Khát vọng… “lên bờ”!

Bài 1: Những giấc mơ xuyên thế hệ

Đối với cộng đồng những người sinh sống trên sông ở Thanh Hóa, từ bao đời nay, khát vọng “lên bờ” luôn âm ỉ cháy và ngấm từ thế hệ trước sang thế hệ sau. Song, để sở hữu được mảnh đất, ngôi nhà dường như là ước mơ quá xa vời. Hết đời cha đến đời con vẫn lấy thuyền là nhà, cuộc sống đầy rủi ro, bấp bênh, chênh chao như chính con thuyền của họ. Thế nhưng, từ khi Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa khóa XV ban hành Chỉ thị số 08-CT/TU “Về đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân hỗ trợ, giúp đỡ hộ nghèo chưa có nhà ở, đang ở nhà tạm bợ, dột nát và ổn định đồng bào sinh sống trên sông”, giấc mơ “lên bờ” của hàng nghìn gia đình đã và đang trở thành hiện thực.

Một góc xóm chài Thủy Cơ, xã Thiệu Vũ (Thiệu Hóa). Ảnh: Đỗ Đức.

Một góc xóm chài Thủy Cơ, xã Thiệu Vũ (Thiệu Hóa). Ảnh: Đỗ Đức.

Dòng sông Mã được ví như món quà mà tự nhiên đã ưu ái dành tặng cho xứ Thanh, với chiều dài 242 km, tạo nên một lưu vực rộng lớn gần 9.000 km2 và nhiều phụ lưu chính là sông Luồng (102 km), sông Lò (74,5 km), sông Bưởi (130 km), sông Chu (325 km). Những cư dân vạn chài vốn gắn chặt với sông Mã, sông Chu, kiếm sống chủ yếu dựa vào con nước, nên dẫu đã trải qua nhiều đời nhưng hầu hết các gia đình chỉ cố gắng duy trì được mức sống tối thiểu là cái ăn, cái mặc, không thể có tích lũy để mua đất, làm nhà.

Cha ông đã đúc kết, “an cư” mới “lạc nghiệp”. Thế nhưng, có những số phận, những mảnh đời, dẫu đã đi quá nửa hay đi hết hành trình đời người, thậm chí đã nối qua mấy thế hệ người, vẫn mãi chật vật sinh tồn mà chẳng thể mơ giấc an cư.

Từ những cảnh đời lênh đênh...

Nguyễn Văn Hậu đã bước qua tuổi 42, nhưng vẫn không biết tường tận gốc gác cái xóm chài Thủy Cơ (xã Thiệu Vũ, huyện Thiệu Hóa) - nơi con thuyền mình vẫn cắm sào neo đậu sau mỗi bận lênh đênh sông nước. Thậm chí, anh cũng không nhớ nổi cái phận đời gắn với mái chèo - con nước “cha truyền con nối” này, đến lượt mình đã là đời thứ bao nhiêu. Mà có lẽ, chính Hậu cũng chẳng thảnh thơi để nhớ, càng chẳng thiết nhớ. Bởi, nỗi lo cơm áo gạo tiền gắn với cuộc sống lênh đênh ăn bữa nay lo bữa mai đã “ngốn” cả thời gian để hít thở, thì nói gì đến hoài niệm cho xa xỉ. Trong câu chuyện thường xuyên đứt quãng bởi những lo lắng, giằng xé bị dằn xuống bỗng chốc chồi lên và cả nước mắt tưởng chừng khô kiệt lại thấm sâu vào từng vết chân chim, Hậu cũng trách than số phận.

Dẫu hoàn cảnh sống của 4 đứa con và những đứa trẻ xóm chài Thủy Cơ đã khá khẩm hơn đời cha mẹ chúng, bởi nhiều đứa đã được đi học, song, bấy nhiêu là chưa đủ để bảo đảm cho chúng một cuộc sống bình yên và thoát kiếp lênh đênh “con nối” - “cha truyền”. Sớm chịu cảnh “gà trống nuôi con” vì người vợ đã lìa đời theo con nước dữ, bị áo cơm ghì chặt khiến người đàn ông ngoại tứ tuần chẳng dám nuôi hy vọng “đổi đời” cho lũ trẻ. Nhìn đứa con trai đầu đã bước qua tuổi 21, phải bỏ học giữa chừng năm lớp 9 để phụ cha nuôi em, Hậu như thấy bóng dáng và số phận mình đang dần hợp lại và thít chặt vào dáng dấp cùng cuộc đời chàng trai trẻ.

Thật ra, Hậu chỉ là 1 trong 6 mảnh ghép của đại gia đình mà “của nả” cha mẹ để lại chỉ có mối liên hệ máu mủ và giấc mơ an cư le lói yếu ớt như ngọn đèn treo nơi đầu thuyền mỗi đêm sương lạnh trăng mờ. Họ chắp nối với nhau bằng mảnh lưới, con thuyền và cuộc sống được vận hành theo một “công thức” chung của hầu hết cư dân vạn chài từ xa xưa: sinh trên dòng nước, sống theo con nước và thác về với nước. Bởi vậy, cái gia phả dòng họ của cư dân vạn chài trải cũng dài trên các khúc sông xuôi, ngược và một vòng tròn đời người với “sinh - lão - bệnh - tử” có khi thần sông còn nắm rõ quy luật hơn con người. Vì thế mà, quê hương bản quán hay nguồn cội tổ tiên - vốn dĩ như là một hệ quy chiếu, hay một hệ giá trị có khả năng cấp cho con người một “thân phận”, một “diện mạo” - thì với cư dân vạn chài, cái “thân phận” ấy có lẽ cũng chẳng dư nhiều giá trị để mà ghi tạc. Không sách vở để lưu truyền, có chăng đời trước chỉ để lại cho đời sau vài cái tên đã nằm lại đáy sông hay một rẻo hoang, cồn bãi; dăm câu chuyện chắp vá về gốc gác và những trải nghiệm sống được đúc kết bằng mồ hôi, nước mắt, thậm chí bằng máu đã đọng thành rong gỉ bám chặt nơi đáy thuyền, hay đã tan vào nước sông từ bao giờ rồi.

Chưa có địa phương hay tổ chức, đơn vị nào tiến hành một cuộc khảo sát, thống kê về “trình độ phát triển” của cộng đồng dân cư vạn chài xứ Thanh, dựa trên các tiêu chí “thô mà thật” như số lượng người học hành đỗ đạt, thành danh và số lượng các xóm chài/làng chài sung túc, giàu đẹp. Thực tế khi nói về họ, chỉ có một nhận định chung nhất: đa phần là hộ nghèo. Đói nghèo vốn dĩ được ví như một dạng “bạo lực”. Thứ “bạo lực” đủ khiến thể chất lẫn tinh thần con người trở nên rệu rã hoặc trơ lỳ. Thứ “bạo lực” càng khiến “đôi cánh” của ước mơ, khát khao chưa kịp bay bổng đã bị “gọng kìm” hiện thực trói buộc, thậm chí bị bẻ gãy ngay khi chưa kịp thành hình. Vậy nên với phần đông cư dân vạn chài, khao khát về một cuộc sống tốt đẹp hơn, mà khởi đầu là chốn an cư và chuyện học hành con trẻ, đã trở thành “giấc mơ xuyên thế hệ” của biết mấy lớp người.

... đến một chỉ thị ra đời trong gian khó

Trước nghịch cảnh thì câu hỏi về thân phận người vẫn luôn là điều trăn trở. Với thực trạng đói nghèo, lạc hậu của nhóm cư dân vạn chài, câu hỏi trách nhiệm trước hết được đặt ra cho cấp ủy, chính quyền và trực tiếp cho các nhà quản lý, nhà hoạch định chính sách.

Đặt ra vấn đề này, chúng tôi muốn dẫn dắt câu chuyện trở lại những năm đầu của thập niên 2000. Khi ấy, Thanh Hóa vẫn đang là một trong những tỉnh nghèo. Dẫu đất rộng, người đông nhưng thu ngân sách mới dừng ở ngưỡng trên dưới 1 nghìn tỷ, nên Trung ương phải thường xuyên hỗ trợ gạo cứu đói mỗi khi thiên tai, dịch bệnh hay vào mùa giáp hạt. Mức sống người dân đa số ở ngưỡng trung bình và dưới trung bình, thậm chí nhiều nơi thấp sâu so với mặt bằng chung cả nước. Đặc biệt, cảnh sống tạm bợ của không ít hộ nghèo trong những ngôi nhà tranh tre nứa lá dột nát, xiêu vẹo đã trở thành một loại “đặc điểm nhận dạng” nơi xóm làng, thôn bản vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn…

“Dân dĩ thực vi thiên”, hiểu một cách nôm na là người dân coi trọng trước hết là no ấm. Và “Có thực mới vực được đạo”, khi cái bụng con người ta đang đói, thì bao nhiêu đạo lý hay ho, tốt đẹp cũng chẳng thể lọt vào tai, thấm vào da thịt và len lỏi vào tâm tưởng. Hiểu rõ vấn đề đó, nên giữa bộn bề lo toan, thách thức lúc bấy giờ, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa vẫn quyết tâm phải có quyết sách để cải thiện đời sống của một bộ phận người yếu thế trong xã hội. Và rồi, Chỉ thị số 08-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa khóa XV “Về đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân hỗ trợ, giúp đỡ hộ nghèo chưa có nhà ở, đang ở nhà tạm bợ, dột nát và ổn định đồng bào sinh sống trên sông”, được ban hành năm 2003, trong điều kiện kinh tế, xã hội của tỉnh còn nhiều khó khăn, tưởng chừng sẽ rất khó thực hiện.


            Những đứa trẻ ở xóm chài Thủy Cơ luôn được cha mẹ buộc dây vào người để tránh rơi xuống sông, nhưng vẫn có nhiều cái chết thương tâm do đuối nước. (Ảnh: Đỗ Đức)

Những đứa trẻ ở xóm chài Thủy Cơ luôn được cha mẹ buộc dây vào người để tránh rơi xuống sông, nhưng vẫn có nhiều cái chết thương tâm do đuối nước. (Ảnh: Đỗ Đức).

Thế nhưng, chỉ sau 5 năm kể từ khi chính sách được ban hành và triển khai, đã có tới 17.249 “Ngôi nhà 08” mang tên “Đại đoàn kết” được dựng lên, để thế cho hàng nghìn mái tranh xiêu vẹo - một biểu tượng sinh động và khắc nghiệt của sự nghèo đói. Đặc biệt, đã có 16/27 huyện, thị xã, thành phố, với 497/634 xã, phường, thị trấn đã xóa bỏ hoàn toàn những ngôi nhà tranh tre dột nát, tạm bợ ra khỏi đời sống cộng đồng. Sau gần 2 thập kỷ triển khai, đến nay tỉnh Thanh Hóa đã cấp đất và hỗ trợ làm được 812 ngôi nhà cho hộ nghèo sinh sống trên sông. Đồng thời, nhiều địa phương đã quy hoạch quỹ đất và cấp đất cho đối tượng, để bà con có “chốn trở về” khi đã tích lũy đủ vốn liếng dựng nhà, ổn định cuộc sống.

Hơn 800 ngôi nhà, đó là kết quả hiện hữu của một quyết sách “vượt nghịch cảnh”. Mỗi ngôi nhà được dựng lên không chỉ bằng vôi vữa vật chất; mà bằng cả tiền của, mồ hôi công sức từ sự chung tay trách nhiệm của cả cộng đồng. Và hơn hết, đó là thành quả từ 100% nỗ lực, 200% quyết tâm, 300% vượt khó của cấp ủy, chính quyền các cấp tỉnh Thanh Hóa ròng rã suốt nhiều năm liền. Cũng từ trong quá trình thực thi chính sách, mối quan hệ giữa người dân - chính quyền cơ sở càng được gắn kết bằng một chữ “đồng”: đồng tâm, đồng lòng, đồng sức, thậm chí là “đồng cam cộng khổ”. Và, đáng trân quý hơn là từ những “Ngôi nhà 08” ấy, nhiều hộ dân đã “giã từ quá khứ” lênh đênh nay đây mai đó, để hòa nhập và dựng xây cuộc sống mới. Đó cũng ví như một “cuộc cách mạng” để viết lại cuộc đời cho nhiều thân phận yếu thế.

“Lên bờ” để an cư lạc nghiệp là khát vọng bao đời của những con người mà cuộc đời họ ví như cánh buồm đã bạc màu, rệu rã. Cảnh sống tựa “lời ru trên những khúc sông buồn”, man mác như thước phim đen - trắng cũ quay chậm và không lời bình. Ước mơ mà ngay cả trong những giấc mơ xa xỉ nhất, có lẽ cũng không nhiều người mơ tới ấy đã trở nên hiện thực hóa từ Chỉ thị số 08-CT/TU. Dù chưa thể bao trùm hết các đối tượng thụ hưởng, song có thể khẳng định, Chỉ thị số 08-CT/TU là một quyết sách đúng đắn, kịp thời và có giá trị thực tiễn, giá trị nhân văn lớn lao: hướng đến đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội và “lấy nghĩa để duy trì, lấy nhân để cố kết”. Đây cũng là chính sách mở đường để Thanh Hóa triển khai các chính sách an sinh xã hội, tạo động lực để đưa nhóm dân cư yếu thế thoát khỏi tình trạng nghèo đói, lạc hậu, đồng thời, tạo tiền đề để tỉnh xây dựng những quyết sách cùng cơ chế mạnh mẽ hơn, tiến tới giải quyết dứt điểm tình trạng sống lênh đênh sông nước của một bộ phận dân cư, mà trong đó, những mảnh đời như Nguyễn Văn Hậu chắc chắn rồi sẽ trở thành câu chuyện của “thời quá khứ”.

Ngày 10-10-2003, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa khóa XV đã ban hành Chỉ thị số 08-CT/TU "Về đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân hỗ trợ, giúp đỡ hộ nghèo chưa có nhà ở, đang ở nhà tạm bợ, dột nát và ổn định đồng bào sinh sống trên sông”. Với sự chung sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân, sau gần 2 thập kỷ kiên trì theo đuổi, toàn tỉnh đã xây dựng được 48.007 ngôi nhà “Đại đoàn kết” (trong đó, thực hiện theo Chỉ thị 08 là 17.249 nhà; theo Chương trình 135 là 30.758 nhà). Riêng đối tượng là hộ nghèo sinh sống trên sông, đã cấp đất, hỗ trợ làm được 812 nhà (trong đó, 795 nhà hoàn thành giai đoạn 2003-2020 và 17 nhà thuộc 2 huyện Thọ Xuân (4 nhà) và Yên Định (13 nhà) hoàn thành trong năm 2021); ngoài ra, có 4 huyện đã hoàn thành bố trí đất ở cho đồng bào trước năm 2010, gồm Hà Trung, Thường Xuân, Triệu Sơn và Hoằng Hóa.

 

Bài 2: Thực thi nhiệm vụ bằng "trái tim nóng"

Chủ trương, chính sách đưa người dân lên bờ đã có, nhưng quá trình thực hiện lại không hề đơn giản, bởi câu chuyện ở đây không chỉ là "tiền", là "đất", mà còn là cuộc sống, thói quen, tập tục của dân vạn chài từ bao đời nay, thậm chí, là những “cái kén” của sự tự ti và đói nghèo rất khó phá vỡ. Hàng nghìn hộ nghèo sinh sống trên sông được đưa lên bờ là hàng nghìn câu chuyện về sự gian khó, đồng lòng, quyết tâm của các cấp ủy, chính quyền địa phương, người dân và cả các chức sắc tôn giáo.


            Cán bộ phường Đông Thọ (TP Thanh Hóa) đến rà soát, tuyên truyền, vận động đồng bào sinh sống trên sông lên bờ.

Cán bộ phường Đông Thọ (TP Thanh Hóa) đến rà soát, tuyên truyền, vận động đồng bào sinh sống trên sông lên bờ.

Chủ trì hội nghị nghe báo cáo tiến độ cấp đất ở và hỗ trợ kinh phí xây dựng nhà ở cho đồng bào sinh sống trên sông (đầu tháng 9-2022, sau 6 tháng triển khai Thông báo số 129-TB/VPTU), đồng chí Đỗ Trọng Hưng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Thanh Hóa đã yêu cầu lãnh đạo các địa phương vừa bám sát để nắm rõ tâm tư, nguyện vọng của bà con, vừa tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc phát sinh bằng tất cả tình cảm, trách nhiệm và hơn hết là bằng một “trái tim nóng”. Bởi thiên tai, thời tiết ngày một thất thường, khắc nghiệt, nếu cấp ủy, chính quyền không lo cho dân từ sớm, từ xa và nhất là không bảo vệ an toàn tính mạng cho đồng bào, sẽ là có lỗi với dân!

Những câu chuyện thấm đẫm tình người

Người dân vạn chài vốn bao năm gắn bó với dòng sông Mã, sông Chu, hình thành nên những tập quán, nếp sống, nếp sinh hoạt riêng, nên việc vận động đưa họ “lên bờ” an cư, không phải ở đâu và lúc nào cũng thuận lợi. Vậy nên, mới có nhiều câu chuyện dở khóc dở cười mà vô cùng thấm thía, xúc động về tình cảm và trách nhiệm của những người thực thi chính sách tại cơ sở.

TP. Thanh Hóa hiện có số hộ dân sinh sống trên sông đông nhất toàn tỉnh, với 124 hộ. Mặc dù số lượng nhà có thể không lớn, song triển khai ở thời điểm này lại là không dễ, bởi các vướng mắc về quỹ đất, nhất là đối với đô thị loại I “tấc đất tấc vàng”. Không những thế, do cần quy hoạch nhóm dân cư này vào một cộng đồng chung, thay vì xen kẽ trong các khu dân cư bản địa, nên địa phương phải bố trí quỹ đất tương đối lớn. Mặc dù đăng ký thường trú trên địa bàn, nhưng suốt nhiều năm nay, hơn 50 hộ gần như “bặt vô âm tín” - không trở về địa phương, cũng không có bất kỳ liên hệ gì với chính quyền. Nhiều hộ trong số đó đã “dạt” vào tận Quảng Trị, Đà Nẵng, hoặc ngược ra Hải Phòng tìm kế mưu sinh. Thế rồi, hơn 6 tháng qua kể từ khi triển khai Thông báo số 129-TB/VPTU, các tổ rà soát gồm cán bộ phường/xã, tổ dân phố/thôn và các chức sắc, chức việc trong giáo phận đã phải làm việc hết công suất bất kể ngày đêm, lần rò từng “kênh” thông tin để nghe ngóng và tìm cách liên lạc với bà con. Trong cuộc tìm kiếm công dân tưởng như “mò kim đáy bể” và cũng “vô tiền khoáng hậu” ấy, bằng trách nhiệm và sự nỗ lực không mệt mỏi, đến nay thành phố đã mời được hầu hết các hộ đang tha hương trở về. Hai bên đã ngồi lại với nhau để cùng trao đổi chủ trương của tỉnh và để chính quyền nắm bắt đúng tâm tư, từ đó có hướng hỗ trợ phù hợp với nguyện vọng của bà con.

Là chính sách nhân văn khi hướng đến đối tượng yếu thế trong xã hội, chính vì vậy, việc triển khai càng đòi hỏi sự công tâm, khách quan, minh bạch của các chủ thể tham gia. Đặc biệt, phải tránh hai xu hướng là lợi dụng chính sách để trục lợi; hoặc hời hợt, cào bằng, “làm cho có, khó thì kêu”. Đồng thời, do một số vướng mắc về quỹ đất và kinh phí hỗ trợ nên các địa phương cần có thứ tự ưu tiên (hộ nghèo trước, cận nghèo sau, cuối cùng mới đến đối tượng khó khăn khác), tránh nóng vội sẽ không mang lại kết quả cuối cùng là ổn định đời sống để bà con an cư lạc nghiệp.

Câu chuyện tách - nhập hộ ở làng chài Thiệu Vũ (huyện Thiệu Hóa) là một ví dụ điển hình về quá trình thực thi chính sách tại cơ sở. Số là, qua rà soát ban đầu, toàn huyện có 54 hộ chủ yếu có hộ khẩu thường trú tại xã Thiệu Vũ. Sau nhiều tháng rà soát và công khai đối tượng thụ hưởng trước toàn dân, chính quyền địa phương đã nhận được thông tin phản hồi. Theo đó, chỉ có 27 hộ “gốc” vạn chài, số còn lại là con cái họ vừa tách hộ trước đó chưa lâu. Sau nhiều chuyến khảo sát thực tế, nắm bắt đời sống nơi xóm chài Thủy Cơ, đến các điều kiện sống tại khu tái định cư Thiệu Vũ; đồng thời, sau nhiều lần trực tiếp gặp gỡ, trao đi đổi lại giữa Bí thư Huyện ủy Nguyễn Văn Biện, lãnh đạo địa phương với bà con làng chài, người dân đồng thuận và đề nghị Nhà nước chỉ cấp đất và hỗ trợ nhà ở cho các hộ “gốc”. Số còn lại phần đa là các hộ gia đình trẻ, hoặc sẽ tự “nỗ lực cánh sinh” để ổn định cuộc sống, hoặc sẽ sống cùng cha mẹ để phụng dưỡng đấng sinh thành đã ở tuổi xế chiều.

Tuy rằng, đến thời điểm này, việc xác minh hoàn cảnh của 27 hộ “gốc” vẫn đang được địa phương gấp rút thực hiện, nhằm bảo đảm chính sách đến đúng đối tượng; song không thể phủ nhận, cấp ủy, chính quyền địa phương đã triển khai chính sách một cách công tâm và khách quan, bằng cả lương tri và trách nhiệm. Đặc biệt, khi đặt đối tượng yếu thế vào trung tâm của chính sách, sẽ có thể khơi dậy tự tôn và tinh thần làm chủ của chính đối tượng được thụ hưởng. Vậy mới nói, để thúc đẩy chính sách được thực thi, thì không chỉ tuân thủ các quy định pháp lý, mà còn phải biết cách vận động, thuyết phục “đi vào lòng người”.

Sức mạnh từ sự đồng thuận

Đa số đồng bào sống trên sông ở Thanh Hóa là đồng bào công giáo (khoảng 308 hộ). Với truyền thống “Yêu nước, kính chúa” và sống “Tốt đời đẹp đạo”, bà con giáo dân dưới sự chăm lo của giáo phận và sự quan tâm của chính quyền, đã gây dựng nên mối đoàn kết lương - giáo bền chặt. Chính vì lẽ đó, chủ trương hỗ trợ xây dựng nhà ở cho đồng bào nghèo sinh sống trên sông của cấp ủy, chính quyền tỉnh Thanh Hóa thời gian qua không chỉ được sự đồng tình, ủng hộ của đông đảo nhân dân; mà còn nhận được sự đồng thuận, tin tưởng rất cao của các giáo phận, chức sắc, chức việc và đồng bào giáo dân. Bằng uy tín, trách nhiệm, tình cảm của mình, Tòa Giám mục Thanh Hóa đã tích cực kêu gọi các nguồn lực hợp pháp, để hỗ trợ đồng bào giáo dân có hoàn cảnh khó khăn xây dựng nhà ở, giúp bà con vừa yên tâm giữ đạo vừa chu toàn bổn phận công dân.

Nếu nguồn lực bên ngoài hay cơ chế, chính sách hỗ trợ của tỉnh là tiền đề; thì tinh thần tự lực, tự trọng, tự tin, tự giác chính là sức mạnh nội sinh hay là chìa khóa để giải phóng con người khỏi những xiềng xích trói buộc của lạc hậu, đói nghèo; đồng thời, thôi thúc sức mạnh tiềm tàng trong con người để tự mình vươn lên và nỗ lực kiến tạo tương lai tốt đẹp hơn. Tất nhiên, hành trình phá vỡ “cái kén” của sự tự ti và đói nghèo, luôn đòi hỏi sự hy sinh. Đó cũng là biện giải của Linh mục Phaolo Nguyễn Văn Thường, Giám đốc Ủy ban Bác ái Caritas Giáo phận Thanh Hóa. Ông cho rằng, với xuất phát điểm rất thấp và cơ chế “tự bảo vệ” yếu, nên khi “lên bờ”, bà con giáo dân cần thời gian để hội nhập với cộng đồng mới, cả về lối sống, tập quán, nhận thức, lối tư duy. Tuy nhiên, để thích nghi hoàn toàn và trở thành một phần của cộng đồng, thì phải có thời gian, ít nhất 1 thế hệ. Đó là người già và lớp trung niên - những người sẽ phải xoay xở với sinh kế để tích lũy và đầu tư cho thế hệ sau. Đồng thời, phải nhận thức rằng, chỉ có thể thông qua con đường học vấn - tuy chậm nhưng chắc - thì mới mong có “đổi đời” thật sự. Nói cách khác, học hành cho con trẻ chính là hy vọng, là tương lai và là cơ sở để mưu cầu hạnh phúc cho cộng đồng này.

Chính sách hỗ trợ nhà ở cho đồng bào nghèo sinh sống trên sông chỉ là một “lát cắt mỏng” trong tổng thể chính sách phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thanh Hóa hiện nay. Song, đó lại là “lát cắt” rất quan trọng, phản ánh mục tiêu phát triển hài hòa, bền vững và bao trùm. Đặc biệt, mục tiêu này cũng tiệm cận và góp phần hiện thực hóa 1 trong 6 nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ 2021-2025, đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng quyết nghị. Đó là: “Thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam”.

 

 Bài cuối: Không để ai bị bỏ lại phía sau

Toàn tỉnh Thanh Hóa hiện còn 353 hộ dân đang sinh sống trên sông (thuộc các huyện Thọ Xuân, Thiệu Hóa, Yên Định, Vĩnh Lộc, Thạch Thành, Cẩm Thủy và TP. Thanh Hóa). Tỉnh Thanh Hóa đặt mục tiêu trong 2 năm 2022 và 2023 sẽ hoàn thành việc cấp đất ở và hỗ trợ xây dựng nhà ở cho các hộ này, để không có ai bị bỏ lại phía sau.


            Khu tái định cư thôn Duệ Thôn, xã Định Tiến (Yên Định) đã hiện hữu những ngôi nhà kiên cố giúp đồng bào sinh sống trên sông lên bờ ổn định cuộc sống. Ảnh: Đỗ Đức.

Khu tái định cư thôn Duệ Thôn, xã Định Tiến (Yên Định) đã hiện hữu những ngôi nhà kiên cố giúp đồng bào sinh sống trên sông lên bờ ổn định cuộc sống. Ảnh: Đỗ Đức.

Trong hành trình vượt định kiến, phá rào cản để tiến về phía trước, đồng bào sinh sống trên sông sẽ không đơn độc. Phát biểu tại hội nghị triển khai công tác hỗ trợ xây dựng nhà ở cho đồng bào sinh sống trên sông, Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa Đỗ Trọng Hưng đã khẳng định: “Chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau” không phải lời hô hào khẩu hiệu, mà đang và phải được thực hiện bằng tinh thần sẻ chia, đồng cảm, thương yêu và hơn hết là bằng “mệnh lệnh từ trong trái tim mỗi người”. Thanh Hóa đang sẵn sàng thế và lực để bước lên “chuyến tàu tốc hành 58”, với ga đích là trở thành một “cực tăng trưởng mới ở phía Bắc của Tổ quốc”. Trên hành trình không ngơi nghỉ ấy, từ bộ phận cấu thành đơn giản nhất là chiếc ốc vít cũng phải chuyển động nhịp nhàng cùng cỗ máy. Chính vì vậy, quan tâm chăm lo cho nhóm dễ bị tổn thương là cộng đồng dân cư sinh sống trên sông, không chỉ là nhiệm vụ xuất phát từ lương tri, mà còn là một mục tiêu của sự phát triển hài hòa, bền vững.

Hạnh phúc dưới mái nhà “ý Đảng - tình người”

Chừng hơn 2 tháng trở về trước, nơi trú ngụ của vợ chồng Lê Văn Đáp (27 tuổi) và Nguyễn Thị Phương (21 tuổi) vẫn là con thuyền nhỏ quá “đát” ọp ẹp. Là dân chài “gốc” nên dù đang độ tuổi thanh niên, vợ chồng Đáp cũng chẳng gom góp được của nả gì. Cưới nhau năm 2020 đúng đợt dịch dã, rồi vợ sinh con gái đầu lòng khiến cuộc sống đã thiếu thốn càng thêm túng quẫn. Thành thử, dù đã được địa phương cấp đất (đầu năm 2020, theo Chỉ thị số 08-CT/TU, ngày 10-10-2003 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy khóa XV về đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân hỗ trợ, giúp đỡ hộ nghèo chưa có nhà ở, đang ở nhà tạm bợ, dột nát và ổn định đồng bào sinh sống trên sông”), nhưng Đáp không thể cất nổi gian nhà tránh gió che mưa. Nhưng rồi, niềm vui quá lớn đã đến với đôi vợ chồng trẻ. Sau khi địa phương triển khai thực hiện Thông báo số 129-TB/VPTU ngày 18-4-2022 về kết luận của đồng chí Đỗ Trọng Hưng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh tại hội nghị triển khai công tác hỗ trợ xây dựng nhà ở cho đồng bào nghèo sinh sống trên sông, gia đình Đáp đã được Ủy ban MTTQ tỉnh hỗ trợ 50 triệu đồng, cộng thêm kinh phí hỗ trợ từ giáo phận và vay mượn họ hàng, tháng 7-2022, Đáp đã khởi công xây nhà.

Ngôi nhà kiên cố được cất trên khu đất 125m2, tại thôn Duệ Thôn, xã Định Tiến, huyện Yên Định. Dẫu đồ đạc sinh hoạt chẳng có mấy thứ đáng tiền, nhưng với vợ chồng Đáp đây đã là “ngôi nhà trong mơ” nếu so với con thuyền chật hẹp, cũ kỹ trước kia. Hồi tưởng lại cảnh sống thường xuyên giật mình thon thót mùa mưa bão và bản thân luôn ám ảnh vì có người anh trai đã vùi thân dưới nước dữ, Phương lại hoảng hốt khi nghĩ đến con gái mới hơn 1 tuổi, đang chập chững tập đi. Để rồi, nhìn vào ngôi nhà mới cất còn nồng mùi vôi vữa, Phương cảm thấy thỏa mãn và hạnh phúc khôn tả. Niềm hạnh phúc ấy đã cho vợ chồng Phương điểm tựa để lên kế hoạch cho cuộc sống mới, với hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn.

Nằm cách nhà Phương không xa là nhà của đôi vợ chồng già, ông Nguyễn Thanh Sơn và bà Nguyễn Thị Lan. Đi gần hết đời người nay mới được “thân ấm chân yên” trong ngôi nhà mới, ông Sơn mừng rơi nước mắt. Cái xóm chài Định Tiến hơn 70 hộ dân, nếu chia bình quân ra thì mỗi đầu hộ có 1 đứa trẻ đã bỏ mình cho hà bá. Dù trẻ con xóm chài lớn lên cùng đoạn dây thừng buộc chặt quanh thân, nhưng khi sa sẩy thì chẳng dây thừng nào cứu nổi sinh mạng người. Thậm chí, nhiều cái chết tức tưởi mà nghe tưởng như đùa. Đó là những đứa đêm ngủ mơ cựa mình rồi rơi xuống sông. Sáng dậy bố mẹ thấy thiếu một đứa, vậy là xác định mất con... Những câu chuyện cũng là phần hồi ức đã vùi sâu được ông Sơn kể lại như để nhắc nhở bản thân về những tháng ngày khốn khó chưa xa, cũng là để khép lại quá khứ và mở ra cuộc đời mới. Đó cũng là cánh cửa tương lai cho những đứa trẻ khu tái định cư, đang hồn nhiên nô đùa trên con đường láng phẳng dẫn lối chúng đến trường.

“Truyền lửa” từ người đứng đầu

Ngôi nhà của vợ chồng ông Sơn, anh Đáp là 2 trong 5 ngôi nhà được khởi công xây dựng, ngay sau chuyến khảo sát thực địa của Bí thư Tỉnh ủy Đỗ Trọng Hưng và Giám mục Giáo phận Thanh Hóa Nguyễn Đức Cường, tại khu tái định cư Duệ Thôn hồi giữa tháng 4-2022. Với tinh thần quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt được “truyền lửa” từ người đứng đầu Đảng bộ tỉnh đến từng cấp ủy, chính quyền các cấp; đồng thời, huy động sự cộng đồng trách nhiệm của MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội và sự chung tay của các chức sắc, chức việc trong toàn Giáo phận, đến ngày 31-8-2022, 7/7 địa phương gồm Thọ Xuân, Thiệu Hóa, Yên Định, Vĩnh Lộc, Thạch Thành, Cẩm Thủy và TP. Thanh Hóa, đã rà soát, bố trí quỹ đất và lập phương án đầu tư khu tái định cư cho 232 hộ, với 242 lô đất. Đến đầu tháng 10-2022, các mặt bằng tái định cư đã được chấp thuận chủ trương đầu tư và các địa phương đang tích cực đốc thúc khởi công. Đồng thời, đã có hàng chục ngôi nhà mới được xây dựng, gắn với các phương án rà soát thực trạng lao động, kế hoạch đào tạo nghề, giải quyết việc làm của chính quyền cơ sở, nhằm tạo sinh kế ổn định cho bà con sau khi “lên bờ”. Vậy là, sau bao đời vất vả trong kiếp sống lênh đênh, tới đây hàng trăm hộ dân sẽ được an cư lạc nghiệp dưới những mái nhà “ý Đảng - tình người”. Với họ, đó là một hồng ân lớn lao, là niềm hạnh phúc được kết từ trái tim giàu yêu thương, sẵn sàng sẻ chia và đồng cảm của cả cộng đồng - dân tộc.

Có thể khẳng định, thành tựu giảm nghèo nói chung, trong đó có sự tích hợp các chính sách đặc thù dành cho nhóm dễ bị tổn thương - mà cụ thể ở đây là đồng bào sinh sống trên sông - đã góp phần khẳng định tính ưu việt của chế độ ta. Đồng thời, việc nỗ lực “đi trước một bước” nhằm đưa toàn bộ các hộ dân sinh sống trên sông lên bờ ổn định cuộc sống, từng bước thoát nghèo, đã phản ánh một bước tiến dài của tỉnh Thanh Hóa trong nỗ lực quan tâm, chăm lo, nâng cao đời sống cho người dân. Đáng nói hơn, trong quá trình xây dựng và thực thi chính sách ổn định đời sống cư dân vạn chài, nhóm đối tượng này luôn được đặt ở trung tâm, với việc bảo đảm mức sống tối thiểu tăng dần và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Đồng thời, từng bước đưa họ từ vị trí “khách thể bị động” trở thành chủ thể chính trong quá trình gây dựng một cuộc sống mới cho bản thân và gia đình họ.

Xin mượn lời thơ “Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông” để “kết” lại những câu chuyện đời người gắn với một chủ trương đúng đắn, hợp lòng dân của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa đã được biết bao cán bộ, đảng viên và người dân kiên trì, quyết tâm thực hiện trong suốt những năm qua để mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho đồng bào mình. Để tiếng hát ngợi ca tình yêu thương, ngợi ca cuộc sống và ngợi ca những con người hồn hậu mà nghĩa tình, rồi đây sẽ cất lên và vang vọng khắp những dòng sông yên bình.

Trong nỗ lực “Vì một Việt Nam không còn đói nghèo”, Thanh Hóa đã và đang nổi lên như một “điểm sáng”. Từ một tỉnh nghèo phải thường xuyên nhận cứu trợ của Trung ương, với tổng thu ngân sách mới ở ngưỡng trên dưới 1 nghìn tỷ đồng (đầu những năm 2000), thì tính riêng 9 tháng đầu năm 2022, tổng thu ngân sách trên địa bàn ước đạt 39.325 tỷ đồng, bằng 133% dự toán, tăng 56% so với cùng kỳ và đạt cao nhất từ trước đến nay. Đồng thời, kết quả rà soát theo Thông tư số 02/2022/TT-BLĐTBXH ngày 30-3-2022 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, tính đến tháng 8-2022, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh chiếm 6,77% (67.684 hộ), tỷ lệ hộ cận nghèo chiếm tỷ lệ 8,7% (86.912 hộ).

 

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất