Hiến pháp là
đạo luật gốc của quốc gia, chính vì vậy khi Đảng, Nhà nước ta có chủ trương
sửa đổi Hiến pháp 1992 (bổ sung năm 2001) đã được sự hưởng ứng của nhân dân,
tạo ra không khí sinh hoạt chính trị dân chủ và rộng khắp trong cả nước. Trong
khuôn khổ bài báo, tôi chỉ góp ý về cách diễn đạt của Lời nói đầu và Chương I
“Chế độ chính trị” như sau:
Về Lời nói đầu:
Nghiên cứu các bản hiến pháp, từ Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 đến Hiến pháp
1980 đều thấy xu hướng kéo dài lời nói đầu. Nếu như Hiến pháp
1946 có 238 từ thì Hiến pháp 1959 có tới 1.276 từ, Hiến pháp 1980 tăng lên
1.706 từ. Hiến pháp 1992 giảm xuống còn 532 từ. Bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp
1992 đã có sự kế thừa và tinh gọn lời nói đầu khi chỉ còn 449 từ. Việt Nam xây
dựng Hiến pháp là văn bản pháp lý cao nhất nên những quy định trong bản Hiến
pháp nên là những vấn đề chung có tính nguyên tắc, không nên dàn trải và thiên
về các quy phạm pháp luật cụ thể vì dưới Hiến pháp sẽ có các đạo luật, pháp
lệnh, nghị định, thông tư hướng dẫn cụ thể. Hiến pháp càng ngắn gọn, cô đọng,
súc tích, dễ hiểu càng dễ nhớ, có tính khả thi cao. Tiếp cận theo hướng như vậy
nên theo tôi, phần Lời nói đầu của bản Dự thảo Hiến pháp 2013 nên thu lại cho
ngắn gọn hơn. Cụ thể là: “Trải qua mấy
nghìn năm lịch sử, nhân dân Việt Nam lao động cần cù, sáng tạo, chiến đấu anh
dũng để dựng nước và giữ nước, đã hun đúc nên truyền thống đoàn kết, nhân
nghĩa, kiên cường, bất khuất của dân tộc và xây dựng nên nền văn hiến Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, nhân dân ta đã giành chiến thắng
trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước và làm tròn
nghĩa vụ quốc tế; xây dựng chủ nghĩa xã hội và tiến hành công cuộc đổi mới,
giành được những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử .
Kế thừa truyền thống hào hùng của dân tộc
Việt Nam, các bản Hiến pháp trước đây, Hiến pháp này tiếp tục khẳng định ý chí
của nhân dân và chủ quyền quốc gia; phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc, truyền thống yêu nước, đoàn kết một lòng, xây dựng và thi hành
bản Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Chúng ta đã
nhấn mạnh sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam nên chỉ cần nêu Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí
Minh sáng lập và rèn luyện lãnh đạo cách mạng Việt Nam là đủ mà không cần phải
liệt kê các sự kiện và có phần trùng lặp với Cương lĩnh và Điều lệ Đảng.
Trong Chương I, Điều 2 theo tôi nên sửa lại là: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Trong Cương
lĩnh của Đảng năm 2011 và Điều lệ Đảng được thông qua tại Đại hội X và Đại hội
XI của Đảng chúng ta đã khẳng định theo Tư tưởng Hồ Chí Minh: “Đảng Cộng sản
Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong
của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của
giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc”. Nói cách khác, Đảng
là một bộ phận của giai cấp nhưng đại diện trung thành cho lợi ích của giai
cấp, của nhân dân lao động và của dân tộc. Vậy Hiến pháp phải là của nhân dân,
dân tộc Việt Nam.
Về Điều 4 của
bản Hiến pháp: Đây cũng là một trong những trọng tâm trao đổi, tranh luận. Tựu
trung lại có 2 luồng ý kiến là nên giữ Điều 4 và không nên giữ Điều 4 về sự
lãnh đạo của Đảng trong Hiến pháp. Xem lại 4 bản Hiến pháp đã có, chúng ta thấy
Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959 không đề cập đến sự lãnh đạo của Đảng. Từ Hiến
pháp 1980, tại Điều 4 chúng ta mới nêu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
thành một quy tắc Hiến định, được Hiến pháp 1992 kế thừa và Dự thảo lần này đã
tiếp tục bổ sung. Tôi hoàn toàn đồng tình với quan điểm giữ Điều 4
và có những bổ sung cụ thể. Tuy nhiên để tinh gọn, dễ hiểu thì Điều 4 nên viết
lại theo cách diễn đạt sau:
“1. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực
lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
2. Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
3. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu
sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định
của mình”.
Viết ngắn gọn
như vậy một mặt khẳng định sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn bộ hệ
thống chính trị bởi suy cho cùng bất cứ quốc gia nào trên thế giới đều có đảng
chính trị và chịu sự chi phối bởi đường lối của đảng cầm quyền. Công khai hay
ngầm định cũng đều là thể hiện sự cầm quyền của 1 đảng chính trị nào đó. Ở Việt
Nam
chỉ có duy nhất một Đảng cầm quyền nên chúng ta khẳng định sự lãnh đạo của Đảng
là điều phù hợp. Hơn nữa, trong lý luận về Đảng cầm quyền chúng ta thường lý
giải sự cầm quyền được thể hiện trên ba phương diện là về cơ sở lý luận, về cơ
sở pháp lý và về thực tiễn. Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền lãnh đạo đất nước
trải qua bao thăng trầm của lịch sử và đã được lịch sử dân tộc ghi nhận thì
Hiến pháp ghi nhận sự lãnh đạo của Đảng cũng là điều tất yếu. Tuy nhiên, với
tính chất của một bản Hiến pháp cần sự cô đọng, ngắn gọn và súc tích và những vấn đề đó
đã được ghi nhận rất rõ trong các văn kiện của Đảng, đã công
khai qua các lần đại hội đảng với toàn dân và thậm chí là toàn thế giới bởi các
văn kiện của Đảng đã được công bố rộng rãi trên mạng in-tơ-net.
Vấn đề mà mọi
người còn băn khoăn là Đảng chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm
trước nhân dân về những quyết định của mình như thế nào? Cơ chế nào để nhân dân
giám sát và sự chịu trách nhiệm của Đảng đến đâu để nhân dân thực sự kiểm soát
được? Do đó, thời gian tới cần có cơ chế để nhân dân thực sự giám sát hoạt động
của Đảng thông qua Luật về Đảng.
Trong Điều 9 đề cập đến Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam: “1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã
hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân
tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
2. Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam
là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đại
đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong
nhân dân; tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm
lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, vận động nhân dân thực hiện quyền
làm chủ, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, giám sát và phản biện xã hội đối với
hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức, viên
chức.
3. Nhà nước tạo
điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt
trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động”.
Quy định như
vậy có những điểm rất mới so với Hiến pháp 1992 và Dự thảo có thêm khoản 3 về việc
Nhà nước tạo điều kiện cho Mặt trận hoạt động. Nhưng theo tôi vô hình trung lại
thu hẹp quyền của Mặt trận và có vẻ như Mặt trận ở thế yếu bởi nếu Nhà nước
không tạo điều kiện thì Mặt trận sẽ hoạt động như thế nào? Phải chăng lâu nay
Mặt trận hoạt động chưa mạnh là do thiếu sự quan tâm của Nhà nước? Hơn nữa,
việc bỏ phần liệt kê như Điều 9 của Hiến pháp 1992: “Mặt trận tổ quốc Việt Nam - bao gồm các chính đảng, Tổng công đoàn Việt
Nam, tổ chức liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ
Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam và các thành viên khác của Mặt trận -
là chỗ dựa vững chắc của Nhà nước” và lại vẫn giữ nguyên điều 10 về Công
đoàn Việt Nam thì dễ dẫn đến sự so sánh về vị trí, vai trò của các tổ chức
thành viên trong hệ thống chính trị và như vậy tất yếu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh,
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và các thành viên khác sẽ yêu cầu là Dự thảo Hiến
pháp cần có điều quy định riêng về vị trí, vai trò của tổ chức mình.
Chính vì vậy,
theo tác giả bài viết, nên gộp Điều 9 và Điều 10 thành một điều như sau:
“1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - bao gồm các
chính đảng, Tổng Công đoàn Việt Nam, tổ chức Liên hiệp nông dân tập thể Việt
Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam và các
thành viên khác của Mặt trận - là chỗ dựa vững chắc của Nhà nước.
2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đại đoàn kết
toàn dân tộc, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân;
tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo
vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, vận động nhân dân thực hiện quyền làm chủ,
nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, giám sát và phản biện xã hội đối với hoạt
động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức, viên chức”.
Việc sửa đổi
Hiến pháp là việc lớn, hệ trọng, việc mỗi người dân có trách nhiệm tìm hiểu và
phát biểu ý kiến là thiết thực xây dựng đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
TS. Lê Văn Cường
Học viện Xây dựng Đảng