1. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị Việt Nam gắn liền với vai trò tổ chức và lãnh đạo của Đảng. Mỗi tổ chức thành viên của hệ thống chính trị đều do Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập, vừa đóng vai trò là hình thức tổ chức quyền lực của nhân dân (Nhà nước), tổ chức tập hợp, đoàn kết quần chúng, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của quần chúng (mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội), vừa là tổ chức mà qua đó Đảng Cộng sản thực hiện việc lãnh đạo chính trị đối với xã hội.
Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
2. Nội dung Đảng lãnh đạo xây dựng và quản lý tổ chức bộ máy, biên chế của hệ thống chính trị
Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng có sự thay đổi để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, phát triển đất nước trong từng giai đoạn. Nội dung lãnh đạo của Đảng gắn liền với phương thức lãnh đạo của Đảng. Nội dung lãnh đạo của Đảng là những quyết định của Đảng về đường lối, chủ trương, chính sách, bảo đảm tính định hướng chính trị cho tổ chức và hoạt động của toàn hệ thống chính trị.
Phương thức lãnh đạo của Đảng là tổng thể các hình thức, phương pháp, lề lối làm việc mà Đảng sử dụng để tác động vào đối tượng lãnh đạo nhằm thực hiện thắng lợi nội dung lãnh đạo. Đảng lãnh đạo theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; các hình thức lãnh đạo bao gồm ra nghị quyết xác định đường lối, chủ trương, chính sách; tổ chức học tập, triển khai thực hiện nghị quyết; giám sát, kiểm tra việc thực hiện; xây dựng quy chế làm việc...; các phương pháp được thực hiện thông qua việc tuyên truyền, giáo dục; vận động, thuyết phục; tổ chức; nêu gương...
Là đảng cầm quyền, Đảng thực hiện quyền lực chính trị của mình thông qua bộ máy nhà nước và bộ máy các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị. Trong ý nghĩa này, bộ máy nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị là những công cụ, phương tiện của Đảng, thông qua đó Đảng gián tiếp thực hiện quyền lực chính trị của mình. Việc xây dựng, thành lập tổ chức bộ máy cần tính đến các yếu tố biên chế, con người, số lượng lãnh đạo, mối quan hệ công tác, cơ cấu tổ chức bên trong, công tác thanh tra, kiểm tra, phân cấp, phân quyền trong quy định, quyết định thành lập, giải thể, tổ chức lại để bảo đảm mục tiêu của việc xây dựng, vận hành tổ chức trong hệ thống tổng thể quy hoạch mạng lưới cơ quan, đơn vị của hệ thống chính trị. Do đó, công tác lãnh đạo xây dựng, quản lý tổ chức bộ máy cũng cần xem xét tổng thể, toàn diện toàn bộ các yếu tố này.
Nội dung Đảng thống nhất lãnh đạo xây dựng và quản lý tổ chức bộ máy, biên chế bao gồm các nội dung chủ yếu sau: Ban hành đường lối, chủ trương, nghị quyết, kết luận của cấp ủy, tổ chức đảng về xây dựng và quản lý tổ chức bộ máy, biên chế. Lãnh đạo thể chế hóa, chỉ đạo thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết, kết luận... về xây dựng và quản lý tổ chức bộ máy, biên chế. Định hướng, chủ trương, cho ý kiến, quy định hoặc quyết định về tổ chức bộ máy đối với các tổ chức thuộc phạm vi lãnh đạo, quản lý, bao gồm: 1) Quan điểm, nội dung các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức bộ máy. 2) Thành lập, sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể tổ chức bộ máy. 3) Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của tổ chức bộ máy. 4) Tiêu chí thành lập, số lượng biên chế tối thiểu, số lượng đầu mối bên trong và số lượng lãnh đạo cấp phó tối đa của một tổ chức. 5) Phân cấp quản lý tổ chức bộ máy. 6) Quy hoạch mạng lưới đơn vị sự nghiệp công lập. Định hướng, chủ trương, cho ý kiến quy định hoặc quyết định về biên chế: a) Quan điểm, nội dung các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý biên chế. b) Xây dựng kế hoạch sử dụng biên chế cả nhiệm kỳ 5 năm và hằng năm. c) Quyết định tổng biên chế và phân bổ biên chế cho từng tổ chức. Kiểm tra, giám sát, khen thưởng, kỷ luật trong công tác lãnh đạo xây dựng và quản lý tổ chức bộ máy, biên chế.
3. Thực trạng Đảng lãnh đạo xây dựng và quản lý tổ chức bộ máy, biên chế của hệ thống chính trị
Kết quả đạt được
Tổ chức bộ máy của các cơ quan, đơn vị, tổ chức trong hệ thống chính trị đã từng bước được đổi mới, sắp xếp, kiện toàn theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn, giảm cấp trung gian, đầu mối bên trong, số lượng phòng trong cục, vụ, cơ bản không chuyển vụ thành cục. Sắp xếp tổ chức bộ máy gắn với tinh giản biên chế, giảm số lượng lãnh đạo cấp phó, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; giải thể hoặc sắp xếp lại các cơ quan, tổ chức hoạt động không hiệu quả. Triển khai sắp xếp lại tổ chức chi cục thuế, kho bạc nhà nước... theo khu vực liên huyện để thu gọn đầu mối, tinh giản biên chế. Số lượng tổ chức và số lượng lãnh đạo, quản lý ở các tổ chức hành chính, đơn vị sự nghiệp giảm nhiều, nhất là cấp phòng; một số cơ quan, đơn vị, địa phương thực hiện đạt kết quả tốt. Các địa phương đã chủ động, tích cực sắp xếp đầu mối bên trong cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh, giảm được nhiều tổ chức và số lượng lãnh đạo, quản lý cấp phòng khối chính quyền địa phương. Số lượng tổ chức và lãnh đạo cấp sở, ngành giảm chủ yếu do sắp xếp lại các ban bảo vệ, chăm sóc cán bộ, các đảng ủy khối doanh nghiệp cấp tỉnh và hợp nhất văn phòng đoàn đại biểu Quốc hội, văn phòng HĐND và văn phòng UBND cấp tỉnh. Một số mô hình mới về tổ chức bộ máy, một số chức danh người đứng đầu trong Nghị quyết 18-NQ/TW được thí điểm kiêm nhiệm hoặc tổ chức thực hiện rộng rãi, góp phần tinh gọn bộ máy, đổi mới cơ chế hoạt động, phương thức chỉ đạo, điều hành theo hướng hiệu lực, hiệu quả hơn.
Một số địa phương có cách làm sáng tạo trong việc hợp nhất cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy với trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện. Có 11 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hợp nhất văn phòng đoàn đại biểu Quốc hội, văn phòng HĐND và văn phòng UBND tỉnh; 1 địa phương (Hà Giang) thực hiện hợp nhất ban tổ chức tỉnh ủy với sở nội vụ tỉnh và hợp nhất cơ quan ủy ban kiểm tra tỉnh ủy với thanh tra tỉnh; 23 tỉnh, thành phố thực hiện trưởng ban dân vận tỉnh ủy đồng thời là chủ tịch ủy ban mặt trận Tổ quốc tỉnh… Cơ bản hoàn thành việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, sắp xếp tổ chức bộ máy, thực hiện thống nhất văn phòng cấp ủy phục vụ chung cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc cấp ủy cấp tỉnh; nhiều nơi hoàn thành sắp xếp lại tổ chức bộ máy, đổi mới cơ chế hoạt động ban bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ cán bộ cấp tỉnh theo hướng chuyển giao cơ sở vật chất, trang thiết bị, đội ngũ y, bác sĩ cho cơ sở y tế (41 tỉnh, thành phố). Nhiều địa phương tổ chức lại đảng bộ khối doanh nghiệp cấp tỉnh gắn với việc chuyển giao một số TCCSĐ về trực thuộc cấp ủy địa phương nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính (Tuyên Quang, Nghệ An, Bình Định, Đắk Lắk); xây dựng đề án và thực hiện phát triển tổ chức đảng, đảng viên trong các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp ngoài nhà nước; thực hiện cơ quan tham mưu giúp việc chung khối mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội cấp huyện (58 huyện/15 tỉnh, thành phố); có nơi tổ chức cơ quan tham mưu giúp việc chung khối mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh (Quảng Ninh, Bình Phước).
Các địa phương, cơ quan, đơn vị đã tích cực thực hiện rà soát, sắp xếp các ban chỉ đạo theo hướng kiêm nhiệm, không có bộ phận chuyên trách giúp việc; hợp nhất, sáp nhập các ban quản lý dự án cấp huyện; sáp nhập và tổ chức lại các ban quản lý dự án của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, thành một số ban quản lý dự án trực thuộc UBND cấp tỉnh để giảm số lượng ban quản lý dự án. Mô hình bí thư, phó bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch HĐND được thực hiện ở hầu hết các đơn vị cấp huyện, cấp xã. Thực hiện bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch UBND tại 37 đơn vị cấp huyện, 1.072 đơn vị cấp xã. Thực hiện bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch HĐND tại 326 đơn vị cấp huyện, 6.571 đơn vị cấp xã. Biên chế thực tế (số người hưởng lương từ ngân sách nhà nước) của cả hệ thống chính trị có xu hướng giảm liên tục qua các năm, cơ bản đảm bảo lộ trình tinh giản biên chế, đặc biệt giảm mạnh trong 2 năm (2018-2019). Tính thời điểm 31-12-2019 so với thời điểm 30-4-2015, biên chế khối đảng, mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội đã giảm 11,26%, Văn phòng Chủ tịch nước giảm 15%, Khối Chính phủ, chính quyền địa phương giảm 15,2%... Tinh giản biên chế đã đi vào thực chất gắn với việc rà soát, sắp xếp lại tổ chức bộ máy và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Số lượng người hoạt động không chuyên trách cấp xã, thôn, tổ dân phố giảm nhiều (23,94%).
Kết quả sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, tinh giản biên chế trong hệ thống chính trị theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 39-NQ/TW đã góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội nước ta chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, hai năm liên tiếp đạt và vượt toàn bộ 12 chỉ tiêu do Quốc hội đề ra, tăng chi cho đầu tư phát triển, giảm nợ công. Theo kết quả nghiên cứu của Viện Dư luận xã hội (Ban Tuyên giáo Trung ương), tỷ lệ số người ghi nhận việc xây dựng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đã tăng lên, từ 33% (năm 2016) lên 39% (năm 2019).
Hạn chế
Một số quy định, hướng dẫn của Đảng, văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện một số nội dung mới về tổ chức bộ máy, biên chế chưa ban hành. Một số nhiệm vụ, giải pháp trong Nghị quyết đã được Bộ Chính trị phân công cấp ủy, tổ chức đảng thực hiện nhưng chưa hoàn thành theo đúng kế hoạch. Chậm triển khai nghiên cứu mô hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu, điều kiện cụ thể của nước ta trong giai đoạn mới. Chưa tham mưu Bộ Chính trị ban hành quy định về việc Đảng thống nhất lãnh đạo xây dựng và quản lý tổ chức bộ máy, biên chế của toàn hệ thống chính trị.
Việc sắp xếp theo hướng tinh gọn tổ chức bộ máy, giảm đầu mối trực thuộc các cơ quan, đơn vị của một số địa phương còn cơ học; việc sắp xếp, chuyển đổi đơn vị sự nghiệp của các cơ quan, tổ chức trực thuộc Trung ương còn chậm. Số đầu mối trực thuộc bộ, ngành, đoàn thể ở Trung ương sau khi sắp xếp giảm không đáng kể (cấp cục, vụ giảm 1,5%; cấp phòng thuộc cục, vụ giảm 4%). Một số cấp ủy chưa thực hiện sắp xếp đầu mối trực thuộc và chuyển bộ phận phục vụ của các cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc cấp ủy về văn phòng cấp ủy cấp tỉnh, chưa sắp xếp ban bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ cán bộ cấp tỉnh theo Quy định của Trung ương, chưa tổ chức lại đảng bộ khối doanh nghiệp cấp tỉnh (có 4 tỉnh Tuyên Quang, Nghệ An, Bình Định, Đắk Lắk thực hiện). Thực hiện hợp nhất tổ chức hoặc kiêm nhiệm chức danh người đứng đầu cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy với cơ quan chuyên môn thuộc UBND cùng cấp (thí điểm hoặc thực hiện ở những nơi có điều kiện) và hợp nhất các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện còn ít.
Nguyên nhân
Việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tinh giản biên chế là việc khó, nhạy cảm, phức tạp, tác động trực tiếp đến nhiều tổ chức, cá nhân. Việc cụ thể hóa, thể chế hóa một số nhiệm vụ, giải pháp nêu trong Nghị quyết và bổ sung, sửa đổi, ban hành các quy định, hướng dẫn của Đảng, văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện Nghị quyết đòi hỏi thời gian, quy trình, thủ tục chặt chẽ theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành có quy định về tổ chức bộ máy, biên chế chưa được sửa đổi, gây khó khăn trong quá trình sắp xếp, kiện toàn các tổ chức, tinh giản biên chế.
Một số cấp ủy, người đứng đầu chưa quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện; một số cơ quan chưa chủ động tham mưu đề xuất giải pháp, lộ trình thực hiện; còn tâm lý ngại va chạm, nể nang, chờ cấp trên chỉ đạo, hướng dẫn mới làm… Ngược lại, có nơi làm quá mạnh, nóng vội, chưa đúng quy định hiện hành. Không có chỉ tiêu cụ thể cho việc thực hiện giảm đầu mối trực thuộc các ban, bộ, ngành, mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, cơ quan, đơn vị từ Trung ương đến địa phương và cơ cấu bên trong của từng tổ chức trực thuộc; sắp xếp lại, giảm tối đa số lượng phòng trong cục…
Chưa có tiêu chí để giải thể hoặc sắp xếp lại các cơ quan, tổ chức hoạt động không hiệu quả. Việc tổ chức thực hiện Nghị quyết tại các địa phương, cơ quan, đơn vị phụ thuộc tinh thần tự giác, gương mẫu, sự chủ động, quyết liệt của cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo, nhất là người đứng đầu. Quyền hạn, trách nhiệm của tập thể và cá nhân, nhất là của người đứng đầu trong xây dựng và quản lý tổ chức bộ máy chưa được quy định rõ. Chậm xây dựng vị trí việc làm gắn với cơ cấu lại đội ngũ công chức, viên chức và xác định tổng biên chế cần có của địa phương, cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị.
Chế độ, phụ cấp cho cán bộ thực hiện nhất thể hoá các chức danh lãnh đạo, quản lý chưa phù hợp và tương xứng với công việc. Chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức tự nguyện thôi việc, nghỉ công tác chờ đủ tuổi nghỉ hưu do sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế chưa thực sự là động lực để khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức thực hiện.
Công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện nghị quyết chưa kịp thời, thường xuyên; chưa lấy kết quả thực hiện nghị quyết để đánh giá, xếp loại hằng năm đối với tập thể, cá nhân; chưa có chế tài và chưa xử lý kịp thời những tổ chức, cá nhân, nhất là người đứng đầu không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy định, không đạt mục tiêu tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế và những trường hợp lợi dụng việc sắp xếp tổ chức bộ máy để tham nhũng, tiêu cực.
4. Giải pháp
Đổi mới, bổ sung nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng để phù hợp với tình hình mới trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam.
Tăng cường tiếp cận từ trên xuống trong phân bổ biên chế cho từng khối của hệ thống chính trị. Xem xét đưa việc xác định, quyết định mô hình tổng thể hệ thống chính trị, phát huy vai trò lãnh đạo, nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo phân công, phối hợp giữa cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và các tổ chức chính trị - xã hội thành phương thức lãnh đạo của Đảng, kết hợp với các phương thức lãnh đạo của Đảng từ dưới lên thông qua các TCCSĐ, đảng viên, công tác cán bộ...
Tăng cường hiệu quả phương thức lãnh đạo của Đảng thông qua đảng đoàn, ban cán sự trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và quản lý tổ chức bộ máy, biên chế. Tăng cường phân cấp lãnh đạo xây dựng, quản lý tổ chức bộ máy, biên chế gắn với việc tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát.
Nghiên cứu, xây dựng quy định về Đảng thống nhất lãnh đạo xây dựng và quản lý tổ chức bộ máy, biên chế dựa trên nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo xây dựng và quản lý tổ chức bộ máy, biên chế của toàn hệ thống chính trị, ở Trung ương trực tiếp là Bộ Chính trị, ở địa phương trực tiếp là BTV cấp ủy cấp tỉnh và dựa trên cơ sở xác định rõ mô hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.
Gắn tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xây dựng, quản lý tổ chức bộ máy tinh gọn, bảo đảm hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Quản lý tổ chức bộ máy gắn với tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức…
Thủy Trương