Với
dân tộc Việt Nam, Hồ Chí
Minh là sự kết tinh những gì tốt đẹp, ưu tú nhất của trí tuệ và tư tưởng, tình
cảm và đạo đức, nhân cách và lối sống của con người và dân tộc Việt Nam. Người tiêu
biểu cho cốt cách và bản lĩnh của dân tộc, cho bản sắc văn hoá của dân tộc Việt
Nam
từ truyền thống đến hiện đại. Tinh hoa của dân tộc, lương tâm và khí phách của
thời đại đã được thể hiện chân thực và cảm động, trong sáng và đẹp đẽ, cao
thượng và bất khuất qua con người, cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh.
Khi đã tìm thấy con đường cách mạng và nhận thức
được chân lý của thời đại cách mạng nhờ giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin, với sự
thức tỉnh và cổ vũ của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, Nguyễn Ái Quốc - Hồ
Chí Minh đã dồn tất cả nỗ lực và tinh lực của đời mình để thực hiện đến cùng lý
tưởng và mục tiêu cách mạng: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là
tư tưởng chủ đạo, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình hình thành, phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh. Trong quá trình đó, Người vừa học tập và nghiên cứu lý luận,
vừa tham gia các phong trào đấu tranh chính trị của công nhân và lao động ở
những nơi Người đi qua, đã trực tiếp lăn lộn và trải nghiệm suốt mấy thập kỷ
trong cuộc hành trình tìm đường cứu nước, cứu dân. Bằng con đường lao động, vô
sản hóa, Người làm đủ mọi nghề, đi qua nhiều miền đất khác nhau, tham gia các
sinh hoạt của công nhân, thợ thuyền, ở ngay sào huyệt của chủ nghĩa tư bản và
chủ nghĩa thực dân, Người có điều kiện quan sát trực tiếp tình cảnh sống của
những người lao động dưới ách áp bức bóc lột tàn bạo của tư bản ở chính quốc
đối với các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc.
Thực tiễn này đã giúp Người nhận rõ bản chất của
chủ nghĩa tư bản và thực dân, cũng như hình thành ở Người tình hữu ái giai cấp
đối với những người cùng khổ. Cũng chính thực tiễn này đã cung cấp cho Người
những căn cứ để xác minh một sự thật mà Người đã từng hoài nghi về “Tự do -
Bình đẳng - Bác ái” do giai cấp tư sản đưa ra. Người muốn hiểu rõ đằng sau
những lời đẹp đẽ trong châm ngôn tư sản ấy, thực chất của nó là cái gì? Mười
năm đầu trong cuộc đi tìm chân lý tại chính quê hương của chủ nghĩa tư bản đã
đem lại cho Người những thu hoạch lớn, những kết luận chính trị quan trọng, tác
động sâu sắc đến tư tưởng, quan điểm, đường lối của Người. Đó là, ở đâu đâu đế
quốc tư bản thực dân cũng dã man, tàn bạo, cũng đầy rẫy những quan hệ phi nhân
tính; ở đâu đâu những người lao động nghèo khổ, bần cùng cũng là bạn bè, anh
em, đồng chí của nhau, họ phải được tập hợp lại, chủ động đấu tranh, “đem sức
ta mà giải phóng cho ta”.
Trong quá trình tìm đường cứu nước cứu dân và định
hình đường lối chính trị giải phóng, giành độc lập dân tộc, Nguyễn Ái Quốc - Hồ
Chí Minh không chỉ hoạt động ở châu Âu, ở các nước phương Tây tư bản chủ nghĩa,
mà Người còn hoạt động ở phương Đông, châu Á, tìm hiểu thực tiễn các phong trào
đấu tranh ở Trung Quốc và Thái Lan. Những cứ liệu từ thực tiễn đó giúp cho
Người so sánh, phân tích, tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt trong các
kết cấu kinh tế - xã hội, các mâu thuẫn giai cấp và dân tộc ở những khu vực địa
chính trị tiêu biểu, nơi diễn ra những phân hóa và mâu thuẫn giai cấp, dân tộc
rất khác nhau giữa phương Tây và phương Đông, giữa các nước tư bản châu Âu với
các nước châu Á đang còn tồn tại rất nhiều tàn tích phong kiến và đang là đối
tượng khai thác, nô dịch của chủ nghĩa thực dân.
Mối quan tâm đặc biệt nổi bật của Người là tình
hình Đông Dương, đặc biệt là Việt Nam khi đã mất độc lập chủ quyền và
đang bị chủ nghĩa thực dân đè nén, thống trị. Do đó, đối với Nguyễn Ái Quốc -
Hồ Chí Minh, việc nghiên cứu, khảo sát thế giới, khu vực và quốc tế cũng chỉ
nhằm hướng tới giải phóng và phát triển dân tộc mình, đặt cách mạng Việt Nam
trong phong trào cách mạng thế giới, sao cho phù hợp với trào lưu, xu thế chung
của lịch sử thế giới và thời đại.
Bước ngoặt lớn trong sự hình thành và phát triển
tư tưởng Hồ Chí Minh là khi Người giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin và lựa chọn
con đường cách mạng vô sản. Chỉ có cuộc cách mạng này mới giải phóng được giai
cấp vô sản, giải phóng các dân tộc bị áp bức khỏi ách thống trị của đế quốc,
thực dân, mới thực hiện được độc lập tự do, hoà bình và hạnh phúc cho các dân
tộc.
Sự kiện lịch sử đánh dấu bước ngoặt đó là vào năm
1920, tại Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp họp ở thành phố Tua, Người đã
cùng với những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân Pháp tán thành Quốc tế III
và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Từ một người yêu nước tiến bộ, Người
đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, trở thành người chiến sĩ xã hội chủ nghĩa (Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.10, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.241).
Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến nghiên cứu, khảo sát
trực tiếp tại nước Nga Xôviết của Lênin, thấy rõ sự sinh thành chủ nghĩa xã
hội, nhất là những cải cách kinh tế với chính sách kinh tế mới (NEP) do Lênin
khởi xướng làm hồi sinh nước Nga. Người có điều kiện nghiên cứu sâu hơn chủ
nghĩa Lênin cũng như ảnh hưởng rộng lớn của Cách mạng Tháng Mười, mở ra thời
đại mới - quá độ tới chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Những tư
tưởng đó đã được Người nghiền ngẫm sâu sắc, đã củng cố và khẳng định niềm tin
của Người về cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ đạo của cách mạng vô sản,
lực lượng lãnh đạo cuộc cách mạng đó chỉ có thể là giai cấp công nhân thông qua
đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản. Như thế, từ 1911 đến 1920 là một thập
kỷ Người tìm đường và đã thấy con đường sẽ đi. Từ 1920-1924 và sau đó từ
1925-1927 khi Người viết các tác phẩm lý luận, truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin
vào Việt Nam, nhất là Đường Kách mệnh (1927), đó là một giai đoạn lịch sử đặc
biệt, hình thành về cơ bản lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Người. Đó
cũng là thời gian mà Người chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra
đời chính dảng cách mạng kiểu mới ở Việt Nam. Tư tưởng và phương pháp cách
mạng sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc được thể hiện tập trung, cô đọng trong các văn
kiện đầu tiên thành lập Đảng, do chính Người trực tiếp soạn thảo: Chánh cương
vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt của Đảng, tháng 2-1930.
Các mốc thời gian và sự kiện sau đó phản ánh những
hoạt động vô cùng phong phú, kiên định, tích cực sáng tạo, nhưng cũng đầy thử
thách đối với Người. Chính thực tiễn lịch sử cách mạng đã là sự thẩm định khách
quan, công tâm nhất đối với giá trị, sức sống, ý nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh về
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đây thực sự là điểm nổi bật về sức sáng
tạo vượt trước của Hồ Chí Minh, về bản lĩnh Hồ Chí Minh. Cho đến khi Người về
nước (1941) trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam thì tư tưởng, phương pháp
cách mạng đầy sáng tạo của Người mới được khẳng định đầy đủ, nhanh chóng đi vào
thực tiễn, đem lại lời giải đúng đắn nhất về lý luận để thúc đẩy cách mạng
trong thực tiễn. Đó chính là chân giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội.
