tầm nhìn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Và mọi đổi mới, cải cách cũng phải được bắt đầu từ người lãnh đạo có khát vọng, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm, quan trọng hơn là dám thay đổi và từ bỏ những thứ đã cũ và lạc hậu, xóa bỏ tư tưởng giáo điều, bảo thủ, trì trệ trong cả tư duy và hành động.
Phải quyết liệt đổi mới mô hình giáo dục một cách hiệu quả hướng tới khoa học thực tiễn cho đời sống; thông qua giáo dục - đào tạo để tác động, thay đổi chất lượng nguồn nhân lực quốc gia, nâng cao năng suất lao động… Giáo dục phải gắn thiết thân với lợi ích, đời sống của nhân dân. Và để cải cách giáo dục thực sự có hiệu quả lâu dài, ngành Giáo dục nên tham khảo mô hình giáo dục, kế thừa những nền giáo dục phát triển nhất trên thế giới từ các quốc gia thành công đi trước như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore… Giáo dục là nền tảng quan trọng để vươn tới khát vọng hùng cường. Một dân tộc hiếu học thì không thể chấp nhận tụt hậu về khoa học và tri thức. Một dân tộc thông minh, cần cù thì không thể cam chịu yếu kém và nghèo nàn.
Bên cạnh giáo dục về tri thức, giáo dục để làm người thì cần phải giáo dục để hình thành, nuôi dưỡng khát vọng và trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với sự hùng cường của dân tộc. Lực lượng thanh niên chính là rường cột, là tương lai của nước nhà… Thanh niên phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện cũng như hun đúc thêm niềm tin mãnh liệt vào tương lai của đất nước, kế thừa truyền thống cách mạng của các thế hệ đi trước; góp phần đưa đất nước Việt Nam đi lên giàu mạnh và phồn vinh, “sánh vai với các cường quốc năm châu” như Bác Hồ hằng mong ước.
Cần thay đổi tư duy và tầm nhìn về các mục tiêu phát triển, đề cao hội nhập và hợp tác quốc tế cũng như phải xác định được lợi thế so sánh và năng lực cạnh tranh quốc gia (lợi thế tương đối và lợi thế tuyệt đối), hay nói cách khác là xác định điểm mạnh, điểm yếu, mục tiêu chiến lược dài hạn là gì… Nếu không, chúng ta sẽ rất dễ mắc phải “chiến lược quả mít” với tư duy, tầm nhìn ngắn hạn, cái gì cũng muốn, cái gì cũng làm, cái gì cũng là mũi nhọn, là lợi thế…; chạy theo trào lưu sẽ làm cho nguồn lực bị phân tán, dàn trải, mất tập trung và khó theo đuổi mục tiêu khát vọng hùng cường.
Nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo quốc gia; tập trung các nguồn lực cho các thứ tự ưu tiên, rà soát để có các giải pháp cụ thể thúc đẩy phát triển các ngành, lĩnh vực được xác định là động lực tăng trưởng của nền kinh tế như: Công nghiệp chế biến, chế tạo, nông nghiệp công nghệ cao, du lịch, dịch vụ và phát triển đô thị... Tiếp tục thực hiện và vận dụng có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (khóa XII) về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tự tin vào khát vọng hùng cường
Cần xóa bỏ tâm lý tư duy nhiệm kỳ. Là cán bộ lãnh đạo, quản lý phải dám nhận trách nhiệm chứ không phải thoái thác trách nhiệm, đổ lỗi cho các yếu tố bất lợi khách quan như: Vị trí địa lý, thiên tai, vấn đề về cơ chế, thể chế… khi không hoàn thành nhiệm vụ và những yêu cầu đặt ra. Trên thực tế, thế giới không thiếu những quốc gia có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, vị trí địa lý không mấy thuận lợi như: Israel, Nhật Bản, Singapore… nhưng họ đều đã trở thành những quốc gia hình mẫu về sự phát triển.
Chúng ta hoàn toàn có thể kế thừa và phát huy những bài học kinh nghiệm của những quốc gia đi trước, kinh nghiệm hàng trăm năm của các quốc gia đã được viết thành sách và không giữ làm bí mật. Họ sẵn sàng chia sẻ bí quyết thành công với thế giới. Mọi giải pháp đôi khi chỉ gói gọn trong một cuốn sách nhưng để áp dụng, học hỏi và làm theo cũng là câu chuyện dài gây nhiều tranh luận. Thực tế ở nước ta, nhiều khi có chủ trương, đường lối, cơ chế, chính sách tốt nhưng để đi vào cuộc sống lại gặp không ít trở ngại bởi khâu thực hiện, mà khâu thực hiện chính lại là con người...
Cổ nhân có câu: “Thiên thời không bằng địa lợi, địa lợi không bằng nhân hòa”. Đúc rút này giúp chúng ta có thể tự tin rằng, khát vọng hùng cường hoàn toàn trở thành hiện thực khi có sự đồng thuận, hưởng ứng của Nhân dân - khi mà “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”, muôn dân đoàn kết một lòng cùng hướng về mục tiêu khát vọng hùng cường của dân tộc, sự thịnh vượng của Nhân dân. Khi các nhà lãnh đạo nêu gương với tinh thần cống hiến tận tâm, tận lực, biết tập hợp, quy tụ và khơi dậy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại một cách khoa học, đúng lúc, đúng chỗ, không ngại khó khăn, gian khổ, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; năng động, sáng tạo, cống hiến toàn bộ trí tuệ, sức lực, tâm huyết cho sự nghiệp chung thì tất yếu sẽ huy động và sử dụng được một cách hiệu quả nhất các nguồn lực, mang lại lợi ích cho cộng đồng, cho đất nước, đưa đất nước ngày càng phát triển đi lên. Và mục tiêu hiện thực hóa khát vọng "Việt Nam hùng cường" năm 2045 sẽ trở thành hiện thực!
Khắc Trường (Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam)