Những năm Ngọ trong cuộc đời Bác Hồ

Năm Ngọ đã để lại những dấu son chói lọi trong cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi đầy gian khổ, hy sinh, vô cùng oanh liệt, sáng ngời nhân cách và tài năng của một vĩ nhân, đồng thời đã để lại những dấu mốc quan trọng trong sự phát triển của cả dân tộc.

Năm Giáp Ngọ 1894. Nguyễn Sinh Cung mới 4 tuổi, khi ông thân sinh - Nguyễn Sinh Sắc, còn gọi là Nguyễn Sinh Huy - đậu cử nhân, khoa thi Giáp Ngọ năm Thành Thái thứ 6 tại trường thi Nghệ An.

Năm Bính Ngọ 1906. Nguyễn Sinh Cung 16 tuổi, mang tên Nguyễn Tất Thành, cùng anh là Nguyễn Tất Đạt theo cha vào Huế trong dịp ông Nguyễn Sinh Sắc đến kinh đô nhậm chức. Tháng 9, Nguyễn Tất Thành vào học lớp sơ đẳng Trường tiểu học Đông Ba (Huế).

Năm Mậu Ngọ 1918. Từ nước Anh trở về Pháp khoảng cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành đã trưởng thành như một nhà hoạt động chính trị, có chính kiến của mình so với những nhà yêu nước Việt Nam đương thời. Mật thám Pháp theo dõi gắt gao mọi hoạt động của anh. Bộ thuộc địa Pháp đã gấp rút cử một nhân viên điều tra “về con người bí ẩn, một nhân vật mới xuất hiện trên chính trường Pa-ri”. Theo bà Sophie Quinn-Judge (giáo sư đại học LSE London) viết trong cuốn “Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến” thì cảnh sát Pháp đã có những báo cáo về người thanh niên mang tên Nguyễn Ái Quốc bí ẩn “như là một người trí thức và có kinh nghiệm xã hội bên cạnh hai ông họ Phan. Pierre Guesde, chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương căn cứ vào các báo cáo từ các điệp viên của ông ta đã cho thấy Quốc thực sự là một nhà hoạt động chính trị, một người tích cực đấu tranh cho quyền con người ở Việt Nam, một nhà hoạt động chính trị tâm huyết…”. Bà Sophie Quinn-Judge cho rằng cần căn cứ vào “nhiều nguồn tài liệu cung cấp của Phòng nhì Pháp để có một bức tranh khách quan về con người mà sau này là Hồ Chí Minh tại thời điểm mới đến Pa-ri, sau đó lần ngược trở lại những năm tháng trước, từ khi anh rời Việt Nam năm 1911 đến khi anh xuất hiện dưới cái tên Nguyễn Ái Quốc. Sau khi cân nhắc các bằng chứng, chúng tôi cho rằng cho tới thời điểm 1918-1919, ông Hồ đã là một nhà hoạt động chính trị có kinh nghiệm, và ông đã tích cực trong khoảng thời gian đó chuẩn bị cho vai trò của mình sau này trong công cuộc giải phóng dân tộc thoát khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp”(1).

Năm Canh Ngọ 1930. Sau 29 năm bôn ba tìm đường cứu nước, Người trở về với tên Nguyễn Ái Quốc, Ủy viên Bộ phương Đông, phụ trách Cục phương Nam của Quốc tế Cộng sản, ngày 3-2-1930 đã triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam thành lập một Đảng thống nhất.

Các văn kiện Hội nghị hợp nhất của Đảng (Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt) do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo được Hội nghị hợp nhất nhất trí đã ghi đậm dấu ấn của nhà chính trị lỗi lạc Nguyễn Ái Quốc. Các văn kiện đó thể hiện độc lập về tư duy lý luận, thấu hiểu tình hình thực tiễn của đất nước, tầm nhìn chiến lược và sự sáng suốt của các quyết sách chính trị, khả năng vượt trội trong phân tích các mâu thuẫn xã hội, giải quyết tài tình mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, giữa mục tiêu lý tưởng lâu dài và những mục tiêu cụ thể. Do đó có thể phân hóa, tranh thủ được các lực lượng trung lập, cô lập được kẻ thù chủ yếu, tập hợp lực lượng cách mạng, đoàn kết toàn dân tộc giành độc lập, tự do. Thực tiễn đã chứng minh và khẳng định đó chính là Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, một văn kiện chính trị, là ngọn cờ tập hợp toàn dân tộc trong suốt quá trình đấu tranh phản đế, phản phong, giành và giữ vững chính quyền, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.

Lịch sử bao giờ cũng có những bước thăng trầm, chân lý lớn thường phải qua thời gian kiểm chứng với những thử thách ngặt nghèo. Lịch sử Đảng và lịch sử hiện đại của dân tộc sẽ mãi mãi ghi nhận mùa xuân năm Canh Ngọ (1930) mở đầu bằng những văn kiện của Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam mang đậm dấu ấn của thiên tài Hồ Chí Minh, là mùa xuân khởi đầu cho một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên Việt Nam độc lập, thống nhất, tự do, dân chủ, cộng hòa; cho một thời đại mới: Thời đại Hồ Chí Minh.

Năm Nhâm Ngọ 1942. Mở đầu năm này, Nguyễn Ái Quốc có thơ chúc tết trên báo Việt Nam độc lập, tờ báo do Người sáng lập nhằm tuyên truyền cổ động toàn dân đoàn kết đứng lên đánh đuổi kẻ thù, giành độc lập, tự do cho xứ sở. Có lẽ đây là bài thơ chúc tết đầu tiên của Người, mở đầu một truyền thống văn hóa đẹp, giàu bản sắc Việt Nam - giờ phút thiêng liêng đón năm mới toàn dân náo nức nghe thơ chúc tết của Bác Hồ:

“Tháng ngày thấm thoát chóng như thoi,

Năm cũ qua rồi, chúc năm mới:

Chúc phe xâm lược sẽ diệt vong!

Chúc phe dân chủ sẽ thắng lợi;

Chúc đồng bào ta đoàn kết mau!

Chúc Việt Minh ta càng tấn tới!

Chúc toàn quốc ta trong năm này,

Cờ đỏ sao vàng bay phất phới!...”(2).

Nhằm thức tỉnh tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã viết bài khuyên mọi người Việt Nam nên học lịch sử dân tộc: “Dân ta phải biết sử ta/ Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Với trí nhớ tuyệt vời, trong điều kiện ở rừng núi, không hề có nguồn tài liệu nào, Nguyễn Ái Quốc đã viết tác phẩm Lịch sử nước ta bằng hình thức văn vần, thể lục bát để dễ nhớ, dễ phổ cập trong nhân dân. Đặc biệt, Người dự báo năm 1945 Việt Nam độc lập. Đây là một trong nhiều sự kiện chứng tỏ khả năng dự báo chính trị tài tình của Nguyễn Ái Quốc.

Trong năm này, Nguyễn Ái Quốc tập trung sức lực vào việc tuyên truyền, cổ động, xây dựng các đoàn thể chính trị - xã hội của các tầng lớp nhân dân, xây dựng căn cứ cách mạng để chờ thời cơ nổi dậy giành chính quyền.

Ngày 18-3-1942, với tên mới Hồ Chí Minh, Nguyễn Ái Quốc lên đường đi Trung Quốc để liên lạc với các lực lượng cách mạng của người Việt Nam và lực lượng Đồng Minh. Nhưng ngày 27-8-1942, Hồ Chí Minh bị Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch bắt, áp giải đi giam ở nhiều nhà tù tại tỉnh Quảng Tây. Trong lao tù khổ sai, Hồ Chí Minh tức cảnh viết những dòng thơ cho khuây khỏa: “Ngâm thơ ta vốn không ham/ Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây/ Ngày dài ngâm ngợi cho khuây/ Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do”(3), không ngờ lại tạo thành tập thơ “Nhật ký trong tù” - một thi phẩm sánh ngang những tên tuổi bất hủ của Đường thi, Tống thi như nhận xét của Quách Mạt Nhược, đại văn hào Trung Quốc.

Năm Giáp Ngọ 1954. Năm này, đất nước ta có nhiều sự kiện quan trọng. Cuộc kháng chiến và kiến thiết đất nước bước sang một thời kỳ mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh có những chỉ dẫn tới nay vẫn mang giá trị kinh điển.

Đầu năm, chủ trì cuộc họp Bộ Chính trị, chỉ định cơ quan lãnh đạo và chỉ huy chiến dịch, điều động lực lượng lên Tây Bắc, khi trao nhiệm vụ cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Người nói: “Trao cho chú toàn quyền quyết định. Trận này quan trọng, phải đánh cho thắng! Chắc thắng mới đánh, không thắng không đánh”(4). Một câu nói thể hiện tầm nhìn chiến lược của lãnh tụ về nhiều vấn đề: xác định nhiệm vụ chính trị; nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách; chọn cán bộ và tin dùng cán bộ. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã đồng thời thể hiện phẩm chất của hai thiên tài: Nhà chiến lược, lãnh tụ chính trị vĩ đại Hồ Chí Minh và vị tướng cầm quân Võ Nguyên Giáp.

Giữa năm, khi chủ trì phiên họp Hội đồng Chính phủ, nói về phương thức làm việc, Người chỉ rõ: Trong khi tiến hành công tác phải có sự “phân công rành mạch” nhưng lại phải có “phối hợp ăn khớp, chỉ đạo chặt chẽ và khéo léo”(5). Khi cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn quân tiên phong về tiếp quản Thủ đô, Người căn dặn: “Ngày xưa các vua Hùng đã có công dựng nước, ngày nay Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”(6).

Cuối năm, khi chủ trì cuộc họp Bộ Chính trị thảo luận đề án khôi phục kinh tế, Người ngợi khen tinh thần hăng hái của cán bộ nhưng phê bình tính “đại khái” của cán bộ các ngành. Để khắc phục tình trạng đó thì phải học, phải đào tạo. Về phương hướng phát triển kinh tế phải độc lập tự chủ, không nên giáo điều bắt chước, “làm trái với Liên Xô cũng là mác-xít”(7).

Năm Bính Ngọ 1966. Đây là năm Ngọ cuối cùng của Bác. Năm này Bác đã 76 tuổi, sức khỏe có phần giảm sút nhưng ý chí đánh đuổi ngoại xâm vẫn kiên cường, sáng suốt và mềm dẻo. Người tuyên bố: “Chính phủ Mỹ gửi quân đội đến đây, bây giờ Mỹ phải đình chỉ xâm lược, như vậy vấn đề sẽ được giải quyết. Mỹ phải cút đi!... Giôn-xơn miệng nói hòa bình nhưng tay lại ký những lệnh điều động quân… Nhân dân chúng tôi phải được yên ổn. Chúng tôi không muốn trở thành người chiến thắng. Chúng tôi muốn Mỹ cút đi!...

Dù Mỹ có tăng thêm quân bao nhiêu cũng không làm gì được chúng tôi. Nhân dân Việt Nam không sợ. Nếu đời chúng tôi không hoàn thành thì con cháu chúng tôi sẽ hoàn thành”(8).

Sau này chúng ta được biết, thời gian này Bác kính yêu của chúng ta đã ngày đêm suy nghĩ, sửa chữa, bổ sung bản Di chúc lịch sử - một bản Di chúc chính trị, như là Cương lĩnh xây dựng đất nước sau ngày thống nhất mà Người để lại cho Đảng, cho dân tộc ta.

-----

(1) Theo bản dịch của Diên Vĩ và Hoài An, Diễn đàn cafevn.org. (2), (3) Hồ Chí Minh, toàn tập, H.1995, tập 3, tr.210, tr.266. (4), (5), (6), (7), (8) Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử, H.1995, tập 5, tr.443, tr.508, tr.533, tr.572; tập 9, tr.358-359.

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất