Quyền lực và kiểm soát quyền lực trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), Đảng ta khẳng định: “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý thành cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội”. Cơ chế này phản ánh và giải quyết các mối quan hệ cốt lõi của xã hội Việt Nam. Vì vậy, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nhấn mạnh “phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn:...; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.”(2).
Đây là một cơ chế, giải quyết ba mối quan hệ chính trị cơ bản nhất ở Việt Nam hiện nay, đó là quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, nhằm giải quyết những vấn đề bản chất nhất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng. Có thể nói đây là vấn đề của mọi vấn đề. Để cho cơ chế này hoạt động tốt, có hiệu quả, thì vừa phải tạo ra động lực cho từng nhân tố và phối hợp hoạt động nhịp nhàng giữa ba nhân tố, vừa phải kiểm soát quyền lực trong từng nhân tố nói riêng và kiểm soát lẫn nhau trong tổng thể nói chung.
Kiểm soát quyền lực của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Quyền lực của Đảng là quyền lực chính trị, là quyền lực của một tổ chức chính trị “đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc”, là “Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam” (Điều 4, Hiến pháp năm 2013). Đảng thực thi quyền lực chính trị của các giai cấp, tầng lớp, lực lượng xã hội mà mình đại diện bằng cách tác động vào Nhà nước, để thông qua Nhà nước, bằng Nhà nước, hiện thực hóa quyền, lợi ích và ý chí của lực lượng xã hội mà mình đại diện.
Từ khi ra đời cho đến nay, nhờ các yếu tố khách quan và năng lực chủ quan, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn là lực lượng lãnh đạo cách mạng. Đặc biệt, trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay, chỉ có một đảng chính trị, nên Đảng Cộng sản Việt Nam vừa có vai trò lãnh đạo, vừa có vai trò cầm quyền. Đảng một lúc phải thực thi hai loại quyền lực, quyền lực chính trị (lãnh đạo) và quyền lực nhà nước (cầm quyền).
Quyền lực lãnh đạo, có thể không chính thức, chỉ được thừa nhận bởi nhân dân, như trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền; cũng có thể chính thức, được chế định trong Hiến pháp. Nhưng dù chính thức hay không chính thức, đặc trưng của quyền lực lãnh đạo được thực thi bằng sự ảnh hưởng, sự hấp dẫn và tính tiên phong, gương mẫu của người lãnh đạo, nó không có bộ máy cưỡng chế để áp đặt ý chí của người lãnh đạo. Đảng lãnh đạo bằng tính tiên phong, bằng sự hấp dẫn của lý tưởng và giá trị mà Đảng theo đuổi, thể hiện trong cương lĩnh, đường lối, chủ trương, bằng sự vận động, thuyết phục quần chúng nhân dân qua những tấm gương chiến đấu hy sinh của đảng viên. Đảng phải thể hiện “là đạo đức, là văn minh”, là “không có mục đích nào khác, ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân”.
Kiểm soát quyền lực lãnh đạo của Đảng được chế định bởi Hiến pháp và bằng các phương thức khác nhau. Cụ thể như sau:
Một là, giới hạn quyền lực của Đảng, được chế định trong Hiến pháp năm 2013 (Điều 4), bởi hai nội dung: Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Như vậy, Đảng là một chủ thể lãnh đạo, thực thi quyền lực chính trị của giai cấp mà nó đại diện, chứ không phải là một chủ thể thực thi quyền lực nhà nước, mặc dù đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, một đảng duy nhất lãnh đạo và cầm quyền, có vai trò quyết định trong quá trình tổ chức ra Nhà nước và thực thi quyền lực nhà nước (chúng ta sẽ bàn tới sau). Giới hạn quyền lực của Đảng là “lực lượng lãnh đạo”, có nghĩa Đảng không phải là Nhà nước, không làm thay Nhà nước, không ra các văn bản quy phạm pháp luật như Nhà nước. Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng, dù trong thực tế có tác động lớn đến đâu, cũng không phải là văn bản quy phạm pháp luật, tức không có bộ máy cưỡng chế hợp pháp đi kèm đằng sau những văn bản đó, chúng tác động đến xã hội thông qua thể chế hóa, hoạt động tuyên truyền, vận động, tổ chức của Đảng, thông qua tính đúng đắn và sức hấp dẫn của cương lĩnh, đường lối, chủ trương đó. Thứ hai, “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Nội dung này đặt Đảng bình đẳng trước pháp luật như mọi đối tượng điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. Đảng được làm những gì mà pháp luật không cấm, nhưng không thể vượt qua được khung khổ pháp luật quốc gia. Nội dung Điều 4 Hiến pháp năm 2013 còn quy định thêm, “Đảng chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”.
Hai là, nhân dân thực hiện quyền giám sát hoạt động của Đảng theo các tiêu chí cụ thể được ghi trong Cương lĩnh và trong Điều 4, Hiến pháp 2013. Nhân dân giám sát Đảng, từ sự gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình, cho đến các hành vi vi phạm pháp luật. Ngoài ra, việc kiểm soát quyền lực lãnh đạo của Đảng còn được thực hiện với các hình thức giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, của các tổ chức chính trị - xã hội... Các hình thức kiểm soát này đều được chế định trong Hiến pháp, các văn bản luật và Điều lệ Đảng.
Ba là, Đảng thực hiện cơ chế “tự kiểm soát” bằng các hình thức sinh hoạt đảng, như tự phê bình và phê bình, kỷ luật đảng, hoạt động kiểm tra - giám sát của các tổ chức đảng từ chi bộ đến Trung ương theo Điều lệ Đảng.
Bốn là, kiểm soát quyền lực lãnh đạo của Đảng còn thực hiện bởi việc đánh giá hiệu quả lãnh đạo theo vai trò lãnh đạo được chế định bởi Hiến pháp. Đánh giá hiệu quả lãnh đạo của Đảng dựa trên ba tiêu chí cơ bản: 1- Mức độ thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ mà Đảng đề ra; 2- Niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng; 3- Những giá trị tiến bộ mà Đảng mang đến cho nhân dân, cho đất nước, cho dân tộc.
Như vậy, chủ thể quan trọng nhất trong kiểm soát quyền lực lãnh đạo của Đảng là nhân dân. Công cụ kiểm soát mạnh mẽ nhất hiện nay là chế định của Hiến pháp. Vì vậy, cần có nhận thức đầy đủ, rõ ràng về các chế định của Hiến pháp về vai trò lãnh đạo của Đảng; về giám sát của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên; về giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, khung khổ pháp luật, về giám sát nội bộ Đảng... nhờ đó mà việc kiểm soát quyền lực lãnh đạo của Đảng trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” sẽ đạt hiệu quả mong muốn.
“Chế tài” quan trọng nhất đối với kiểm soát quyền lãnh đạo của Đảng là lòng tin của nhân dân, của những người đi theo Đảng. Mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng sẽ dẫn đến nguy cơ mất vai trò lãnh đạo và sẽ mất quyền lãnh đạo của Đảng, dù quyền đó có thể được chế định bằng những hình thức pháp lý.
Kiểm soát quyền lực nhà nước
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân (Điều 2, Hiến pháp năm 2013). Chế định của Hiến pháp nước ta đã nói lên vấn đề có tính nguyên lý của mọi nền dân chủ, mà Việt Nam không phải là một ngoại lệ. Nguồn gốc quyền lực nhà nước là từ nhân dân. Bản thân Nhà nước, cơ quan nhà nước, công chức, viên chức nhà nước không tự nhiên phát sinh ra quyền lực, mà chỉ nhận sự ủy quyền của nhân dân, thay mặt nhân dân thực thi quyền lực của nhân dân mà thôi.
1- Bầu cử là phương thức kiểm soát quyền lực quan trọng nhất
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức thông qua bầu cử dân chủ, nhận sự ủy quyền có điều kiện và có thời hạn của nhân dân, thực thi quyền lực nhà nước của nhân dân. Đây là hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước quan trọng nhất, bởi vì bầu cử vào các cơ quan quyền lực nhà nước liên quan đến quyền dân chủ của nhân dân và quyền lãnh đạo của Đảng. Người dân phải có quyền, trách nhiệm và điều kiện để lựa chọn những người gắn bó, có trách nhiệm với vận mệnh của nhân dân. Sau khi đã bầu, người dân còn dùng quyền giám sát và quyền bãi miễn để có thể không bầu lại trong nhiệm kỳ tới hoặc thu hồi lại quyền lực khi người đại diện không còn xứng đáng. Trong lúc đó, với tư cách là đảng chính trị, đảng cầm quyền, Đảng lựa chọn đảng viên giới thiệu ra ứng cử, cho nhân dân bầu. Như vậy, một đại biểu được bầu phải đáp ứng được sự tín nhiệm của nhân dân và của Đảng. Đảng và dân đều thực hiện sự giám sát của mình với các vị đại diện đó.
Vấn đề ở chỗ, bầu cử phải thực sự dân chủ, không hình thức. Quy trình bầu cử chủ yếu phải dựa vào nhân dân, xuất phát từ nhân dân, coi trọng sự tín nhiệm của nhân dân chứ không đơn thuần chỉ là một hình thức hợp pháp hóa “quy trình” nhân sự của Đảng. Đảng nên coi trọng sử dụng những người mà người dân thấy xứng đáng nhất, đáng tin cậy nhất và đưa người đó vào các vị trí trong bộ máy nhà nước. Việc Đảng trở thành đảng duy nhất cầm quyền, mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý đặt ra vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước trở thành một nhiệm vụ kép và có ý nghĩa kép: Đảng vừa thực hiện quyền lực lãnh đạo, vừa kiểm soát quyền lực nhà nước, nhân dân vừa kiểm soát quyền lực lãnh đạo của Đảng, vừa kiểm soát quyền lực nhà nước.
Mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước dù chặt chẽ đến mức “hóa thân” vào nhau, nhưng vấn đề đặt ra là không Đảng hóa Nhà nước và không Nhà nước hóa Đảng. Không để “nhầm lẫn” giữa quyền lực của Đảng và quyền lực Nhà nước, không để Đảng trùm lên Nhà nước hay Nhà nước trùm lên Đảng. Nếu xẩy ra tình trạng đó, hệ thống quyền lực sẽ bị rối loạn, tê liệt, mặc dù nhìn bên ngoài có vẻ rất tiện dụng. Kinh nghiệm của lịch sử chính trị thế giới, của mô hình nhà nước xô-viết đã chứng minh điều đó. Khi một nhóm nào to phình lên trùm lợp tất cả các nhóm khác, ta sẽ không có được tổng số của nhiều sự khác biệt nhỏ, mà chỉ có một sự khác biệt duy nhất, lúc đó sẽ không còn ý chí chung nữa, và ý kiến quyết định chỉ là ý chí riêng(3).
2- Giới hạn quyền lực nhà nước bằng Hiến pháp
Nguyên lý của giới hạn quyền lực nhà nước là nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. Ở Việt Nam hiện nay, “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”. (Điều 8, Hiến pháp năm 2013).
Ở nước ta, tất cả các chế định của Hiến pháp đều cho thấy, Nhà nước được tổ chức theo khuynh hướng tập quyền, thực hiện chức năng công quyền. Như vậy, Nhà nước Việt Nam đã tách chức năng quản lý nhà nước ra khỏi các chức năng sản xuất, kinh doanh, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, tránh can thiệp sâu vào các quyền riêng tư cá nhân. Việc Hiến pháp giới hạn quyền lực nhà nước như vậy là một bước tiến so với mô hình tập trung quan liêu bao cấp trước đây, khi Nhà nước còn có thể trực tiếp tham gia sản xuất, kinh doanh, hoặc đồng nhất các đơn vị sản xuất, kinh doanh, văn hóa nghệ thuật, y tế, giáo dục với các cơ quan nhà nước, như là các cơ quan công quyền. Nhà nước có thể bảo trợ các đơn vị đó, nhưng không nên biến các cơ sở đó thành cơ quan nhà nước. Hệ lụy nhà nước hóa xã hội vẫn còn trầm trọng cho đến ngày nay. Nhà nước không thể là doanh nghiệp đi tìm kiếm lợi nhuận, hay đi biểu diễn nghệ thuật. Tuy nhiên, không loại trừ việc Nhà nước thành lập một số cơ sở phi lợi nhuận để phục vụ trực tiếp cho việc thực hiện chức năng quản lý. Điều đó phù hợp với tổ chức nhà nước từ xưa tới nay trên thế giới.
Quan trọng hơn hết, các chế định mới của Hiến pháp tạo điều kiện để kiểm soát quyền lực nhà nước, để cắt bớt những “chiếc vòi bạch tuộc” của các “quan chức” quan liêu hằng ngày hằng giờ tiêu tiền ngân sách, gây nhũng nhiễu cho doanh nghiệp và người dân, can thiệp vào mọi mặt sinh hoạt của đời sống xã hội để làm lợi cho riêng mình.
3- Kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước
Một trong những phương thức quan trọng để kiểm soát quyền lực nhà nước là tổ chức bộ máy nhà nước sao cho các cơ quan quyền lực nhà nước, hoặc thực thi quyền lực nhà nước vừa thống nhất phối hợp hành động, vừa kiểm soát lẫn nhau để không một cơ quan nào có thể lạm quyền. Qua một quá trình đổi mới lý luận và kiểm nghiệm thực tiễn, chúng ta đã đưa phạm trù kiểm soát quyền lực vào nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước và được hiến định. Ở nước ta, “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Điều 2, khoản 3, Hiến pháp năm 2013).
Sự tiến bộ trong nhận thức về kiểm soát quyền lực đã bắt đầu phát huy tác dụng nhất định trong thực tiễn. Tuy nhiên, chúng ta cũng “chưa chế định rõ, đồng bộ, hiệu quả cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp. Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của các thiết chế cơ bản trong bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, như Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp còn những điểm chưa thực sự hợp lý, hiệu lực, hiệu quả”(4).
Để kiểm soát được quyền lực nhà nước, việc tách rõ về kỹ thuật (chứ không phải chính trị) giữa chức năng lập pháp và hành pháp rất quan trọng. Ở nước ta, Quốc hội “Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng Bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập” (Điều 70, Hiến pháp năm 2013). Các hình thức kiểm soát của Quốc hội khá đa dạng. Ngoài việc nghe báo cáo như đã nói, Chính phủ, các thành viên Chính phủ phải trả lời chất vấn trước Quốc hội; lấy phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội bầu, phê chuẩn; thành lập đoàn giám sát tối cao giám sát hoạt động của các cơ quan của Chính phủ...
Quyền chế ước của Chính phủ đối với Quốc hội về mặt pháp lý hiện chưa thật rõ. Nhưng về mặt “kỹ thuật”, có một số vấn đề mà Chính phủ có thể chế ước được Quốc hội: Chống tham nhũng, quản lý nhà nước đối với mọi hoạt động của Quốc hội, trình các dự luật cho Quốc hội. Hiện nay khoảng 90% dự án luật của Việt Nam đều do các cơ quan Chính phủ trình(5). Việc trình dự án luật như vậy buộc Quốc hội ở mức độ nào đó phải phụ thuộc vào tầm nhìn, cách nhìn, ý chí, lợi ích, thủ tục hành chính và cách điều hành của Chính phủ. Các đạo luật do Quốc hội ban hành chỉ có thể thực hiện được qua các bước của Chính phủ, như nghị định Chính phủ, thông tư các bộ, hướng dẫn triển khai... Về nguyên tắc, bằng cách đó Chính phủ có thể “chế ước” quyền lực của Quốc hội.
4- Kiểm soát của các cơ quan tư pháp đối với các cơ quan nhà nước
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp, có quyền xét xử đối với bất kỳ đại biểu Quốc hội, thành viên Chính phủ nào nếu họ phạm luật. Việc hiến định nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của thẩm phán, hội thẩm, làm cho khả năng kiểm soát quyền lực nhà nước của tòa án là rõ ràng. Ngoài chức năng công tố, viện kiểm sát nhân dân có chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, qua đó có thể kiểm soát, ngăn chặn được việc lạm quyền của cơ quan và công chức nhà nước, trong các hoạt động tư pháp.
5- Nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước
Nhân dân kiểm soát Nhà nước trước hết qua hệ thống bầu cử, thông qua hoàn thiện chức năng giám sát tối cao của Quốc hội và giám sát của hội đồng nhân dân các cấp, các công cụ thanh tra, kiểm toán, kiểm tra của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, nhân dân còn các công cụ khác, như thông qua các tổ chức có tính đại diện xã hội, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp; qua giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, thông qua quyền khiếu nại, tố cáo, qua hệ thống phương tiện truyền thông...
Bảo đảm quyền được làm tất cả những gì pháp luật không cấm đối với nhân dân
Nhân dân là chủ thể của mọi quyền lực. Khi sống đơn lẻ, mỗi người tự do sử dụng toàn bộ quyền lực của mình. Trong xã hội có nhà nước, nhân dân ủy một phần quyền để tạo thành nhà nước (quyền lực công, ý chí chung, tự do công cộng...), phần còn lại tự do sử dụng. Nguyên tắc này thường được ghi trong các bản hiến pháp dân chủ (khế ước xã hội). Như vậy, trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa công dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm. Những điều mà pháp luật cấm là những điều được xã hội thỏa thuận và ghi thành Khế ước (Hiến pháp) và được cụ thể hơn nữa thông qua các đạo luật. Đó cũng chính là giới hạn quyền lực của công dân (nhân dân) để công dân thực hiện đúng, đầy đủ và hiệu quả quyền lực của mình.
Phải thấy rằng, công dân cũng có thể lạm quyền khi sử dụng các quyền của mình. Đó là khi vì tự do cá nhân của mình mà xâm hại đến tự do của xã hội và tự do của cá nhân khác, là khi công dân xâm hại đến ý chí chung, thậm chí phạm tội. Ví dụ, sử dụng quyền tự do ngôn luận, quyền biểu tình, quyền dân chủ... để chống lại cộng đồng và xã hội; lạm dụng quyền tự do tin, hay không tin tôn giáo tín ngưỡng, để cổ xúy, truyền bá mê tín dị đoan hoặc tư tưởng hận thù, chia rẽ dân tộc...
Như vậy, một mặt, cần phát huy dân chủ của nhân dân, để nhân dân có điều kiện thực hành dân chủ, hiện thực hóa quyền và lợi ích của mình; mặt khác, nhà nước, các đảng chính trị, và tự bản thân nhân dân cũng cần có cơ chế kiểm soát các hoạt động tự do quá trớn, vô chính phủ xâm hại quyền tự do, dân chủ của cộng đồng và của các thành viên khác trong xã hội.
Đảng phải tuyên truyền vận động nhân dân biết sử dụng quyền lực của mình một cách hiệu quả, từ việc lựa chọn người đại diện cho mình đến giám sát, phản biện xã hội; từ việc khiếu nại, tố cáo đến biểu thị ý kiến đúng pháp luật... Nhà nước kiểm soát các biểu hiện dân chủ quá trớn, tự do vô lối bằng cách ban hành chính sách, pháp luật nhằm hạn chế tính tự phát, tâm lý đám đông tiêu cực trong các xung đột xã hội.
Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” phản ánh những mối quan hệ cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trong cơ chế đó, mỗi chủ thể có vai trò, vị trí khác nhau, phối hợp với nhau, kiểm soát lẫn nhau, tạo ra động lực của cơ chế, phát huy tính hiệu quả của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và đã được chế định trong Hiến pháp. Tuy nhiên, nhận thức về vận hành cơ chế này, từ phối hợp thống nhất hành động, cho đến kiểm soát quyền lực trong từng chủ thể, và trong toàn bộ mối quan hệ của cơ chế vẫn chưa được nhận thức đầy đủ, chưa được cụ thể hóa, vì thế cần được tiếp tục nghiên cứu cụ thể hóa để góp phần hoàn thiện hệ thống chính trị nước ta.
---------------------------------------------------------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 203.
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 72 - 73.
(3) Xem: J. J. Rousseau: Bàn về Khế ước xã hội, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006, tr. 85.
GS,TSKH, Phan Xuân Sơn
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh