“Thần tốc” giải phóng biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc
Bộ đội giải phóng và làm chủ đảo Song Tử Tây

Biển, đảo Việt Nam là một phần máu thịt thiêng liêng của Tổ quốc. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn Bộ đội Hải quân nhân dân Việt Nam: “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”. Ngay sau chiến thắng Buôn Ma Thuột, ngày 31-3-1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp quyết định mở trận quyết chiến chiến lược cuối cùng nhằm tiêu diệt toàn bộ lực lượng địch còn lại, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thu non sông đất nước về một mối. Quán triệt chủ trương của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương tham mưu với Bộ Chính trị Trung ương Đảng: Vừa chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, vừa tiến hành giải phóng các đảo và quần đảo quân ngụy đang chiếm giữ. Kiến nghị này đã được ghi vào Nghị quyết Bộ Chính trị ngày 25-3-1975. Đây chính là “sự kiện đặc biệt đã diễn ra ngoài kế hoạch chiến lược ban đầu”. 17 giờ 30 phút ngày 4-4-1975, bức “Mật lệnh” số 990B/TK của Đại tướng Võ Nguyên Giáp được cấp tốc chuyển tới Chính ủy và Tư lệnh Quân khu 5 với nội dung “Nghiên cứu và chỉ đạo thực hiện gấp rút, nhằm thời cơ thuận lợi nhanh nhất, đánh chiếm các đảo do quân ngụy miền Nam chiếm đóng thuộc quần đảo Trường Sa”. Đại tướng nhấn mạnh: “Đây là một nhiệm vụ rất quan trọng”[1].


Thực hiện quyết tâm chiến lược trên, cả nước dốc sức cho trận chiến đấu cuối cùng toàn thắng. Trong đó, trọng trách của Hải quân nhân dân Việt Nam rất nặng nề: Vận chuyển bộ đội và phương tiện chiến đấu với số lượng cao nhất, thời gian nhanh nhất, xây dựng lực lượng khẩn trương đáp ứng với yêu cầu chiến đấu giải phóng các đảo và tiếp quản các cơ sở hải quân địch, kiên quyết giải phóng và làm chủ bờ biển đồng thời với việc giải phóng và làm chủ đất liền. 

Trong chiến dịch Huế - Đà Nẵng diễn ra từ ngày 21 đến 29-3-1975, trên địa bàn rộng lớn gồm các tỉnh ven biển miền Trung: Quảng Trị, Thừa Thiên, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi… đã làm tốt nhiệm vụ hiệp đồng tác chiến chiến dịch và thực hiện quyền làm chủ biển, đảo. Tại đây, Quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam đã bố trí lực lượng tàu thuyền chiến đấu tăng cường hoạt động tuần tiễu ở bắc vĩ tuyến 17, sẵn sàng đối phó với những hoạt động của hải quân địch và bảo vệ tuyến vận tải biển Cửa Việt và Đông Hà. Đặc công hoạt động sâu, mạnh ở Huế, đánh sập cầu An Lỗ và đánh chìm hải thuyền địch.

Bị đánh bại trên mặt trận Huế, quân ngụy tan vỡ, bọn lính ngụy thất trận bỏ chạy ra bờ biển tìm đường vào Đà Nẵng, một biên đội thuyền máy của Hải quân Việt Nam được lệnh vượt qua lưới lửa của địch, thả thủy lôi tại cửa biển Thuận An, bịt cửa biển Thuận An, không cho địch ra vào cảng. Sự xuất hiện đúng lúc của lực lượng tàu thuyền Hải quân Việt Nam tại đây đã cùng với các lực lượng chiến đấu trên bộ chặn đứng đường rút chạy của quân địch. Ngày 25-3, hàng vạn tên địch co cụm trên bờ biển Hội An đã bị quân dân ta tiêu diệt và bị bắt làm tù binh.

Ngày 26-3, trong lúc các cánh quân trên bộ của ta hành quân thần tốc, áp sát Đà Nng, Hải quân Việt Nam đã dùng một biên đội thuyền máy chở phân đội đặc công táo bạo vượt qua làn đạn bắn chặn của địch, chọc thẳng vào bán đảo Sơn Trà phối hợp tiến công từ hướng biển. Ngày 27 và 28-3, trước sức tiến công mãnh liệt của pháo binh và Hải quân Việt Nam, lực lượng tàu thuyền chiến đấu của quân nguỵ đầu hàng. Tối 29-3, phân đội đặc công Hải quân ta đã đến cầu Thủy Tú, kịp thời phối hợp với các lực lượng chiến đấu trên bộ giải phóng hoàn toàn Đà Nẵng, tiếp quản bán đảo Sơn Trà và chiếm căn cứ đầu não của vùng 1 duyên hải của Hải quân ngụy. Cùng ngày, lực lượng đặc công đã phối hợp với các lực lượng chiến đấu khác truy lùng quân địch, quản lý căn cứ Đà Nẵng và tham gia giữ gìn trật tự, an ninh vùng vừa giải phóng.

Đà Nẵng hoàn toàn giải phóng, ngày 2-4, biên đội tàu tuần tiểu và phá lôi đầu tiên của Hải quân Việt Nam đóng quân tại cảng Đà Nẵng làm nhiệm vụ cảnh giới, rà phá thủy lôi, mở đường cho các phương tiện tàu thuyền quân sự, quốc doanh chở bộ đội, vận chuyển hàng hóa, vũ khí từ hậu phương miền Bắc vào chiến trường. Hải quân ta đã cơ động Ra-đa từ miền Bắc vào để quản lý vùng biển, đảo mới được giải phóng và chuẩn bị cho các trận đánh tiếp theo.

Đà Nẵng hoàn toàn giải phóng, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chủ trương nắm thời cơ “thần tốc” giải phóng quần đảo Trường Sa - quần đảo chiến lược, vùng lãnh thổ xa nhất của Tổ quốc, nằm cách đất liền 500km. Nếu không giải phóng Trường Sa lúc này, khi tin tức Mỹ rút quân khỏi miền Nam Việt Nam, chính quyền Sài Gòn sắp sụp đổ sẽ làm nhiều nước mưu toan chiếm đóng quần đảo Trường Sa. Mật lệnh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp không chỉ đề ra nhiệm vụ “thần tốc” giải phóng Trường Sa mà còn ngăn chặn mưu đồ chiếm đóng Trường Sa trái phép của nước ngoài kịp thời (Trung Quốc).

Nhiệm vụ này được giao cho Quân chủng Hải quân và Quân khu 5. Vì vậy, ngày 5-4-1975, Bộ Tổng Tư lệnh chỉ thị cho Hải quân: Khẩn trương chuẩn bị chiến đấu giải phóng quần đảo Trường Sa, một quần đảo có ý nghĩa chiến lược về chính trị, quân sự và kinh tế, góp phần giải phóng hoàn toàn đất nước. Nhận được chỉ thị, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Hải quân quyết tâm: Bám sát tình hình, tranh thủ thời cơ có lợi nhất để giải phóng đảo, kiên quyết không để lực lượng nào khác đánh chiếm đảo trước ta; đồng thời lệnh cho Đoàn 125 Vận tải và Đoàn 126 Đặc công chuẩn bị tiến công giải phóng đảo. Tư tưởng mà những người tham gia cuộc tiến công giải phóng Trường Sa nhận được từ vị Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp: Trên mặt trận biển Đông, hành động cũng phải Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng.

Ngày 9-4, trong lúc các cánh quân lớn trên đất liền của ta bắt đầu tiến công mãnh liệt vào thị xã Xuân Lộc, Tân An - tuyến phòng thủ vòng ngoài của Sài Gòn, Bộ Tư lệnh và Sở Chỉ huy tiền phương của Quân chủng Hải quân nhận được lệnh của Quân ủy Trung ương, tiến đánh đảo Song Tử Tây, trận mở màn giải phóng quần đảo Trường Sa.


21 giờ ngày 10-4, các tàu 673, 674, 675 của Trung đoàn 125 được điều động cấp tốc từ Hải Phòng đã cập cảng Đà Nẵng. Tàu vừa cập cảng đã lập tức chuẩn bị nhiệm vụ tiến công. Đội 1 thuộc Trung đoàn 126 Hải quân được giao nhiệm vụ mở đầu chiến dịch giải phóng quần đảo Trường Sa, có sự phối hợp của một lực lượng Đặc công Quân khu 5 khẩn trương cho bộ đội tập kết xuống tàu.


4 giờ ngày 11-4, lực lượng chiến đấu giải phóng đảo Song Tử Tây rời cảng Đà Nẵng ra khơi. 19 giờ ngày 13-4, 3 tàu chở lực lượng chiến đấu đã đến mục tiêu cần tiến đánh đúng thời gian quy định. 19 giờ 10 phút, tàu 673 chở lực lượng chiến đấu tiếp cận đảo, hai tàu 674, 765 vòng ra án ngữ ở phía bắc và nam đảo, sẵn sàng chi viện khi cần thiết. Đúng 2 giờ ngày 14-4, các phân đội chiến đấu của quân ta bí mật đổ bộ đảo Song Tử Tây. Sau hơn 2 giờ vật lộn với dòng nước xoáy, với những đợt sóng lớn và những mỏm san hô lởm chởm vây quanh đảo như tuyến phòng ngự kiên cố, Hải quân Việt Nam đã đổ bộ, bám được mép đảo. 4 giờ 30 phút ngày 14-4, trận đánh của quân ta bắt đầu. Phát đạn ĐKZ là hiệu lệnh hiệp đồng cho toàn đơn vị tiến công. Tiếp theo, hỏa lực của quân ta tới tấp nã vào công sự địch. Bị đánh bất ngờ, bọn địch rất hoang mang, co cụm chống trả yếu ớt. Các chiến sĩ Đội 1 lập tức chia cắt đội hình địch, lần lượt chiếm hết công sự này đến công sự khác... Sau 30 phút chiến đấu dũng cảm, lực lượng quân ta đã làm chủ được trận địa. Địch tháo chạy tán loạn. Vừa chiến đấu, vừa truy lùng và kêu gọi địch đầu hàng, đến 5 giờ 15 phút ngày 14-4, quân ta làm chủ toàn bộ đảo, lá cờ giải phóng được các chiến sĩ Hải quân Việt Nam kéo lên đỉnh cột cờ giữa đảo. Ngay sau đó, Đội 1 đã thiết lập máy vô tuyến điện trên đảo và liên lạc được với Sở Chỉ huy phía trước của Quân chủng.


Song Tử Tây bị mất, hệ thống phòng thủ của địch trên quần đảo Trường Sa bị đe dọa. Địch vội vàng điều tàu tuần dương HQ 16 và tàu đổ bộ cỡ lớn HQ 402 từ Vũng Tàu ra phản kích chiếm lại. Song, trước sự bố phòng chặt chẽ và tinh thần sẵn sàng chiến đấu cao của quân ta, mặt khác, thất bại nặng nề dồn dập của chúng trên khắp các chiến trường, đặc biệt là tuyến phòng Phan Rang của chúng bị quân ta chọc thủng, đã làm cho tinh thần bọn sĩ quan, binh sĩ chi viện hoang mang, dao động, không dám tiến đánh mà cho tàu quay sang tăng cường phòng thủ cho đảo Nam Yết là trung tâm chỉ huy của địch ở quần đảo Trường Sa.


Đảo Song Tử Tây giải phóng, trên các chiến trường, tốc độ tiến quân của ta càng nhanh, càng mạnh, địch bị thất bại liên tiếp. Thừa thắng xốc tới, các lực lượng của Đội 1, Đoàn 126 Đặc công Hải quân và một đơn vị của Quân khu 5 tiếp tục được lệnh tấn công, giải phóng các đảo còn lại: Nam Yết, Sơn Ca, Sinh Tồn, Trường Sa, An Bang còn lại. Rạng sáng 25-4, các mũi tàu của quân ta bám sát đảo Sơn Ca, đổ bộ lên đảo. Đối phương mất thế, chống trả yếu ớt, chưa đầy tiếng đồng hồ, lực lượng ta hoàn toàn làm chủ Sơn Ca, kéo cờ chủ quyền. Tin đảo Sơn Ca bị đánh chiếm nhanh chóng khiến đối phương các đảo còn lại vội vàng xuống các tàu bảo vệ rút chạy khỏi đảo. Đại tá Dược - Người tham gia giải phóng đảo kể lại: Đến các đảo An Bang, Nam Yết, Trường Sa không hề phải nổ một phát súng. Đêm 29-4-1975, trước giải phóng Sài Gòn một ngày, tất cả 5 đảo trên được giải phóng hoàn toàn, đồng thời kết thúc nhiệm vụ chiến đấu đặc biệt quan trọng của Quân ủy Trung ương giao cho Quân chủng Hải quân.

Cũng trong thời gian tiến hành đợt hoạt động chiến đấu giải phóng Trường Sa, lực lượng Hải quân ta đã phối hợp với các lực lượng chiến đấu khác giải phóng cù lao Thu, cù lao Ré, Hòn Tre... và một đảo lớn thuộc tỉnh Ninh Thuận. Ngày 30-4, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương điện cho Bộ Tư lệnh và Đảng ủy mặt trận Sài Gòn chú trọng việc giải phóng và đưa anh em tù chính trị của ta ở Côn Đảo và Phú Quốc trở về.

Ngày 1-5, Trung ương Cục miền Nam và Bộ Chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ cho Hải quân tiến ra giải phóng Côn Đảo. Khi các lực lượng của ta còn đang hành quân trên biển, ở Côn Đảo, các chiến sĩ cách mạng của ta đã nổi dậy diệt địch, giải phóng đảo. Hải quân Việt Nam và các lực lượng chiến đấu khác đã kịp thời chuyển sang làm nhiệm vụ truy bắt bọn tàn quân địch chạy trốn và phối hợp với các chiến sĩ cách mạng xây dựng chính quyền trên đảo.

Ở Phú Quốc, khi nghe tin ngụy quyền Sài Gòn đầu hàng cách mạng, nhân dân trong huyện đã kéo về thị trấn phối hợp với lực lượng vũ trang giải phóng thị trấn và hoàn toàn làm chủ huyện đảo trong ngày 30-4.

Ngày 1-5-1975, quân và dân ta đã giải phóng và làm chủ hầu hết các đảo và vùng biển phía Nam của Tổ quốc. Với thắng lợi này, quân và dân ta không chỉ thu non sông liền một dải mà còn khẳng định chủ quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của Tổ quốc.

Nhắc đến sự kiện giải phóng biển đảo nói chung, Trường Sa nói riêng, Tướng Mai Năng  nhận xét: “Nếu chúng ta đến Trường Sa chậm một vài ngày, thậm chí chỉ chậm một vài giờ khi quân đội Sài Gòn đã rệu rã, choáng váng vì các tin tức thất trận trong đất liền, thì nước ngoài có thể thừa cơ mà chiếm lấy quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của chúng ta. Trong giờ khắc lịch sử ấy, bộ óc thiên tài Võ Nguyên Giáp thật anh minh, sáng suốt nhận định tình hình và kịp thời đưa ra những chỉ đạo rất trúng”. 

Chiến thắng giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa thể hiện việc quán triệt, chấp hành nghiêm chỉnh quyết tâm và tư tưởng chỉ đạo của trên về nhiệm vụ giải phóng đảo. Đây là một chiến thắng có ý nghĩa chiến lược, góp phần vào chiến thắng vĩ đại của toàn dân tộc ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 lịch sử. Chiến thắng một lần nữa chứng minh sự thành công của Bộ Tư lệnh Hải quân trong việc chỉ đạo xây dựng và chiến đấu của lực lượng vận tải chiến lược và lực lượng Đặc công Hải quân. Đồng thời, một lần nữa khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền của Việt Nam ở quần đảo này.

Ngày 28-9-1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố Sách trắng, giới thiệu 19 tài liệu chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Việt Nam có đầy đủ căn cứ pháp lý và bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.



[1] Điện số 990 BKT ngày 4-4-1975 của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương gửi Khu uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu 5. Lưu trữ tại Bộ Quốc phòng.

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất