Đồng chí Nguyễn
Văn Linh, tên thật là Nguyễn Văn Cúc (còn gọi là Mười Cúc), sinh ngày 01 tháng
7 năm 1915 tại Hà Nội (quê gốc làng Yên Phú, xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, tỉnh
Hưng Yên). Xuất thân trong một gia đình yêu nước, sớm giác ngộ cách mạng, năm
1929, đồng chí tham gia phong trào Học sinh đoàn của Hội Việt Nam Thanh niên
Cách mạng.
Năm 1930, đồng
chí bị địch bắt, bị chính quyền thực dân kết án tù chung thân, đày đi Côn Đảo.
Năm 1936, đồng chí được trả tự do, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
Ngay sau khi ra tù đồng chí tiếp tục hoạt động, tích cực tham gia khôi phục phong
trào cách mạng, lập lại Thành ủy Hải Phòng và được bầu làm Bí thư Thành ủy Hải
Phòng. Năm 1939, đồng chí được Trung ương Đảng cử vào tham gia Thành ủy Sài
Gòn. Đầu năm 1941, đồng chí được Trung ương điều động ra Trung kỳ chắp nối lại
phong trào cách mạng, chuẩn bị lập lại xứ ủy, đến Vinh (Nghệ An) đồng chí bị
địch bắt, kết án 5 năm tù và đày ra Côn Đảo lần thứ hai.
Năm 1945, Cách
mạng Tháng Tám thành công, đồng chí được Trung ương Đảng phân công tham gia
chiến đấu ở Nam Bộ và từ đó gắn bó cuộc đời hoạt động cách mạng của mình với
đồng bào miền Nam trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ cho đến ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Đồng
chí lần lượt được Đảng giao các trọng trách: Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn
(1946-1947), Bí thư đặc khu ủy Sài Gòn - Gia Định, quyền Bí thư Xứ ủy Nam Bộ
(1957-1960). Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (1960), đồng chí được bầu
vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được chỉ định làm Bí thư Trung ương Cục
miền Nam và sau đó là Phó bí
thư Trung ương Cục miền Nam.
Năm 1976, đồng
chí là Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. Đại hội Đảng khóa IV, khóa V đồng
chí được bầu là Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng và đảm nhiệm các
chức vụ: Trưởng ban Cải tạo xã hội chủ nghĩa Trung ương, Trưởng ban Dân vận và
Mặt trận Trung ương, Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam.
Tháng 12-1981,
đồng chí được Trung ương Đảng phân công trở lại làm Bí thư Thành ủy Thành phố
Hồ Chí Minh. Tháng 3-1982, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V, đồng chí được
bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tháng 6-1985, tại Hội nghị Trung
ương 8, đồng chí được bầu vào Bộ Chính trị, tiếp tục làm Bí thư Thành ủy Thành
phố Hồ Chí Minh. Tháng 6-1986, đồng chí được phân công tham gia Ban Bí thư
Trung ương Đảng và giữ cương vị Thường trực Ban Bí thư.
Tháng 12-1986,
tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng - Đại hội mở đầu thời kỳ đổi
mới, đồng chí được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tại Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII của Đảng đồng chí được cử làm Cố vấn
Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Cuộc đời hoạt
động cách mạng của đồng chí Nguyễn Văn Linh thật oanh liệt và phong phú, trải
rộng trên cả ba miền của đất nước, trong đó phần lớn thời gian gắn bó máu thịt
với miền Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước. Cuộc đời cách mạng của đồng chí gắn liền với những chặng đường cam go,
gian khổ, hào hùng của Đảng và dân tộc ta. Dù ở trong hoàn cảnh nào, với nhiệm
vụ gì, đồng chí đều hoàn thành xuất sắc và có những đóng góp to lớn cho sự
nghiệp cách mạng của Đảng. Đồng chí đã được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng,
Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác của Đảng, Nhà
nước ta và nhiều nước trên thế giới.
Đồng chí Nguyễn Văn Linh, một người cộng sản
kiên cường, bất khuất; một nhà lãnh đạo kiên định và sáng tạo.
Mồ côi cha mẹ từ
nhỏ, tham gia hoạt động cách mạng từ rất sớm; mới 15 tuổi đồng chí Nguyễn Văn
Linh đã bị thực dân Pháp kết án tù chung thân, hai lần bị địch bắt và đày ra
Côn Đảo. Hơn 10 năm bị địch giam cầm tại địa ngục trần gian - Côn Đảo, kẻ thù
đã dùng mọi cực hình, đòn roi tra tấn, nhưng đồng chí vẫn nêu cao khí phách anh
hùng, kiên cường, bất khuất, giữ vững khí tiết cách mạng, cùng các đồng chí
trong chi bộ đảng nhà tù tổ chức các lớp học tập chính trị, văn hóa, ngoại ngữ,
biến nhà tù thực dân, đế quốc thành trường học cộng sản. Ngay sau khi được ra
tù, đồng chí lại lao vào hoạt động cách mạng, không sợ hy sinh, gian khổ, được
Đảng tin cậy cử đến hoạt động ở những nơi phong trào cách mạng gặp khó khăn.
Đồng chí là một trong những người đề xuất thực hiện hợp nhất hai tổ chức Việt
Minh (Bộ Việt Minh Sài Gòn và Ủy ban Việt Minh Chợ Lớn), lập ra Thành ủy lâm
thời thành phố Sài Gòn – Gia Định. Trong thời kỳ gay go nhất và cũng oanh liệt
nhất của cách mạng miền Nam, kẻ thù dùng luật 10/59 dìm cách mạng miền Nam
trong biển máu và thời kỳ hàng triệu quân Mỹ - ngụy càn quét tìm diệt lực lượng
cách mạng, đồng chí không lúc nào xa rời quần chúng, luôn luôn gắn bó với phong
trào cách mạng của miền Nam để xây dựng Đảng. Với trách nhiệm Phó bí thư, Bí
thư Trung ương Cục đồng chí đã chủ trì và cùng các đồng chí Trung ương Cục lãnh
đạo và phát động quần chúng nổi dậy phá ách kìm kẹp của địch, xây dựng căn cứ
địa cách mạng, phát triển chiến tranh du kích, xây dựng lực lượng quân giải
phóng, đánh bại các chiến lược chiến tranh cục bộ, chiến tranh đặc biệt và Việt
Nam hóa chiến tranh của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, tổng tiến công nổi dậy Tết
Mậu Thân (1968), giành toàn thắng trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (1975).
Đất nước thống
nhất, với cương vị là Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, đồng chí đã trăn
trở, tìm tòi các giải pháp nhằm đẩy mạnh công cuộc xây dựng thành phố theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của thành phố đã quen với nền
kinh tế thị trường. Đồng chí luôn khuyến khích, cổ vũ, những người dám tìm tòi,
dám “xé rào”, cổ vũ các đồng chí của mình dũng cảm, sáng tạo, thay đổi cách
nghĩ, cách làm khi cơ chế, chính sách ở cấp vĩ mô chưa thay đổi kịp. Đồng chí
nói: “Phải tự cứu lấy mình, trước khi trời cứu”. Trong tìm tòi bước đi đổi mới,
đồng chí Nguyễn Văn Linh đã có những lời tâm huyết như: “Mình phải chặt chẽ với
mình. Khi thấy mình đúng, có ý thức xây dựng thì phải kiên quyết bảo vệ chân
lý, phải dũng cảm”; “Đổi mới là cuộc cách mạng sâu sắc, triệt để: đổi mới tư
duy, đổi mới chính sách, đổi mới tổ chức, đổi mới cán bộ... Người lãnh đạo mà
bảo thủ, sai lầm, không chấp nhận đổi mới thật sự thì không thể lãnh đạo được”.
Những tìm tòi
thử nghiệm, những mô hình mới ở Thành phố Hồ Chí Minh và một số địa phương khác
trong cả nước đã góp phần quý báu giúp Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ
Chính trị quyết định xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện cơ
chế mới, mở ra công cuộc đổi mới – bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử cho cách mạng
Việt Nam. Đồng chí đã đề xướng và kiên trì thực hiện đổi mới có nguyên tắc - đổi
mới nhưng luôn luôn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững và tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực
hiện nghiêm túc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Trong bối cảnh
quốc tế cực kỳ phức tạp, công cuộc cải tổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa ở Đông Âu phạm sai lầm về chiến lược; đất nước ta bị chủ nghĩa đế quốc
bao vây, cấm vận, cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội diễn ra nghiêm trọng, đời
sống của cán bộ và nhân dân gặp nhiều khó khăn, niềm tin của nhân dân với Đảng,
Nhà nước bị giảm sút. Với tinh thần kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng,
trên cương vị Tổng Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã cùng tập thể Bộ Chính
trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng vững vàng, chủ động, sáng tạo lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng, vượt qua thử thách, kiên trì đường lối đổi mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, với những bước đi và cách làm phù hợp với hoàn cảnh của
Việt Nam: Tập trung đổi mới kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới tổ chức và
phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, kiên quyết không chấp nhận đa
nguyên, đa đảng; coi trọng phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục phát huy
tinh thần đổi mới, sáng tạo của đồng chí Nguyễn Văn Linh, công cuộc đổi mới của
đất nước ta đã đạt được thành tựu quan trọng: Từ một nước thiếu triền miên về
lương thực chúng ta đã đảm bảo an ninh về lương thực và có lượng gạo xuất khẩu
lớn; từ một nước làm không đủ ăn, thu không đủ chi, xuất khẩu không đủ nhập
khẩu chúng ta đã phấn đấu ra khỏi nhóm nước chậm phát triển và đang đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng –
an ninh, cải thiện đời sống của nhân dân, mở rộng quan hệ đối ngoại và nâng cao
vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
Thắng lợi vĩ đại
của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ
quốc, những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới đất
nước, thuộc về toàn Đảng, toàn dân ta, trong đó có công lao đóng góp quan trọng
của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh.
Đồng chí Nguyễn Văn Linh – người học trò xuất
sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một tấm gương đạo đức cách mạng sáng ngời.
Trong cuộc đời
hoạt động cách mạng của mình, đồng chí Nguyễn Văn Linh không thường xuyên làm
việc bên cạnh Bác Hồ, nhưng đồng chí luôn quán triệt sâu sắc tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh. Trải qua nhiều vị trí lãnh đạo khác nhau ở địa phương
và cơ quan Trung ương, dù ở đâu, làm việc gì, đồng chí cũng đem hết trí tuệ,
sức lực để cống hiến cho Đảng và nhân dân, đặt lợi ích chung của cách mạng lên
trên lợi ích cá nhân. Hơn 10 năm bị địch giam cầm, tra tấn trong ngục tù Côn
Đảo, 30 năm gian khổ trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ ở miền Nam, đến khi trở thành Tổng Bí thư của Đảng, đồng chí luôn phát huy
phẩm chất kiên cường của người cộng sản, thể hiện cao đẹp đức tính liêm khiết,
khiêm tốn, cuộc sống giản dị, mẫu mực, là tấm gương sáng về phẩm chất của người
cộng sản “tận trung với nước, tận hiếu với dân” theo gương Bác Hồ.
Nét nổi bật
trong phong cách của đồng chí Nguyễn Văn Linh là tác phong tỉ mỉ, cụ thể, dân
chủ. Đồng chí thường xuyên đi xuống cơ sở, gặp gỡ cán bộ và nhân dân, khơi gợi
một cách dân chủ để mọi người phát biểu, tranh luận, đề xuất; lắng nghe ý kiến
của nhân dân, nhất là những ý kiến trái ngược, để suy nghĩ, cân nhắc, giải
quyết phù hợp và có hiệu quả nhất; mỗi quyết sách của đồng chí đều là kết quả
tìm tòi trên cơ sở tập hợp trí tuệ của quần chúng.
Đồng chí Nguyễn
Văn Linh rất chú trọng công tác tổng kết thực tiễn. Mỗi khi hoạch định, ban
hành đường lối, chính sách mới, đồng chí đều xuất phát từ thực tiễn, từ tình
hình cụ thể của đất nước. Trước những vấn đề còn có ý kiến khác nhau, đồng chí
thường lấy thực tiễn để thuyết phục, kết luận. Đồng chí thường xuyên nhắc nhở
cấp ủy đảng và cán bộ các cấp phải đi sâu, đi sát cuộc sống của nhân dân, tổng
kết thực tiễn để hoàn chỉnh chủ trương, đường lối đã đề ra. Đồng chí nói: “Mọi
vấn đề đều có thể tranh luận quyết liệt, nhưng đã quyết thì phải theo đa số,
rồi thực tiễn sẽ là ông thầy phán xét”. Đường lối đổi mới của Đảng ta hình
thành và phát triển từ tổng kết thực tiễn sáng tạo của nhân dân, trong đó có
cống hiến của đồng chí Nguyễn Văn Linh. Trên trọng trách Tổng Bí thư khóa VI,
đồng chí đã cùng tập thể Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhạy
bén, chủ động, sáng tạo, khôn khéo chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua những
bước hiểm nghèo, đẩy mạnh công cuộc đổi mới và thu được những thành tựu rất
quan trọng, tạo tiền đề cơ bản để đất nước phát triển nhanh trong những giai
đoạn tiếp theo.
Là học trò xuất
sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Nguyễn Văn Linh luôn luôn nêu cao đạo
đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, tận trung với nước, tận
hiếu với dân, sống trung thực, thẳng thắn, chan hòa, gần gũi mọi người, ghét
thói phô trương, hình thức. Đồng chí nhận thấy bệnh tham nhũng, lãng phí, quan
liêu có thể trở thành nguy cơ đe dọa sự sống còn của chế độ xã hội chủ nghĩa,
những bài báo “Những việc cần làm ngay” đăng trên báo Nhân Dân, ký tên N.V.L
vào năm đầu thời kỳ đổi mới, đã tạo ra luồng sinh khí mới trong xã hội, đã thể
hiện sự trăn trở và tinh thần quyết tâm của người đứng đầu Đảng và Nhà nước ta
chống tham nhũng, tiêu cực, bảo vệ lợi ích và quyền làm chủ của nhân dân. Tại
Đại hội lần thứ VII của Đảng (tháng 6-1991), mặc dù còn đủ sức khỏe để tái cử,
đồng chí vẫn xin phép toàn Đảng, toàn dân thôi giữ chức Tổng Bí thư. Trên cương
vị Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương, đồng chí tiếp tục đem hết sức lực, trí tuệ
của mình để tham gia nhiều ý kiến quan trọng với lãnh đạo Đảng, Nhà nước về
thực hiện và hoàn thiện đường lối đổi mới và những vấn đề lớn của đất nước.
Ở vào thời điểm
nhạy cảm, cam go, tình hình thế giới diễn biến khó lường, Liên Xô và các nước
xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu lâm vào khủng hoảng, đổ vỡ; đất nước gặp muôn vàn
khó khăn, thách thức, đồng chí Nguyễn Văn Linh là một tấm gương kiên định, vững
vàng, chiến đấu không mệt mỏi cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, sự nghiệp
đổi mới của Đảng.
Qua gần 25 năm
đổi mới, sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta đã giành được những thành
tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Thành tựu đó khẳng định một cách mạnh mẽ
đường lối đổi mới do Đảng ta lãnh đạo là phù hợp với quy luật khách quan của
lịch sử và nguyện vọng thiết tha của nhân dân, trong đó có đóng góp to lớn,
quan trọng của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh. Ôn lại cuộc đời và sự
nghiệp, công lao và cống hiến to lớn của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh,
chúng ta trân trọng tự hào và biết ơn người cộng sản kiên cường, bất khuất,
người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng chí để lại bài học quý
báu về lãnh đạo và chỉ đạo: giữ vững nguyên tắc trong quan điểm, linh hoạt
trong sách lược, luôn gắn bó với thực tiễn đất nước, đồng cảm với đồng bào,
chiến sĩ. Chúng ta học tập ở đồng chí Nguyễn Văn Linh - tấm gương của một người
cộng sản kiên cường, bất khuất, trước khó khăn không lùi bước, trước kẻ thù
không khuất phục, dũng cảm vượt qua mọi thử thách. Chúng ta học tập và noi
gương đồng chí Nguyễn Văn Linh ở tác phong làm việc tỉ mỉ, cụ thể, dân chủ, chú
trọng tổng kết thực tiễn, trước các vấn đề còn có ý kiến khác nhau lấy thực
tiễn là “ông thầy phán xét”; học tập phẩm chất đạo đức trung thực, thẳng thắn,
ghét thói phô trương, hình thức. Noi gương đồng chí Nguyễn Văn Linh, toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta quyết tâm thực hiện thật tốt Cuộc vận động “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, kiên quyết khắc phục bằng được các yếu
kém, khuyết điểm, chủ động nắm bắt thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, thách thức đưa đất
nước phát triển nhanh và bền vững. Mỗi cán bộ, đảng viên cần nâng cao trình độ
lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ; có bản lĩnh vững vàng, trong sáng về
đạo đức, lối sống, có sức chiến đấu cao; hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân; nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chống chủ nghĩa cá
nhân, đẩy mạnh chống tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác; kiên
định, sáng tạo, chủ động hội nhập quốc tế, quyết tâm thực hiện thắng lợi đường
lối đổi mới của Đảng, xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
BTV