Bản hùng ca nở hoa giữa ngàn tội ác
Côn Đảo là một quần đảo gồm 16 hòn đảo lớn nhỏ với diện tích 76 km2 nằm ở Đông Nam của Tổ quốc, thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Trong suốt 13 năm thống trị (1862-1975), thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã biến Côn Đảo thành “địa ngục trần gian” khét tiếng, giam cầm đọa đầy hàng ngàn người yêu nước và hàng chục vạn chiến sĩ cách mạng.
Sau gần 40 năm kể từ ngày Côn Đảo giải phóng, quá khứ không thể ngủ yên! Hàng loạt công trình kiến trúc ở Côn Đảo vẫn còn đó như minh chứng một thời kỳ lịch sử đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc.
Nếu Cầu Tàu lịch sử 914 là nơi vùi 914 thân xác chiến sĩ cộng sản và những người yêu nước đã chết vì tai nạn, khổ sai trong quá trình xây cầu dưới bàn tay tàn độc hà khắc của chúa Rác Ty - chế độ thực dân Pháp, thì cầu Ma Thiên Lãnh mới chỉ nghe thôi cũng thấy ghê rợn đã “nuốt” hơn 300 mạng người yêu nước. Còn Trại giam Banh I (trại Phú Hải), Banh II (trại Phú Sơn), Banh III (trại Phú Thọ), Trại Phú Phong, Phú Bình là nơi giam cùm, tra tấn dã man hàng vạn chiến sĩ cộng sản. Địa điểm nổi tiếng ghê rợn nhất trong khu nhà tù này là “chuồng cọp” thời Pháp được xây dựng từ năm 1940. Với diện tích các phòng giam tổng cộng hơn 5.000 m2, được chia thành 120 phòng biệt giam có chắn song sắt phía trên, là nơi dùng để tra tấn các tù nhân với các hình phạt man rợ nhất lịch sử. Trong những phòng giam chật chội này, người tù phải nằm chen chúc chồng lên nhau dưới nền xi măng ẩm thấp. Cái lạnh thấu xương cộng với sự hôi hám dơ bẩn của nhà tù làm cho hàng nghìn chiến sĩ cộng sản và người yêu nước bỏ mạng tại đây bởi những vết thương lở loét, nhiễm trùng. Ngoài hệ thống “chuồng cọp” kiểu Pháp và Mỹ, Côn Đảo còn là nơi nổi tiếng để tra tấn tù nhân có tên gọi là “chuồng bò” được Pháp xây dựng năm 1930. Thực chất đây là hầm chứa phân bò. Độ sâu của hầm khoảng 3 mét, chứa đầy phân và nước rửa chuồng bò. Những người tù cộng sản bị thực dân Pháp và Mỹ dìm, ngâm người trong chuồng bò. Đây là kiểu tra tấn cực kỳ dã man, chưa từng có trên thế giới. Chính sự tàn độc, man rợ của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, 20.000 chiến sĩ cộng sản và người yêu nước đã nằm xuống trong lòng đất mẹ. Khi chiến tranh kết thúc, xương cốt của các anh, các chị được quy tập tại nghĩa trang Hàng Dương - điểm đến đầu tiên của du khách khi đặt chân xuống Côn Đảo.
Như một lẽ thiêng liêng tự nhiên, ai đến Côn Đảo lần đầu hay nhiều lần khác nữa, việc đầu tiên là đến nghĩa trang Hàng Dương thắp nén hương tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ. Có một điều đặc biệt, khi đến viếng nghĩa trang Hàng Dương, du khách thường viếng khi trời tối hoặc về khuya, vì đó là lúc đất trời giao hòa, là sự quyện hòa giao linh giữa người đang sống và người đã khuất. Đó như một điều linh thiêng được truyền từ năm này qua năm khác, từ thế hệ này đến thế hệ khác. Giữa màn đêm tĩnh mịch mờ sương, hàng ngàn ngọn nến hồng lung linh quyện với mùi hương trầm ngan ngát. Chúng tôi viếng nghĩa trang trong sự thành kính nghiêm trang. Không một tiếng động, chỉ có tiếng nấc nghẹn ngào, xúc động, xót thương cho các anh linh liệt sĩ đang nằm chôn chặt dưới những nấm mộ sâu.
Trước mộ nữ anh hùng Võ Thị Sáu, chúng tôi nghiêng mình kính cẩn trước anh linh của người con gái Đất Đỏ đã hiến dâng tuổi thanh xuân của mình cho lý tưởng cách mạng. Khi rơi vào tay giặc, chị đã hiên ngang trước họng súng quân thù không hề khuất phục. Chị dõng dạc tuyên bố “Tôi không có tội. Yêu đất nước mình, chống lại thực dân xâm lược không phải là một tội”. Ngày 23-1-1952, chị bị thực dân Pháp tử hình tại Côn Đảo. Sự hi sinh của chị đã trở thành huyền thoại bất tử, làm rung động bao con tim, đến cả người lính dương lê già thủa ấy cũng phải thảng thốt: “Cô ấy bình thản đến lạ lùng, yêu đời ngay đến phút chết, dũng khí, tỏ ra gan dạ cả khi ngã xuống rồi, đó mới chính là người anh hùng. Cô ấy tin vào chính nghĩa của dân tộc mình. Còn chúng tôi thì chỉ biết bắn giết”.
Chẳng ai bảo ai, nhưng bàn chân tất cả đều nhẹ nhõm, vì dưới mỗi tấc đất, dưới mỗi bước chân là xương cốt của những người cộng sản, những người cha, người chú, người anh... của chúng ta. Giữa Hàng Dương bạt ngàn sương khói, lời thơ “Núi Côn Lôn được pha bằng máu/ Đất Côn Lôn năm, sáu lớp xương người/ Mỗi bước chân che lấp một cuộc đời/ Mỗi tảng đá là một trời đau khổ” văng vẳng đâu đó như nhắc nhở thế hệ chúng tôi đời đời tri ân và biết ơn những người ngã xuống.
|
Thiên nhiên Côn Đảo.
|
Côn Đảo ngày mới
Đến Côn Đảo hôm nay, cảm nhận đầu tiên của mỗi người là cuộc sống thanh bình. Nước biển xanh ngăn ngắt, không khí trong lành, những bãi cát trắng mịn trải dài bất tận, màu xanh ngút ngàn của rừng, núi làm cho mỗi người quên hết mọi ưu tư, phiền muộn, nhọc nhằn.
Lòng chợt bình yên đến lạ lùng khi dạo bước dưới hàng cây cổ thụ, lang thang dọc theo bờ tường đá rêu phong, men theo con đường trải nhựa thênh thang, uốn lượn dọc theo bờ biển hay ung dung trên bãi đá lộng gió phía Cầu tàu 914 lịch sử. Tôi tự hỏi: Thiên đường du lịch hay “địa ngục trần gian”? Câu trả lời cho sự khám phá của khách du lịch: Hôm qua là “địa ngục trần gian”, hôm nay là “thiên đường du lịch”.
Đến Côn Đảo hôm nay, du khách còn được nếm thử hạt bàng sấy khô - một đặc sản nổi tiếng của đảo. Người dân địa phương tách trái bàng khô lấy nhân, đem rang với muối hoặc đường đóng gói rồi bán cho du khách. Khác với nơi mua bán sầm uất, bon chen ở đất liền, chợ
Côn Đảo thanh bình đến lạ kỳ. Người mua không trả giá, người bán không
nói thách. Đến chợ Côn Đảo ngoài mua những sản phẩm đặc sản, còn để thư
thái tâm hồn, được tiếp xúc với người dân bản xứ chân chất thật thà giàu
lòng nhân ái.
Không thể không lặn dưới mặt biển để ngắm rặng san hô lấp lánh đủ sắc màu dưới đáy đại dương hoặc xem rùa đẻ trứng khi hoàng hôn buông xuống, hoặc leo núi, xuyên rừng xem khỉ ra chặn đường và những cặp chim ưng hót vang dậy cả một vùng rừng núi. Chị Nguyễn Thị Thu Ba - một nông dân ở đây cho biết “Để xe máy dọc đường hôm nay, tuần sau vẫn còn nguyên vẹn. Ở đây chẳng bao giờ có tai nạn hay ùn tắc giao thông, đường xá lúc nào cũng vắng lặng. Cuộc sống của người dân Côn Đảo cũng yên bình không gấp gáp như ở đất liền”.