Những sáng tạo và cống hiến lịch sử của Hồ Chí
Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thể hiện ở những điểm nổi bật sau
đây:
Một là, nhận thức sáng tạo về chủ nghĩa
Mác và chủ nghĩa Mác - Lênin. Nghiên cứu các tác phẩm kinh điển, Người nhận
thấy một trong những ưu điểm đặc sắc nhất của lý luận Mác - Lênin là phép biện
chứng. Đó là phép biện chứng của phát triển xã hội, là khoa học và cách mạng
của sự phát triển, xóa bỏ trật tự xã hội cũ bất công, tàn bạo và hướng tới xây
dựng trật tự xã hội mới, dân chủ, công bằng và nhân đạo, xứng đáng nhất với con
người - đó là chủ nghĩa cộng sản. Người cũng đặc biệt đề cao học thuyết cách
mạng của Lênin, cả trí tuệ khoa học, tính triệt để cách mạng lẫn đạo đức và
nhân cách của người sáng lập ra học thuyết Đảng kiểu mới, lãnh đạo thành công
cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử, biến chủ nghĩa xã hội từ một học
thuyết lý luận thành hiện thực xã hội mới, một chế độ xã hội mới.
Người nhận rõ chủ nghĩa Mác - Lênin là biểu hiện
và kết tinh tinh hoa trí tuệ và tư tưởng của thời đại, của văn hoá nhân loại.
Song, Người cũng đặt ra một vấn đề hết sức nghiêm túc về nhận thức khoa học:
“Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử,
nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể
nhân loại” (Sđd, t.1, tr.465). Người đặt vấn đề về sự cần thiết phải vận dụng
quan điểm và phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác để xem xét sự
khác nhau cơ bản giữa kết cấu kinh tế và kết cấu giai cấp - xã hội giữa phương
Tây với phương Đông. Người cũng nêu rõ, mai đây, khi chủ nghĩa tư bản phương
Tây làm thay đổi phương Đông thì đấu tranh giai cấp có trở nên quyết liệt
không? và Người khẳng định, đại thể là có, nếu xét gương của Nhật Bản. Người
còn giải thích rằng, thật ra là có, vì sự Tây phương hóa ngày càng tăng và tất
yếu của phương Đông - nói cách khác, chủ nghĩa Mác sẽ còn đúng cả ở đó (Sđd,
t.1, tr.465). Nếu phân hoá giai cấp đã trở nên rõ rệt và đối kháng giai cấp từ
sự phân hóa ấy là sâu sắc và gay gắt ở phương Tây trong nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa, thì ở phương Đông và Việt Nam lại không hẳn là như vậy. ở đây, nổi bật
lên mâu thuẫn dân tộc và xã hội với chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân từ bên
ngoài xâm lược vào chứ không phải là mâu thuẫn giai cấp. Do đó, nếu giải phóng
giai cấp và đấu tranh giai cấp như một đặc trưng nổi bật và là một đòi hỏi bức xúc
ở phương Tây tư bản chủ nghĩa, thì ở phương Đông, trong đó có Việt Nam lại nổi
lên đặc trưng khác, đó là giải phóng dân tộc, là giải quyết mâu thuẫn dân tộc
với chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân xâm lược để giành độc lập, xóa bỏ tình
trạng thuộc địa và phụ thuộc dưới ách đô hộ, thống trị của thực dân.
Đó là lý do giải thích vì sao Người chủ trương
đoàn kết tất cả các giai cấp trong dân tộc để tạo ra sức mạnh giải phóng. Trong
khi tin tưởng chắc chắn rằng, lý luận của chủ nghĩa Mác là đúng đắn không chỉ ở
phương Tây mà còn ở phương Đông, Người còn có dự báo đầy mẫn cảm rằng, chủ
nghĩa cộng sản dễ áp dụng và cách mạng cộng sản chủ nghĩa dễ thành công hơn
chính trong thực tiễn phương Đông, châu Á và Việt Nam. Một trong những cơ sở
luận chứng cho giả thuyết đó là sức đoàn kết dân tộc, truyền thống cộng đồng đã
tỏ ra rất gần gũi với bản chất của chủ nghĩa cộng sản.
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh còn nêu ra một luận
điểm rất khoa học và sáng tạo, tỏ rõ chính kiến độc lập đầy bản lĩnh của Người.
Đó là, muốn áp dụng chủ nghĩa Mác, áp dụng lý thuyết cộng sản của Mác vào
phương Đông và Việt Nam
thì phải “xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng
dân tộc học phương Đông. Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử”
của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình
không thể có được” (Sđd, t.1, tr.465). Người cũng xác định rằng, nhiệm vụ ấy
đang đặt ra về mặt lý luận mà những người cộng sản phải đáp ứng.
Những luận điểm nêu trên được Nguyễn Ái Quốc nói rõ
vào năm 1924, đủ thấy tư chất và bản lĩnh sáng tạo của người cộng sản trẻ tuổi
với sức bay của tư duy và tư tưởng vượt trước thời đại như thế nào. Sau này,
Người còn có nhiều luận điểm sáng tạo khác đối với việc nhận thức bản chất khoa
học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Có thể nêu một vài thí dụ tiêu
biểu. Người nhìn nhận chủ nghĩa Mác - Lênin trong dòng chảy của sự tiến hoá tư
tưởng, biết thâu thái tất cả những gì tiến bộ, ưu tú, tinh hoa của tư tưởng,
văn hóa nhân loại để vừa hiểu rõ sự phong phú của tư tưởng, văn hoá nhân loại,
vừa thấy sự phát triển nhảy vọt của những tư tưởng mácxít vốn không tách rời,
không ở bên ngoài mà ở trong tổng số và tổng hợp của toàn bộ những giá trị tinh
hoa đó. Chẳng thế mà, trong khi tin và đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin, Người vẫn
rất trân trọng tư tưởng từ bi, bác ái của đạo Phật, khoan dung văn hoá cao cả
của chúa Giêsu, tinh thần thực tiễn trong Tam dân chủ nghĩa của Tôn Trung Sơn.
Với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ là khoa học và cách mạng, mà còn
là đạo đức và văn hóa. Người đã từng chỉ rõ, đọc hàng trăm, hàng nghìn quyển
sách Mác - Lênin mà ăn ở với nhau không có tình có nghĩa thì làm sao gọi là Mác
- Lênin được. Người cũng là nhà tư tưởng mácxít nổi bật nhất khi tiếp cận chủ
nghĩa xã hội, tiếp cận nền chính trị của giai cấp công nhân và bản chất của
đảng cộng sản từ góc độ đạo đức học và văn hoá đạo đức. Người nói, chủ nghĩa xã
hội đối lập với chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng xã hội chủ nghĩa đối lập với tư
tưởng cá nhân chủ nghĩa, chính trị cốt ở đoàn kết và thanh khiết, Đảng là đạo
đức, là văn minh.
Chân lý - một vấn đề của nhận thức luận khoa học -
được Hồ Chí Minh mở rộng sang bình diện đạo đức học. Cái gì tốt cho dân, có lợi
cho dân, cái đó là chân lý. Phục vụ nhân dân, làm công bộc trung thành và tận
tụy của dân là phục tùng chân lý cao nhất, là lựa chọn một lẽ sống cao thượng
nhất.
Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đặc biệt chú
trọng yêu cầu sáng tạo, không máy móc rập khuôn, muốn vậy phải hiểu rõ đặc
điểm, hoàn cảnh và những điều kiện lịch sử cụ thể. Người căn dặn chúng ta phải
chú ý học tập kinh nghiệm của Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em, nhưng
không được sao chép mà phải có tinh thần độc lập tự chủ. Người nói rõ, ta và
Liên Xô rất khác nhau về trình độ phát triển, về lịch sử và văn hoá. Trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm khác với Liên Xô vẫn là người mácxít.
Nhận thức đúng đắn và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào hoàn cảnh, điều kiện lịch sử đặc thù của Việt Nam là điểm
xuất phát về lý luận và thực tiễn, về ý thức hệ của Hồ Chí Minh. Đó chẳng những
là cơ sở để có những phát kiến sáng tạo, những cống hiến của Hồ Chí Minh về tư
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, mà còn là sự cống hiến đặc sắc của
Người, góp phần làm phong phú chủ nghĩa Mác - Lênin và kho tàng lý luận cách
mạng thế giới.
Hai là,
vạch trần bản chất của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, thực dân và nêu lên
tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa phải phối hợp chặt chẽ với
cách mạng vô sản ở chính quốc. Nguyễn Ái Quốc là người đã viết tác phẩm lý luận
mácxít Bản án chế độ thực dân Pháp rất nổi tiếng vào năm 1925. Tác phẩm này là
một tổng kết lịch sử, một cáo trạng đối với chủ nghĩa thực dân, để sau đó 20
năm, vào năm 1945, Người viết nên Tuyên ngôn độc lập, khai sinh chế độ dân chủ
cộng hoà của nước Việt Nam độc lập, đồng thời là cáo chung chế độ thực dân ở
Việt Nam sau hơn 80 năm tồn tại của nó.
Người phân tích: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa
có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào
giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta
phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi
kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái
vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra” (Sđd, t.1, tr.298). Cách mạng phải có sự phối hợp
ở cả chính quốc và thuộc địa, giống như một con chim hai cánh, một cánh vỗ ở
thuộc địa, một cánh vỗ ở chính quốc. Sự diễn đạt cụ thể và giản dị trên đây đã
hàm chứa tư tưởng về tính triệt để của cách mạng chống chủ nghĩa tư bản, thực
dân và tính tất yếu của sự phối hợp các phong trào cách mạng vì mục tiêu giải
phóng ở các nước thuộc địa, phụ thuộc và ở các nước tư bản chủ nghĩa. Đó là
biểu hiện lập trường cách mạng triệt để và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công
nhân trên toàn thế giới.
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nhận rõ, đối với
những người lao động và vô sản ở khắp mọi nơi, dù màu da có khác nhau nhưng họ
đều có chung một kẻ thù và cũng có chung một mục tiêu tranh đấu. Đế quốc thực
dân ở đâu đâu cũng là ác quỷ, phải đánh đổ nó đi. Còn anh em vô sản ở đâu đâu
cũng là bạn bè, anh em, đồng chí của nhau. Trên đời này, suy đến cùng, cũng chỉ
có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ
có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản (Sđd, t.1, tr.266).
Người đề cập tới tình hình Đông Dương và những cơ
sở cho sự chín muồi cách mạng ở đó. Đó vừa là những khẳng định khoa học, vừa là
những dự báo chính trị mẫn cảm. Người viết: “người Đông Dương không chết, người
Đông Dương vẫn sống, sống mãi mãi. Sự đầu độc có hệ thống của bọn tư bản thực
dân không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng cách
mạng của người Đông Dương. Luồng gió từ nước Nga thợ thuyền, từ Trung Quốc cách
mạng hoặc từ ấn Độ chiến đấu đang thổi đến giải độc cho người Đông Dương” (Sđd,
t.1, tr.28). Theo đánh giá của Người, “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người
Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách
ghê gớm, khi thời cơ đến. Bộ phận ưu tú có nhiệm vụ phải thúc đẩy cho thời cơ
đó mau đến. Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi. Chủ nghĩa xã
hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa
thôi” (Sđd, t.1, tr.28). Cho đến khi, Luận cương của Lênin được Người hấp thụ
như tìm thấy cẩm nang đi đường, Người đã xác định rõ ràng con đường giải phóng
dân tộc là con đường cách mạng vô sản.
Ba là,
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã giải quyết thành công mối quan hệ giữa dân tộc
với giai cấp, giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp trên lập trường
giai cấp công nhân. Trong những năm 20 - 30 của thế kỷ XX, không phải tất cả
những người cách mạng và yêu nước, dù đứng trên lập trường cộng sản, đã ý thức đầy
đủ và thật sự quan tâm tới vận động cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc
địa. Song, đây lại là vấn đề cốt tử mà Nguyễn Ái Quốc đặc biệt chú ý, từ khi
tham gia hoạt động trong Đảng Cộng sản Pháp. Người đã thẳng thắn phê phán thái
độ thờ ơ hoặc lãng quên phong trào cách mạng ở thuộc địa và đòi hỏi Đảng Cộng
sản phải xác định rõ trách nhiệm của Đảng đối với việc thúc đẩy và phối hợp
hành động với các phong trào cách mạng ở thuộc địa. Người đã sớm đi đến một kết
luận quan trọng: sự nghiệp giải phóng dân tộc phải đồng thời gắn liền với sự
nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và giải phóng xã hội; cả hai cuộc giải
phóng đó đều là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, là sự nghiệp của chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Các
bản tham luận nổi tiếng của Người tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản (17/6 đến 8/7
năm 1924) đã chứng tỏ điều đó.
Những
luận điểm sau đây cho thấy tính hệ thống và sự nhất quán của Hồ Chí Minh về vấn
đề độc lập dân tộc và cách mạng vô sản: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì
mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp
của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới” (Sđd, t.1, tr.416). “Chỉ có chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và
giai cấp công nhân trên thế giới”, “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không
có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” (Sđd, t.9, tr.314).
Cái
mới và bản lĩnh sáng tạo của Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc và cách mạng
vô sản là ở chỗ:
-
Không tách rời giai cấp khỏi dân tộc.
-
Giải phóng dân tộc trên lập trường giai cấp công nhân, trên nền tảng ý thức hệ
của giai cấp công nhân nên cách mạng giải phóng dân tộc với mục tiêu giành độc
lập dân tộc phải do giai cấp công nhân và đội tiên phong của nó là Đảng Cộng
sản lãnh đạo. Cũng do đó, con đường tiến lên của dân tộc và của xã hội Việt Nam
chỉ có thể là con đường xã hội chủ nghĩa, gắn liền độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội bằng cách quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa.
Thực
tiễn khẳng định, tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng và phát triển đã mở ra con
đường phát triển tốt đẹp nhất cho dân tộc Việt Nam : Độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã đặt nền móng lý luận cho cách mạng Việt Nam
trong thời đại mới, đã tìm thấy con đường phát triển đúng đắn, hợp lý, có triển
vọng nhất, phù hợp với trào lưu tiến hoá chung của nhân loại và xu thế phát
triển của thời đại.
Bốn là, nhờ có lý luận và phương pháp cách mạng
đúng đắn, Hồ Chí Minh đã cùng với Đảng lãnh đạo nhân dân và dân tộc ta đánh bại
chủ nghĩa thực dân kiểu cũ và mới, đưa dân tộc ta vào hàng ngũ các dân tộc tiên
phong của thế giới, xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với hoàn cảnh và điều
kiện của nước ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội cũng có những nét
sáng tạo đặc sắc, có giá trị và ý nghĩa hiện đại, không chỉ với nước ta mà còn
đối với các nước xã hội chủ nghĩa khác trong loại hình “phát triển rút ngắn” và
“quá độ gián tiếp”, do bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, thực hiện từng bước từ
dân chủ nhân dân tới chủ nghĩa xã hội.
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh có cả một hệ vấn
đề lý luận về chủ nghĩa xã hội, từ đặc trưng, bản chất, mục tiêu, con đường,
phương thức, mô hình và bước đi cũng như những giải pháp xây dựng chủ nghĩa xã
hội trong sự kết hợp giữa tính phổ biến với tính đặc thù, tính giai cấp - dân
tộc - nhân dân với tính thời đại và tính nhân loại trong thế giới đương đại
ngày nay.
Hồ Chí Minh đã phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội
khoa học bằng cách bổ sung một cách tiếp cận đạo đức học cũng đồng thời là một
quan niệm cụ thể về chủ nghĩa xã hội. Người đã dự cảm từ rất sớm một vấn đề mà
ngày nay ta càng thấy rõ tính hệ trọng đối với sự phát triển của chủ nghĩa xã
hội: Không đánh bại chủ nghĩa cá nhân thì không thể xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội (Sđd, t.9, tr.291).
Cũng như vậy, không đảm bảo thực hành dân chủ rộng
rãi thì không thể chống được quan liêu, lãng phí, tham ô, tham nhũng. Rõ ràng,
chủ nghĩa xã hội là đối lập với chủ nghĩa cá nhân. Thành bại của chủ nghĩa xã
hội tùy thuộc vào chỗ, những người xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là đội ngũ
tiên phong có đủ dũng khí và quyết tâm để đánh thắng thứ “giặc nội xâm” mà
Người coi là kẻ thù nguy hiểm nhất hay không? Do đó, chủ nghĩa xã hội không chỉ
là kinh tế - một nền kinh tế phồn vinh, giàu có, một thể chế chính trị dân chủ
- pháp quyền, đảm bảo quyền làm chủ thực chất của nhân dân, một xã hội công
bằng, bình đẳng cho sự phát triển hài hoà cá nhân và cộng đồng, mà còn là một
nền tảng đạo đức trong sạch, thấm sâu vào các quan hệ xã hội lành mạnh, một hệ giá
trị văn hoá nhân bản, nhân đạo và nhân văn, kết hợp được truyền thống, bản sắc
dân tộc với những tinh hoa của thời đại vì độc lập - tự do - hạnh phúc cho mọi
con người, mọi dân tộc.
Sự sâu sắc và tinh tế văn hóa, đặc biệt là văn hóa
đạo đức của Hồ Chí Minh là ở chỗ, Người đem vào tiến trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội một nhiệm vụ chiến lược - “trồng người”, đào tạo, giáo dục, rèn luyện
cán bộ, coi đó là công việc gốc của Đảng; và thực hành đạo đức cách mạng được
Người quan tâm suốt đời như một chiến lược, cả tư tưởng lẫn hành động. Chiến
lược đó là cốt lõi của chiến lược con người, chiến lược xây dựng, phát triển,
đồng thời là chiến lược bảo vệ chủ nghĩa xã hội, làm cho cách mạng, Đảng cách
mạng, người cách mạng, có sức mạnh tự bảo vệ. Điều đó cho thấy, tư duy chiến
lược của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở tầm thời đại và hiện đại như thế
nào, nhất là đem tư tưởng của Người soi rọi vào tình hình hiện nay cũng như
trước những đòi hỏi mới của thời đại, trong xu thế toàn cầu hoá và trong bối
cảnh hội nhập.
Người chỉ rõ, bản chất sâu xa và tính ưu việt nổi
bật của chủ nghĩa xã hội là thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Người khẳng định, không gì quý bằng dân, không gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết
của nhân dân, và dân chủ là quý báu nhất trên đời của dân. Là chủ thể gốc của
mọi quyền lực, nhân dân phải là chủ sở hữu đích thực của dân chủ, phải là chủ
xã hội, chủ nhà nước, kiểm soát được nhà nước của mình và xã hội phải là một xã
hội dân chủ. Người còn nhấn mạnh, thực hành dân chủ rộng rãi sẽ là chiếc chìa
khoá vạn năng để giải quyết mọi khó khăn. Vậy là, Người đã thấy vai trò động
lực của dân chủ đối với tiến bộ và phát triển, đối với chủ nghĩa xã hội.
Lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh
thấm nhuần sâu sắc không chỉ khoa học, cách mạng mà còn là đạo đức, là văn hoá,
tức là nhân văn. Người từng nói, chủ nghĩa xã hội cộng với khoa học sẽ là nguồn
sức mạnh vô tận, chắc chắn sẽ đưa loài người đến hạnh phúc vô tận (Sđd, t.9,
tr.131). Phải xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa sao cho đời sống vật chất ngày
càng tăng, đời sống tinh thần ngày càng tốt, xã hội ngày càng văn minh, tiến
bộ. Tất cả đều nhằm vào hạnh phúc của nhân dân. Dân chỉ biết đến dân chủ khi
dân được ăn no, mặc ấm. Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân vẫn cứ
chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì (Sđd, t.4, tr.152).
Mấu chốt của xây dựng chủ nghĩa xã hội, theo Hồ
Chí Minh là phải dựa vào dân, đem tài dân, sức dân để làm lợi cho dân, để mưu
cầu hạnh phúc cho dân. Việc gì có lợi cho dân phải quyết làm cho bằng được.
Việc gì có hại tới dân phải quyết tránh cho bằng được. Quyền làm chủ của dân,
hạnh phúc của dân, sự phát triển tự do, dân chủ, công bằng trong xã hội - đó là
những giá trị đảm bảo cho chế độ phát triển bền vững và chủ nghĩa xã hội thực
sự là một xã hội văn hoá cao, trong đó, con người là con người xã hội chủ
nghĩa, nhân dân là chủ và làm chủ, dân tộc trở thành một dân tộc thông thái.
Chủ nghĩa xã hội nhân dân và nhân văn trong chiều sâu triết lý nhân văn chủ
nghĩa của Hồ Chí Minh là ở đó. Trong những tư tưởng hàm xúc đó đã toát lên đầy
đủ những vấn đề cốt yếu về mục tiêu, bản chất, động lực, cách làm và bước đi
của chủ nghĩa xã hội. Đó là chủ nghĩa xã hội Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó
cũng là một trong những cống hiến sáng tạo nổi bật của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa
xã hội.
Năm là, tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện một
quan hệ biện chứng, thấm nhuần sâu sắc quan điểm thực tiễn - phát triển và đổi
mới. Những luận giải cô đọng, hàm xúc của Hồ Chí Minh cho thấy, độc lập dân tộc
là tiền đề, là điều kiện của chủ nghĩa xã hội, đó là nền tảng chính trị, là cơ
sở dân tộc và chủ quyền nhân dân của chủ nghĩa xã hội. Theo đó, chủ nghĩa xã
hội sinh thành, phát triển và hoàn thiện là đảm bảo thực chất, đầy đủ và bền
vững nhất của độc lập dân tộc. Đó cũng là thước đo dân chủ và tự do của phát
triển xã hội, một xã hội văn minh, hiện đại mà lịch sử tìm thấy sự biểu hiện
tốt nhất ở chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội, đó cũng chính là cách thức tổ
chức xã hội tốt nhất để làm cho Tổ quốc, đất nước, quốc gia - dân tộc trường
tồn, con người cá nhân và cộng đồng xã hội được phát triển tự do, toàn diện mọi
khả năng sáng tạo, được thụ hưởng hạnh phúc vật chất, tinh thần trong một môi
trường lành mạnh, tốt đẹp nhất. Đó cũng chính là hàm ý sâu xa trong một chân lý
lớn mà Hồ Chí Minh nêu ra: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Giá trị ấy cũng
chính là chủ nghĩa xã hội, một chủ nghĩa xã hội phát triển thông qua đổi mới,
sáng tạo và hiện đại hóa.
GS.TS Tô Huy Rứa
Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư
TW Đảng,
Trưởng ban Tuyên giáo TW,
Chủ tịch Hội đồng Lý luận TW