|
Các tác giả, nhóm tác giả đoạt Giải A.
|
Kỳ 1
LTS: Thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội là mối quan hệ thứ mười được bổ sung trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, hợp thành hệ thống mười mối quan hệ lớn, thể hiện tính quy luật của đổi mới, hội nhập và phát triển ở nước ta. Yêu cầu cấp thiết hiện nay là cần nghiên cứu lý luận, đánh giá thực tiễn, trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa thực hành dân chủ, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội ở nước ta trong thời gian tới.
Để thực hiện mục tiêu và các phương hướng cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đại hội XI của Đảng chỉ rõ, “phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”(1).
Đại hội XII của Đảng điều chỉnh mối quan hệ “giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa” thành mối quan hệ “giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa”(2). Đồng thời, bổ sung mối quan hệ lớn thứ chín là mối quan hệ “giữa Nhà nước và thị trường”. Sau đó, mối quan hệ này được Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII “Về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” phát triển thành mối quan hệ “giữa Nhà nước, thị trường và xã hội”(3).
Để thực hiện các định hướng phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “chúng ta cần tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn...; và đặc biệt, mối quan hệ mới được bổ sung lần này là mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Đó là những mối quan hệ lớn, phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới của Đảng ta, cần tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện và phát triển phù hợp với thay đổi của thực tiễn; đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng và đầy đủ, quán triệt sâu sắc và thực hiện thật tốt, có hiệu quả. Tuyệt đối không được cực đoan, phiến diện”(4).
|
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ với các đại biểu tham dự tọa đàm chuyên gia một số nội dung phục vụ việc xây dựng chuyên đề hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật đến năm 2030, định hướng đến năm 2045. Ảnh: TTXVN
|
Những vấn đề lý luận cơ bản về mối quan hệ giữa dân chủ với pháp chế và kỷ cương xã hội
Như một tất yếu, các phạm trù dân chủ, thực hành dân chủ, pháp chế, kỷ cương xã hội không thể tồn tại, phát huy được giá trị, vai trò của mình nếu tách rời hay đối lập với nhau. Dân chủ và pháp luật, pháp chế, kỷ cương xã hội cần một cơ chế vận hành tổng thể để bảo đảm thực hiện một cách bền vững ở mọi nơi, mọi lúc, mọi lĩnh vực hoạt động xã hội.
Thứ nhất, dân chủ và pháp luật, thực hành dân chủ và pháp chế, kỷ cương xã hội có mối quan hệ biện chứng, tác động, phụ thuộc, hỗ trợ lẫn nhau.
Dân chủ là mục tiêu, điều kiện và động lực hoàn thiện pháp luật, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền. Pháp luật là đại lượng, phương tiện của dân chủ. Pháp luật không chỉ làm nhiệm vụ ghi nhận, xác định về mặt pháp lý của dân chủ mà còn cần “thực hành dân chủ” ngay trong đời sống pháp luật - từ xây dựng pháp luật đến thực thi pháp luật, từ các quy định pháp luật đến ý thức pháp luật và văn hóa pháp luật. Đây là cách tốt nhất để nâng cao vai trò và giá trị xã hội của pháp luật trong đời sống hiện đại.
Pháp luật là đại lượng và phương tiện của dân chủ, nhưng pháp luật cũng có tính độc lập tương đối đối với dân chủ. Pháp luật không sinh ra dân chủ, bởi dân chủ là kết quả đấu tranh lâu dài của nhân dân lao động, là kết quả của quá trình nhận thức, là tất yếu của tiến bộ xã hội. Ngoài sự quyết định và chi phối của các nhân tố kinh tế và phi kinh tế, sự phát triển của pháp luật nhìn chung phụ thuộc vào trình độ nền dân chủ hiện thời, hoặc chịu ảnh hưởng bởi các nền dân chủ khác từ bên ngoài. Đến lượt mình, dân chủ phụ thuộc vào các điều kiện khách quan của kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa.
Pháp luật với ưu thế và nhược thế riêng có của mình lại tác động trở lại đối với dân chủ. Pháp luật có thể thúc đẩy, hỗ trợ cho dân chủ phát triển và ngược lại, có thể kìm hãm dân chủ dưới nhiều hình thức. Một quy định pháp luật không rõ ràng, minh bạch hay không đúng đắn sẽ là cơ hội cho sự vi phạm, lợi dụng dân chủ. Một quyết định hành chính hay tư pháp sai trái cũng ảnh hưởng đến việc thực hành dân chủ. Đó là chưa kể đến việc ghi nhận không rõ ràng của pháp luật về cơ chế thực hiện dân chủ, các hình thức của dân chủ là trực tiếp hay thông qua đại diện.
Cùng với sự phát triển của xã hội, dân chủ và pháp luật ngày càng được hoàn thiện. Con người không chỉ có khát vọng dân chủ mà còn cần cảm nhận thực tế về dân chủ, về việc thực hành dân chủ và thực thi pháp luật. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: Nhà nước cần giáo dục cho nhân dân “biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”(5) trong khuôn khổ pháp luật.
Thực chất của công cuộc đổi mới ở nước ta là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Theo đó, dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Dân chủ là phương thức, nguyên tắc cơ bản của hoạt động quản lý của Nhà nước và xã hội, trong đó, mọi thành viên được tôn trọng, bình đẳng trong việc tham gia quyết định các vấn đề của đất nước. Đảng ta đã khẳng định, dân chủ gắn liền với công bằng xã hội phải được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. “Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, phải được thể chế hóa bằng pháp luật và được pháp luật bảo đảm... quyền đi đôi với nghĩa vụ và trách nhiệm”(6). Dân chủ không thể thực hiện được nếu thiếu pháp luật. Dân chủ là động lực, mục tiêu và tiền đề hoàn thiện của pháp luật.
Những quan niệm pháp lý mới, những điều luật mới của pháp luật đều là kết quả trực tiếp hay gián tiếp của dân chủ. Trên cơ sở đóng góp ý kiến của nhân dân, chất lượng và hiệu quả của các văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta ngày càng được nâng cao. Dân chủ cũng được thể hiện ngay trong hoạt động nghiên cứu pháp luật. Nhiều quan niệm chính trị - pháp lý đã và đang được nhận thức lại một cách khách quan hơn trên nguyên tắc kế thừa truyền thống và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các nghiên cứu về dân chủ và thực hiện dân chủ diễn ra song song với việc sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật. Từ khát vọng về dân chủ, từ sự cảm nhận dân chủ ở tầm vĩ mô trong các chủ trương, chính sách đến cảm nhận thực tế trong thực hành dân chủ ở ngay chính các cộng đồng dân cư mà trong ý thức của mỗi cá nhân, dân chủ đã có thêm một bước phát triển sâu rộng, gắn bó với đời sống thường nhật của con người.
Theo thời gian, pháp luật cũng vận động, phát triển không ngừng. Pháp luật từ chỗ chỉ được nhận thức và vận dụng như công cụ quản lý thuần túy của Nhà nước đến chỗ được nhận thức và vận dụng như công cụ - phương tiện của mỗi một cá nhân. Pháp luật không còn xa lạ với mỗi cá nhân trong xã hội hiện đại, bởi họ tìm thấy ở các quy định của pháp luật sự bảo đảm an toàn pháp lý trong mọi hoạt động của mình và dân chủ đã trở thành hiện thực khi họ được quyền biết, quyền bàn bạc, kiểm tra, giám sát, thực hiện và thụ hưởng.
Dân chủ hóa trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội cần phải được xác nhận và bảo đảm bằng pháp luật. Nếu không có những quy định pháp luật về quyền tự do sáng tác, sáng tạo của cá nhân và các quy định pháp luật về bảo vệ quyền tự do đó thì dân chủ sẽ bị vi phạm hoặc bị lợi dụng. Nói đến dân chủ là nói đến vấn đề tự do và trách nhiệm, tự do và tất yếu. Để thực sự là đại lượng của tự do, dân chủ, pháp luật phải phản ánh được những quyền lợi cơ bản và ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Dân chủ, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, bao gồm cả quyền, lợi ích, nghĩa vụ và trách nhiệm. Với nội hàm như vậy, dân chủ tất yếu phải được thể hiện dưới dạng các quy định pháp luật. Nói đến sự vi phạm dân chủ, lợi dụng dân chủ thì cũng nói thêm về sự lợi dụng những sơ hở, những khoảng trống trong pháp luật, lợi dụng quyền ban hành văn bản pháp luật hay văn bản áp dụng pháp luật để vi phạm pháp luật, và đó cũng có nghĩa là vi phạm dân chủ.
Pháp luật bảo đảm cho dân chủ vận động trong khuôn khổ, trật tự, hành lang hợp lý. Trong khi hoàn thiện quy định pháp luật về dân chủ thì cũng phải quan tâm đến việc thực thi pháp luật, tức là làm cho các quy định về dân chủ trở thành hiện thực. Hoạt động áp dụng pháp luật, do vậy, có tầm quan trọng đặc biệt trong việc thực hiện dân chủ. Nhìn từ góc độ cơ chế điều chỉnh pháp luật, dân chủ được thực hiện ở tất cả các giai đoạn của cơ chế đó, từ xây dựng, ban hành pháp luật đến thực thi pháp luật dưới nhiều hình thức khác nhau, cả trong lĩnh vực ý thức pháp luật và văn hóa pháp luật.
Dân chủ là một trong những đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, một trong những yếu tố cơ bản để “nhận diện” nhà nước pháp quyền và trình độ phát triển của xã hội, bởi lẽ, xét một cách toàn diện, nhà nước pháp quyền chính là kiểu tổ chức xã hội ở trình độ cao. Cuộc đấu tranh bảo vệ những thành quả của dân chủ cũng đồng thời là cuộc đấu tranh vì sự ghi nhận và bảo đảm thực hiện dân chủ thông qua các quy định pháp luật. Nhìn chung, thuở ban đầu, dân chủ chủ yếu thể hiện ở lĩnh vực chính trị, về sau càng lan rộng đến các lĩnh vực khác như kinh tế, văn hóa - xã hội, tư tưởng, tinh thần. Như nhiều hiện tượng chính trị - xã hội khác, dân chủ cũng có đời sống vô cùng phức tạp.
Với vai trò là đại lượng và phương tiện của dân chủ, pháp luật không thể được quy định chung chung mà phải được cụ thể hóa. Pháp luật phải quy định rõ ràng, minh bạch vấn đề quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của các cá nhân và tổ chức trong dân chủ hóa các lĩnh vực hoạt động của cá nhân và xã hội. Pháp luật cần có quy định hợp lý về tự do và trách nhiệm, về hành vi bị cấm và được phép làm để từng bước thực hiện các nguyên tắc của pháp luật trong nhà nước pháp quyền “được làm tất cả những gì pháp luật không cấm” và “chỉ được phép làm những gì pháp luật cho phép”. Thực trạng lâu nay về cái gọi là “điều cấm” theo pháp luật còn nhiều bất cập, thậm chí bỏ trống; từ đó, tạo ra sự đa dạng trong nhận thức và hành động thực tiễn.
Việc đề ra nguyên tắc “quản lý xã hội phải bằng pháp luật và đạo đức”, mọi hành vi của cá nhân, tổ chức phải không trái pháp luật và đạo đức xã hội là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết. Nhìn rộng ra, nguyên tắc đó cũng có ở trong hệ thống pháp luật của các quốc gia khác nhau. Điều đó có nghĩa là hành lang pháp lý và hành lang đạo đức xã hội sẽ là giới hạn bảo đảm cho mọi hoạt động của cá nhân, tổ chức có kỷ cương, có tự do, dân chủ và không vi phạm dân chủ.
Dân chủ không chỉ cần được thể hiện trong xây dựng, ban hành pháp luật, trong các quy định pháp luật. Sẽ không có dân chủ hoặc dân chủ bị vi phạm nếu như các quy định pháp luật về dân chủ không được thực thi hoặc thực thi sai lệch. Như vậy, hoạt động áp dụng pháp luật, thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội mà trước hết là của các cơ quan nhà nước là một phương tiện bảo đảm dân chủ và cũng là thước đo trình độ thực thi dân chủ, đồng thời là tiêu chí để nhận diện dân chủ ở nước ta hiện nay. Chúng ta đã có Quy chế Dân chủ ở cơ sở, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn nhưng việc thực hiện quy chế đó như thế nào, lại một lần nữa đòi hỏi phải được thực hiện một cách dân chủ và thực sự dân chủ.
Dân chủ phải được thể hiện trong ý thức pháp luật cũng như trong văn hóa pháp luật; điều này xuất phát từ dân chủ hóa trong lĩnh vực tư tưởng, tinh thần; được thể hiện cụ thể trong cung cấp thông tin pháp lý, giáo dục pháp luật, điều tra dư luận xã hội về nhu cầu và nhận thức pháp luật của các loại đối tượng dân cư,... Lâu nay, khi nói, khi nghĩ về “ý thức pháp luật”, chúng ta thường dừng lại ở quan niệm hẹp, với nghĩa là chỉ để làm sao cho người dân chấp hành pháp luật tốt, chưa quan tâm đến các biểu hiện phong phú, phức tạp của ý thức pháp luật, của văn hóa pháp luật. Cả từ phía người dân, nhà khoa học, người lãnh đạo, quản lý, xây dựng pháp luật, nếu không thực hiện dân chủ thì chưa thể nói đến việc hoàn thiện pháp luật, tuân thủ pháp luật và thực hành, phát huy dân chủ.
Tự do tức là nhận thức được sự tất yếu, là tuân theo những quy tắc đã đề ra. Dân chủ là quyền tham gia của người dân vào các công việc của Nhà nước và xã hội. Do vậy, pháp luật muốn làm tốt được vai trò to lớn của mình - là đại lượng và phương tiện của dân chủ, thì pháp luật phải có chất lượng, phản ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Giới hạn của dân chủ và tự do phải được xác định bằng quyền và lợi ích chính đáng của công dân, của xã hội, và theo đó, “mỗi một người dân đều phải hiểu rằng anh hãy hành động, xử sự đối với người khác và tập thể như anh muốn người ta hành động và xử sự với anh”(7).
|
Cán bộ, chiến sĩ Bộ Tư lệnh Vùng Cảnh sát biển 1 phổ biến pháp luật cho ngư dân tại huyện đảo Bạch Long Vĩ, TP. Hải Phòng. Nguồn: qdnd.vn
|
Sự nghiệp đổi mới đất nước, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, dân chủ hóa đã và đang tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống pháp luật. Gắn lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội, khuyến khích lợi ích vật chất, bảo vệ sự hưởng thụ chính đáng, phong cách làm việc có kỷ cương, tuân theo pháp luật của công dân... đang là những phẩm chất, giá trị đạo đức, giá trị và nguyên tắc pháp luật ở nước ta hiện nay. Pháp luật không chỉ là công cụ quản lý của nhà nước mà còn là công cụ của mỗi cá nhân trong xã hội hiện đại để hướng dẫn hành vi của họ, bảo đảm an toàn cho họ trước mọi sự vi phạm của các cá nhân, tổ chức.
Dân chủ và pháp luật có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn của nhân loại. Trong những không gian đa dạng, dân chủ và pháp luật từ khi xuất hiện cho đến nay đã trải qua những bước thăng trầm theo dòng thời gian lịch sử. Dân chủ không chỉ gắn liền với chế độ tư sản, mà nó có quá trình phát triển từ thấp đến cao, qua từng nấc thang giá trị, là sản phẩm của lịch sử trong tiến trình phát triển xã hội.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ của nhân dân lao động, được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; được hình thành, phát triển bằng toàn bộ những giá trị văn hóa chân thực của nhân loại. Dân chủ hóa và đẩy mạnh thực hành dân chủ là xu hướng chung của nhân loại. Xã hội càng phát triển, đời sống vật chất, trí tuệ, tinh thần của con người ngày càng phong phú thì xu hướng dân chủ hóa và thực hành dân chủ càng được mở rộng và phát huy mạnh mẽ.
Xuất hiện như một tất yếu lịch sử cùng với nhà nước, pháp luật ngay từ cội nguồn đã mang trong mình bản chất với hai phương diện thống nhất biện chứng là giai cấp và xã hội. Dân chủ là thành quả đấu tranh cách mạng của quần chúng lao động, thể hiện khát vọng tự do, bình đẳng của con người. Còn pháp luật sinh ra từ nhu cầu bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị và từ nhu cầu của nhà nước trong quản lý xã hội.
Dân chủ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với pháp luật, thực hiện pháp luật, phát huy vai trò, giá trị của pháp luật trong cuộc sống. Dân chủ và thực hành dân chủ thúc đẩy việc tăng cường pháp chế và sự tăng cường pháp chế là điều kiện căn bản bảo đảm thực hành dân chủ và bảo đảm kỷ cương xã hội. Dân chủ rèn luyện cho con người những năng lực và phẩm chất của công dân mà xã hội dân chủ đòi hỏi. Đó là mỗi công dân phải nắm vững và làm quen với các yêu cầu của văn hóa dân chủ, sống và làm việc theo phong cách dân chủ, làm việc và hoạt động trong môi trường dân chủ, đấu tranh để bảo vệ và phát triển dân chủ.
Pháp luật cũng như dân chủ vận động, phát triển không ngừng cùng với các hiện tượng xã hội khác. Tăng cường pháp chế và quản lý xã hội bằng pháp luật là nguyên tắc hiến định ở nước ta. Pháp chế là một trong những vấn đề phức tạp về lý luận, nhận thức và thực tiễn. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, việc tăng cường pháp chế có tầm quan trọng đặc biệt. Tính cấp thiết thì đã rõ, nhưng nội dung của việc tăng cường pháp chế là như thế nào, bao gồm những biện pháp nào? Tính phù hợp, khả thi, hiệu quả của các biện pháp tăng cường pháp chế trong điều kiện chưa hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức bộ máy nhà nước, trình độ văn hóa pháp luật, điều kiện về kinh tế, xã hội hiện tại ở nước ta hiện nay,... là những vấn đề cần được quan tâm, tính toán và xử lý trong việc tăng cường pháp chế trên tất cả các lĩnh vực hoạt động xã hội.
Tăng cường pháp chế phải hướng vào việc bảo đảm thực hiện những yêu cầu cơ bản: tính tối cao của Hiến pháp và các đạo luật, sự bình đẳng trước pháp luật của tất cả các chủ thể pháp luật; bảo đảm và bảo vệ các quyền, tự do, dân chủ của công dân; áp dụng đúng đắn, có hiệu quả các quy định pháp luật; đấu tranh không khoan nhượng với mọi hành vi vi phạm pháp luật; không cho phép sự lạm quyền trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, cán bộ nhà nước. Đôi khi các yêu cầu này lại được phân loại một cách cụ thể hơn, nhưng tựu trung lại cũng thuộc phạm vi những yêu cầu cơ bản nêu trên. Và, chỉ khi các yêu cầu, nguyên tắc nêu trên được thực hiện thì mới có một chế độ pháp chế chân chính, thực thụ.
Pháp chế không chỉ là một hành vi cụ thể mà là một quá trình sống động, một trạng thái tuân thủ pháp luật được áp dụng chung cho tất cả các cá nhân, tổ chức. Pháp chế là phương pháp quản lý xã hội của nhà nước, được thể hiện ở một hệ thống pháp luật phản ánh ý chí, lợi ích và xu thế phát triển xã hội và chế độ thực thi pháp luật nghiêm chỉnh, thống nhất.
Như vậy, có thể thấy, giữa đẩy mạnh thực hành dân chủ với tăng cường pháp chế và bảo đảm kỷ cương xã hội có mối quan hệ rất mật thiết, những liên hệ xã hội chặt chẽ, không thể tách rời, hợp thành hệ thống - chỉnh thể dân chủ, trong đó, các yếu tố tác động qua lại với nhau, quy định và chế ước lẫn nhau cần được nhận biết từ tư duy lý luận, cần được minh chứng từ thực tiễn đời sống xã hội trong tiến trình vận động của dân chủ hóa để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Thực hành dân chủ, trước hết là thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn trong Di chúc, là nỗ lực đầu tiên với quyết tâm chính trị của Đảng lãnh đạo và cầm quyền để xây dựng một nền dân chủ đích thực, phát triển và hoàn thiện chế độ dân chủ, xây dựng các thiết chế, thể chế dân chủ, nâng cao nhận thức và năng lực thực hành dân chủ trong Đảng, thúc đẩy thực hiện dân chủ trong Nhà nước và hệ thống chính trị, trong toàn xã hội và cùng tập trung hướng vào thực hiện dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân.
Thực hành dân chủ gắn liền với tăng cường pháp chế và bảo đảm kỷ cương xã hội tạo ra động lực thúc đẩy quá trình đổi mới sáng tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, bởi dân chủ cũng như nhà nước pháp quyền là những đặc trưng không thể thiếu của chủ nghĩa xã hội Việt Nam, là mục tiêu của đổi mới, nhất là đổi mới chính trị và hệ thống chính trị ở nước ta.
Thứ hai, những khái quát lý luận của mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội thể hiện quy luật của đổi mới, của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.
Một là, xét từ quan hệ giữa mục tiêu và những điều kiện, phương tiện để thực hiện mục tiêu thì mục tiêu nói ở đây là thực hiện và thực hành dân chủ. Tăng cường pháp chế và bảo đảm kỷ cương xã hội là điều kiện, là phương tiện để thực hiện và thực hành dân chủ. Trong mục tiêu thực hiện và thực hành dân chủ để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn liền với xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nổi bật vai trò người chủ và năng lực thực hiện quyền làm chủ của người dân. Cương lĩnh của Đảng trong thời kỳ đổi mới và hội nhập đã nhấn mạnh: Xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là xã hội do nhân dân làm chủ.
Mối quan hệ giữa thực hành dân chủ với tăng cường pháp chế và bảo đảm kỷ cương xã hội vốn tồn tại một cách khách quan, tất yếu trong quá trình vận động, xây dựng nền dân chủ và nhà nước pháp quyền cũng như trong hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật. Trong mối quan hệ này, nổi bật nhất và cũng bao trùm nhất là quan hệ giữa dân chủ và pháp luật. Tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương cũng xuất phát từ yêu cầu nhằm cụ thể hóa, hiện thực hóa pháp luật để thực hiện dân chủ và bảo vệ nền dân chủ trong xã hội, trước hết là trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước.
Phương thức cơ bản để nhân dân làm chủ là thông qua Nhà nước và các cơ quan dân cử. Pháp chế và kỷ cương là vật bảo đảm cho pháp luật được thực hiện, nhờ đó Nhà nước điều hành các hoạt động quản lý có hiệu lực, vì lợi ích và quyền lợi của nhân dân. Đó là sinh khí, là tính hiện thực của dân chủ, là những giá trị định hướng của phát triển, là xu hướng, triển vọng vươn tới, là khả năng thực tế sẽ trở thành hiện thực. Nhưng để khả năng trở thành hiện thực, cần phải có những điều kiện, những phương tiện để qua đó, nỗ lực hoạt động của các chủ thể - từ con người đến tổ chức, từ cá nhân đến cộng đồng - cùng hợp lực, hợp sức để đạt được kết quả theo ý muốn.
Với tính cách là điều kiện và phương tiện, pháp chế và kỷ cương bảo đảm cho thể chế dân chủ là Nhà nước thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, và qua đó, người dân được thụ hưởng lợi ích, được thực hiện các quyền cơ bản đã được ghi nhận trong Hiến pháp, được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ, đồng thời cũng phải thực hiện nghĩa vụ, bổn phận của mình đối với Nhà nước và xã hội. Kỷ cương được đặt ra và được mọi người cùng tuân thủ, chấp hành, chính là vừa tạo điều kiện, vừa đòi hỏi các công dân một khi đã có quyền làm chủ thì cũng phải tự giác thực hiện nghĩa vụ của người làm chủ. Luận điểm này của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thấy, quyền lợi gắn liền với nghĩa vụ, lợi ích gắn liền với trách nhiệm. Đó là thực chất của dân chủ. Theo đó, pháp luật phải được xây dựng thành pháp chế, được pháp chế hóa để bảo đảm khả năng điều chỉnh ý thức và hành vi của con người theo đúng yêu cầu, chuẩn mực pháp lý.
Hai là, mối quan hệ giữa đẩy mạnh thực hành dân chủ với tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội không chỉ nổi bật ở quan hệ giữa mục tiêu và những điều kiện, phương tiện để thực hiện mục tiêu, mà còn thể hiện ở quan hệ giữa mục tiêu với đổi mới và phát triển.
Đổi mới ở Việt Nam bắt đầu từ những khởi động của dân chủ hóa với vai trò là những xung lực chính trị và tinh thần, là lực đẩy rất quan trọng của đổi mới, hội nhập, phát triển đất nước suốt hơn 35 năm qua.
Thực hành dân chủ, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội liên quan trực tiếp tới chính trị và hệ thống chính trị, trong đó Đảng thể hiện vai trò là chủ thể lãnh đạo và cầm quyền, dẫn dắt xã hội và toàn dân tộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước được xây dựng là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là rường cột của hệ thống chính trị, thực hiện vai trò, chức năng quản lý để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình và giám sát, kiểm soát quyền lực. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội là những thiết chế thực hiện quyền lực xã hội của nhân dân. Đó là những thành tố tham gia vào hệ thống chính trị ở nước ta. Làm tốt vai trò, thực hiện đúng những thẩm quyền và trách nhiệm được phân định rõ ràng cho từng loại thiết chế quyền lực đó (Đảng - Nhà nước - mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội) là phương thức tốt nhất để thực hành dân chủ, nhất là thực hành dân chủ trong lĩnh vực chính trị, để phục vụ nhân dân, dựa vào nhân dân và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân. Ở cơ sở, việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, bảo đảm các yêu cầu dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, cùng với chú trọng thực hiện dân giám sát, dân thụ hưởng, đó chính là sự kết hợp trong thực hành dân chủ từ các tổ chức đến người dân, hoạt động chính trị trực tiếp của người dân. Sức mạnh, tác dụng, hiệu quả của sự kết hợp này được phát huy bởi dân chủ - đoàn kết - đồng thuận để phát triển.
Trong đổi mới và phát triển, chúng ta không chỉ chú trọng tới ổn định và phát triển, củng cố và bảo vệ vững chắc chế độ chính trị do nhân dân là chủ và làm chủ, mà đặc biệt quan trọng là phát triển kinh tế, bởi phải có tăng trưởng kinh tế để không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Bên cạnh đó, phải giảm thiểu thất nghiệp, tạo việc làm ổn định, tích cực xóa đói, giảm nghèo, tạo điều kiện sinh kế cho người dân, nhất là đối với người dân ở những vùng đặc biệt khó khăn. Chăm lo an sinh, phúc lợi xã hội để người dân được thụ hưởng lợi ích và có cơ hội phát triển trong đổi mới.
Thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội có nội dung tương ứng với nội dung dân chủ hóa kinh tế và dân chủ hóa chính trị cũng đồng thời là thực hành dân chủ trong kinh tế và trong chính trị, tạo cơ sở để đẩy mạnh thực hành dân chủ trong các lĩnh vực, các mặt hoạt động khác của đời sống xã hội - đó là văn hóa, tinh thần, lối sống và xây dựng môi trường xã hội dân chủ, công bằng, bình đẳng để phát triển con người.
Việc xây dựng một nhà nước pháp quyền mạnh, có hiệu lực trong quản lý, đòi hỏi phải tăng cường pháp chế, siết chặt kỷ luật, kỷ cương xã hội. Mỗi tiến bộ trong cải cách hành chính, cải cách tư pháp, trong đó có giáo dục nhận thức, nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, kỷ cương cho toàn dân, đề cao trách nhiệm, nghĩa vụ, kỷ luật công vụ và đạo đức công chức, đẩy mạnh phòng, chống quan liêu, lãng phí, tham ô, tham nhũng, thực hành tiết kiệm đều được xem là mỗi bước tiến của thực hành dân chủ trong hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Do đó, quan hệ giữa đẩy mạnh thực hành dân chủ, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, xét một cách trực tiếp, là mối quan hệ chính trị cần được nhận thức đúng về lý luận và giải quyết tốt trong hoạt động thực tiễn xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân của hệ thống chính trị. Xét trên bình diện và quy mô rộng hơn, nghĩa là trên các quan hệ kinh tế, xã hội và văn hóa, vấn đề thực hành dân chủ, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội đều tác động và ảnh hưởng tới tiến trình đổi mới và phát triển của nước ta, từ đổi mới tư duy, đổi mới kinh tế (phát triển kinh tế thị trường), đổi mới chính trị và hệ thống chính trị, với yêu cầu xây dựng nền dân chủ và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa... đến đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị. Cụ thể hơn, để đổi mới toàn diện và đồng bộ, để phát triển nhanh và bền vững, để hội nhập và hiện đại hóa đất nước, phải chú trọng đổi mới thể chế, không chỉ là thể chế kinh tế thị trường mà còn là thể chế phát triển. Đây là nhận thức mới của Đảng tại Đại hội XIII về tư duy phát triển. Từ xây dựng thể chế phát triển mà tổ chức, sắp xếp lại các tổ chức thiết chế của hệ thống chính trị sao cho bảo đảm tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Cùng với đó, phải đặc biệt chú trọng tới nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, theo hướng ưu tiên cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp chiến lược; tới phương thức phân bổ nguồn lực một cách hợp lý, hài hòa từ toàn quốc, vùng, miền, đến địa phương và cơ sở. Đó chính là tạo ra các động lực phát triển, có ý nghĩa như những đột phá của đổi mới, là nỗ lực vượt qua các điểm nghẽn của phát triển đang tồn tại ở nước ta: điểm nghẽn về thể chế, trực tiếp và trước hết là thể chế kinh tế thị trường, điểm nghẽn về hạ tầng kinh tế - xã hội (trong đó có hạ tầng kỹ thuật - công nghệ) và điểm nghẽn về chất lượng nguồn nhân lực.
Để thực hiện điều đó, cần có những đổi mới về cơ chế, chính sách trong tổng thể cũng như trong từng lĩnh vực. Pháp luật, pháp chế, kỷ cương trở nên có vai trò ngày càng quan trọng để xây dựng thể chế phát triển, tháo gỡ những lực cản của phát triển và chủ động ngăn ngừa những hệ lụy phát triển có thể gây ra, bảo đảm độ an toàn cho đổi mới (không bị chệch khỏi định hướng xã hội chủ nghĩa); đồng thời, tạo điều kiện để thực hiện và thực hành dân chủ (khắc phục được quan liêu, lãng phí, tham ô, tham nhũng), thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ và phòng, tránh cả hai biến thái của nó: tập trung quan liêu và tự do vô chính phủ.
Tóm lại, mối quan hệ giữa thực hành dân chủ với tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội là một trong những quy luật, tính quy luật của đổi mới và phát triển, của xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn liền với bảo vệ Tổ quốc ở nước ta./.
(Còn nữa)
------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011, tr. 72.
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2016, tr. 80.
(3) Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H. 2017, tr. 28, 124.
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, t. I, tr. 39
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011, t.15, tr. 293.
(6) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, in trong sách: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Phần I (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2019, tr. 439.
(7) Đào Trí Úc: Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới, Nxb. Khoa học xã hội, H.1997, tr. 358.
Kỳ 2
Thực trạng mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội
Cho dù đến Đại hội XIII, Đảng ta mới chính thức nêu lên mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, đặt nó trong sự tác động biện chứng của các mối quan hệ lớn khác, song trên thực tế, suốt hơn 35 năm đổi mới, chúng ta đã phải thường xuyên giải quyết mối quan hệ này, không chỉ trong xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị mà còn trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Những kết quả, thành tựu, những tiến bộ trong thực hành dân chủ, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội ở nước ta trong những năm đổi mới vừa qua có thể khái quát như sau:
Thứ nhất, thực hành dân chủ thông qua dân chủ hóa kinh tế. Bên thềm đổi mới và trong những năm đầu khởi động công cuộc đổi mới, Chỉ thị số 100/CT-TW, ngày 13-1-1981, của Ban Bí thư, “Cải tiến công tác khoán, mở rộng “khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động” trong hợp tác xã nông nghiệp” và Nghị quyết số 10/NQ-TW, ngày 5-4-1988, của Bộ Chính trị, “Về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp” là những quyết sách có ý nghĩa đột phá, tạo nên những chuyển biến nhanh chóng và mạnh mẽ trong phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn nước ta. Đó là khởi đầu của dân chủ hóa kinh tế, cũng là mở đầu cho thực hành dân chủ rộng rãi trong xã hội. Từ đây, nông dân và người lao động ở nước ta được giải phóng khỏi cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, được quyền tự chủ sản xuất - kinh doanh, làm chủ tư liệu sản xuất và các tư liệu sinh hoạt của mình (ra khỏi tình trạng thụ động, bị động). Thực tiễn đã khẳng định rằng, chủ trương của Đảng đề ra ngay từ những năm đầu đổi mới giải phóng sức sản xuất, giải phóng ý thức, tinh thần và mọi tiềm năng của xã hội để đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống gắn liền với dân chủ hóa xã hội(1) là một bước tiến lớn, một thành tựu to lớn của dân chủ hóa kinh tế, của thực hành dân chủ.
Đến Hội nghị Trung ương 5 khóa XII, Đảng ta đã thay đổi căn bản nhận thức về kinh tế tư nhân, đề ra chủ trương khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển, đánh giá cao tiềm năng và sự đóng góp của kinh tế tư nhân trong tăng trưởng, phát triển nền kinh tế quốc dân, khẳng định kinh tế tư nhân không những tồn tại lâu dài mà còn là một trong những động lực quan trọng phát triển nền kinh tế, phát triển đất nước. Tư nhân, không ai khác, chính là người dân làm kinh tế trên tư cách người chủ và làm chủ xã hội(2). Sự thống nhất giữa lợi ích và trách nhiệm, giữa quyền và nghĩa vụ được thực hiện. Mọi người dân, mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, được pháp luật bảo vệ.
|
Cán bộ Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bình Liêu tuyên truyền, phổ biến pháp luật tới đồng bào trên địa bàn hai xã Húc Động và Đồng Văn, huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh. Nguồn: qdnd.vn
|
Cùng với việc xóa bỏ bình quân, bao cấp, nhận thức mới về công bằng xã hội cũng đã được hình thành. Trong cơ chế thị trường, buộc phải chấp nhận cạnh tranh và phân hóa giàu nghèo, dùng pháp luật và cơ chế để điều chỉnh, điều tiết việc phân phối lợi ích, vì lợi ích chung của xã hội, tạo ổn định để phát triển, không để xảy ra bần cùng hóa, làm tổn hại tới những thành phần cơ bản trong xã hội. Tuy nhiên, công bằng và bình đẳng xã hội không chỉ được thể hiện trong phân phối lợi ích, cái cốt yếu, sâu xa, thực chất hơn của công bằng và bình đẳng xã hội là công bằng và bình đẳng về cơ hội phát triển. Mọi người dân, mọi thành viên trong cộng đồng được đặt trong môi trường đổi mới để phát triển. Đó là sự gắn kết giữa lợi ích kinh tế với bảo đảm tính nhân văn trong phát triển. Trong môi trường và điều kiện ấy, người lao động, trước hết là người nông dân đã “trở lại với chính mình”, sống và làm việc thực sự với tư cách chủ thể sáng tạo. Tâm lý, ý thức, tư duy của người nông dân cũng thay đổi căn bản, từ tư duy hiện vật (một sào ruộng làm ra bao nhiêu ki-lô-gam thóc) sang tư duy giá trị(3) (một héc-ta đất trồng thu được bao nhiêu triệu đồng). Đó là bước tiến lớn của thực hành dân chủ trong kinh tế và trong văn hóa.
Thứ hai, thực hành dân chủ trong chính trị, trong hoạt động tham chính, trong tham gia quản lý xã hội của công dân, có những biểu hiện nổi bật sau đây:
Tổ chức các hội nghị tiếp xúc, gặp gỡ, trao đổi giữa các đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND với cử tri trước khi diễn ra các kỳ họp để các đại biểu lắng nghe ý kiến, nguyện vọng cùng những kiến nghị của người dân về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, cũng như sau khi các kỳ họp kết thúc để các đại biểu báo cáo kết quả tiếp thu ý kiến của nhân dân. Tiếng nói của người dân ở cơ sở được lắng nghe, được tôn trọng. Những kiến nghị hợp lý của người dân về đường lối, chính sách đã được các đại biểu tiếp thu, kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm giải quyết và trên thực tế đã có những điều chỉnh kịp thời, đáp ứng những đòi hỏi của người dân. Đó không chỉ là kinh tế mà còn là chính trị và quản lý xã hội, ở chỗ, quyền làm chủ của người dân, sự tham gia của người dân vào đánh giá đường lối, chính sách, đổi mới chính sách và cơ chế cho phù hợp với thực tiễn được tôn trọng và thực hiện.
Trong việc tiếp dân, giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân về những biểu hiện vi phạm dân chủ, làm sai các quy định của chính sách, pháp luật của Nhà nước; những biểu hiện quan liêu, xa dân, vô trách nhiệm; những việc làm bất minh, trái đạo đức; những hành vi ức hiếp, trù dập, sách nhiễu, tham nhũng của những người thi hành công vụ khi ứng xử với người dân đã được tập hợp, nghiên cứu, điều tra và xử lý. Đó là thái độ tôn trọng dân và bằng những việc làm thiết thực mà phục vụ dân, bảo vệ dân. Đã có những bước tiến đáng kể trong việc khắc phục tình trạng tiếp dân một cách hình thức, lời hứa không đi liền với thực hiện, tình trạng đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan trong bộ máy công quyền. Tổ chức cho nhân dân tham gia đóng góp ý kiến vào các dự thảo văn bản luật, các dự thảo văn kiện của Đảng qua các kỳ đại hội.
Việc đẩy mạnh thực hành dân chủ trong những năm gần đây còn được chú trọng bằng cách, tạo môi trường và cơ chế để nhân dân tham gia kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa những hành vi lợi dụng chức quyền của các cán bộ, đảng viên vi phạm các nguyên tắc hoạt động của Đảng và pháp luật của Nhà nước, làm những điều sai trái, mưu cầu danh lợi và những cấu kết nhóm lợi ích, gây tổn hại tới lợi ích chung của xã hội, làm hoen ố thanh danh của Đảng và sức mạnh của Nhà nước.
Thực hành dân chủ, do đó, gắn chặt với thực thi pháp luật, pháp chế và siết chặt kỷ luật, kỷ cương. Nhờ đẩy mạnh thực hành dân chủ với tiếng nói của người dân, hành vi của người dân được tôn trọng mà cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng có những kết quả rất rõ rệt. Việc xử lý nghiêm minh các vụ án tham nhũng đã góp phần quan trọng vào việc làm trong sạch bộ máy, loại bỏ những kẻ thoái hóa, biến chất, bảo vệ lợi ích, tài sản quốc gia, làm tăng niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ.
Thứ ba, thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã tạo động lực thúc đẩy quần chúng nhân dân phát huy vai trò làm chủ, xây dựng nền dân chủ XHCN và Nhà nước pháp quyền XHCN, xây dựng và củng cố hệ thống chính trị, nhất là ở cơ sở nông thôn.
Thực hiện hai văn bản quan trọng này, đã tạo chuyển biến tích cực về tâm lý, nhận thức, ý thức làm chủ từ hai phía người dân và cán bộ, công chức, giữ vững ổn định về chính trị, tiến tới tăng trưởng mạnh về kinh tế và thúc đẩy sự phát triển toàn diện (xã hội, chính trị, văn hóa,...). Những mâu thuẫn, xung đột trong nội bộ nhân dân được kịp thời giải quyết. Hiểu biết về chính sách, pháp luật, thực hiện kỷ luật, kỷ cương của người dân được nâng cao. Đảng và Nhà nước đã kịp thời bổ sung, hoàn thiện các văn bản pháp quy về dân chủ ở cơ sở, về thực hành dân chủ từ cơ sở gắn với thực hiện dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp - là hai phương thức cơ bản về thực hành dân chủ ở nước ta.
Cùng với việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, đã hình thành các phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng văn hóa khu dân cư, xây dựng gia đình văn hóa và xây dựng nông thôn mới. Đây là giải pháp rất thiết thực, tạo xung lực và sự bổ trợ cần thiết để đẩy mạnh thực hành dân chủ, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.
Thứ tư, áp dụng phương thức hội nghị toàn dân hay đại diện dân cử (các chủ hộ trong từng gia đình) để dân bầu trực tiếp trưởng thôn (ở nông thôn), tổ trưởng khu dân cư (ở đô thị). Đây là công việc thể hiện rõ vai trò của người dân: được tự do lựa chọn người đại diện xứng đáng của mình để ủy quyền và trao quyền. Qua đó, có thể khẳng định, hiệp thương dân chủ của mặt trận Tổ quốc kết hợp với tập trung dân chủ làm phong phú các hình thức và phương thức thực hành dân chủ, xây dựng nền dân chủ ở nước ta trong đổi mới và dân chủ hóa.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hành dân chủ, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội ở nước ta hiện nay còn một số hạn chế, yếu kém.
Một là, vẫn còn không ít biểu hiện của dân chủ hình thức trong sinh hoạt đảng, trong hoạt động quản lý nhà nước và hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Việc thực hiện, tuân thủ pháp luật và pháp chế trong đời sống xã hội chưa thật nghiêm chỉnh. Vẫn còn những biểu hiện coi thường luật pháp, cố ý làm trái hoặc lợi dụng những kẽ hở trong các văn bản pháp luật vốn chưa hoàn thiện để làm sai, làm trái, liên kết lợi ích nhóm vì lợi ích cục bộ, lợi ích cá nhân, làm phương hại tới lợi ích chung.
Hai là, nguyên tắc tập trung dân chủ bị vi phạm khá phổ biến và nghiêm trọng. Dân chủ trong Đảng và trong xã hội còn bị vi phạm. Kỷ cương, kỷ luật ở nhiều cấp, nhiều lĩnh vực không nghiêm. Một số cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ lãnh đạo thiếu tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của đảng viên, ít lắng nghe ý kiến cấp dưới; cán bộ lãnh đạo ở một số nơi còn có biểu hiện gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền, mất dân chủ hoặc dân chủ hình thức. Còn thiếu những quy chế xác định trách nhiệm cụ thể của cán bộ, đảng viên, dẫn đến vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa không khuyến khích được những cán bộ, đảng viên nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung(4).
Ba là, vẫn còn không ít nơi, không ít cán bộ, đảng viên chưa thực hiện sự nêu gương, chưa coi nêu gương là trách nhiệm, nghĩa vụ, bổn phận như Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25-10-2018, của BCH Trung ương khóa XII về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên BCH Trung ương” đã đề ra. Tình trạng này cũng gắn liền với sự tha hóa quyền lực, tha hóa nhân cách ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cao.
Bốn là, còn có sự không đồng bộ và thiếu nhất quán giữa đổi mới tổ chức thiết chế với hệ thống thể chế, với chất lượng cán bộ, rộng hơn là nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị, kể cả việc giáo dục ý thức chính trị, thói quen tuân thủ pháp luật và coi trọng đạo đức trong nhân dân. Những biểu hiện của việc coi thường kỷ cương, luật pháp, phép nước không nghiêm, sự “nhờn luật”, thói quen ứng xử “phép vua thua lệ làng” còn khá phổ biến và nặng nề. Đó là biểu hiện yếu kém về thực hiện văn hóa dân chủ, văn hóa pháp luật.
Năm là, tệ nạn thường đi liền với tiêu cực. Phòng, chống tham nhũng chưa đủ mạnh. Trong phòng, chống tham nhũng, chưa chú ý đúng mức đến việc phê phán và xử lý các tiêu cực xã hội, trước hết là trong hệ thống Đảng và các cơ quan công quyền. Những sự việc, vụ việc tiêu cực vẫn thường xảy ra làm cho xã hội bất an, đời sống bất ổn, con người sống trong cảm giác không an toàn... là bằng chứng cho thấy thực hành dân chủ, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương còn tồn đọng rất nhiều vấn đề nhức nhối cần phải giải quyết(5).
Việc tồn tại một số hạn chế, yếu kém về thực hành dân chủ, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội bắt nguồn từ những nguyên nhân cụ thể sau:
Một là, sự chỉ đạo, lãnh đạo của một số cấp ủy và chính quyền trong việc tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước vẫn là khâu yếu kéo dài, có nơi buông lỏng, thực hiện một cách hình thức, hời hợt nên các quyết sách dù rất quan trọng nhưng chậm đi vào cuộc sống, ít tác dụng, hiệu quả. Chủ nghĩa quan liêu, chủ nghĩa kinh nghiệm, bệnh hình thức, giáo điều, chủ quan, duy ý chí ở nhiều nơi vẫn còn tồn tại dai dẳng, tác động và ảnh hưởng rất nặng nề tới tư duy và hành động của nhiều tổ chức trong hệ thống chính trị và nhiều cán bộ, đảng viên.
Hai là, do tác động của mặt trái của kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, khuynh hướng thiên về những lợi ích vật chất, sự nảy sinh tâm lý làm giàu bằng mọi cách, lối sống hưởng thụ, thực dụng trong xã hội ngày càng gia tăng, trong khi ở một số nơi lại chưa chú trọng giáo dục đạo đức, định hướng các giá trị đạo đức, tinh thần lành mạnh cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Việc xây dựng nền văn hóa mới và con người mới ở nhiều nơi chưa được coi trọng và đầu tư đúng mức, chưa ngang tầm với đầu tư phát triển kinh tế. Đó là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến tình trạng suy đồi, xuống cấp của đạo đức xã hội vẫn còn nguy cơ gia tăng.
Ba là, việc định hướng dư luận xã hội tích cực ở nhiều nơi chưa được thực hiện tốt; việc quản lý không chặt chẽ, xử lý không nghiêm minh những thông tin xấu, độc tràn lan trên các phương tiện truyền thông xã hội, làm ô nhiễm đời sống tinh thần xã hội, nhất là đối với thế hệ trẻ, cũng là biểu hiện của sự hạn chế, yếu kém trong thực hành dân chủ, tăng cường pháp chế, siết chặt kỷ luật, kỷ cương xã hội.
Bốn là, việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn có lúc, có nơi không được thường xuyên, nghiêm túc. Nguyên tắc tập trung dân chủ khi vận dụng vào thực tiễn có nhiều sai sót, thậm chí bị biến dạng, làm phương hại tới việc thực hành dân chủ, suy giảm sức mạnh của pháp chế, kỷ cương xã hội.
Năm là, sự buông lỏng quản lý, kiểm tra, giám sát, không thực hiện nghiêm trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trong đó có nêu gương về đạo đức, tuân thủ pháp luật, pháp chế, kỷ cương xã hội cũng là tác nhân dẫn tới những ảnh hưởng xấu trong xã hội, trong nhân dân, và khi những ảnh hưởng xấu đó được những thế lực thù địch, cơ hội chính trị xuyên tạc, kích động thì dễ dẫn tới những lộn xộn, mất an ninh, trật tự.
Quan điểm, phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội
Để nâng cao nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trong thời gian tới cần quán triệt các quan điểm sau:
Thứ nhất, nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội phải phù hợp với nguyên tắc quyền lợi đi đôi với nghĩa vụ, trách nhiệm cá nhân, vì lợi ích quốc gia, dân tộc.
Ngày nay, nhận thức, thực hành dân chủ phải trên cơ sở các nguyên tắc và tinh thần của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa gắn quyền, lợi ích của công dân với sự phát triển bền vững của xã hội. Quyền, nghĩa vụ, tự do đi liền với trách nhiệm - đó là tiền đề, là điều kiện bảo đảm cuộc sống của mỗi người dân, cộng đồng, các quốc gia và toàn nhân loại. Nghĩa vụ pháp lý là thành tố tất yếu của mối quan hệ tương tác giữa nhà nước, pháp luật và cá nhân; nếu thiếu nó thì không thể có được sự cân bằng trong các mối quan hệ xã hội, các loại lợi ích, trong hoạt động xã hội và môi trường xã hội. Cũng như đối với quyền con người, nghĩa vụ pháp lý cũng mang tính phổ quát và tính đặc thù, cái làm nên những điểm tương đồng và khác biệt tất yếu của các bản hiến pháp trên thế giới. Nghĩa vụ là mặt thứ hai của một thể thống nhất biện chứng của quyền và nghĩa vụ, do vậy, có tính giá trị hữu ích cho sự tồn tại của con người và các tổ chức do con người lập ra. Nghĩa vụ pháp lý, nhất là các nghĩa vụ hiến định, chính là vật cản hợp pháp trong cuộc sống thường ngày đối với mọi sự lạm quyền, độc đoán, tùy tiện, vô chính phủ và đối với tất cả những hiện tượng tiêu cực khác ảnh hưởng đến các quyền, tự do luật định của con người.
Thứ hai, nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội phải trên cơ sở phát huy vai trò, tăng cường hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở.
Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò to lớn trong việc nâng cao nhận thức và triển khai thực hiện dân chủ ở cơ sở, vận động nhân dân chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Cần phát huy vai trò và đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở, đặc biệt là các cấp ủy cơ sở. Các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trước hết phải được quán triệt và thông suốt trong cán bộ, đảng viên ở cấp cơ sở, tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động.
|
Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về an ninh biên giới, chủ quyền lãnh thổ cho các em học sinh các dân tộc tại Trường Trung học phổ thông Mường Nhé (huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên). Ảnh: TTXVN
|
Các cấp ủy phải thường xuyên lãnh đạo chặt chẽ quá trình thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường, thị trấn; cùng với đó, phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân để có chương trình, kế hoạch tổ chức và thực hiện hiệu quả. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân không chỉ là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân và đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân tham gia quản lý nhà nước, mà còn có vai trò to lớn trong việc phát huy và thực hành dân chủ. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân là những diễn đàn thể hiện tiếng nói của nhân dân trong tham gia đóng góp ý kiến với Đảng và Nhà nước, đồng thời tham gia kiểm tra, giám sát, phản biện xã hội đối với hoạt động của Đảng và Nhà nước.
Thứ ba, nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội phải đáp ứng yêu cầu tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, tuân thủ pháp luật, xây dựng văn hóa, phẩm chất đạo đức, nhân văn.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc nhận thức, thực hành dân chủ phải trên cơ sở nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật và bảo đảm kỷ cương xã hội. Yêu cầu đó không chỉ được đặt ra đối với Nhà nước, pháp luật mà đối với tất cả mọi cá nhân, tổ chức. Cần hình thành văn hóa dân chủ theo nguyên tắc pháp quyền, trên cơ sở quyền và lợi ích con người, vì sự phát triển xã hội.
Nhận thức và thực hành dân chủ phải trên cơ sở các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền. Tiêu biểu trong số đó là các nguyên tắc cơ bản: nguyên tắc công bằng, nhân đạo; nguyên tắc bình đẳng; nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các quyền, tự do của con người và công dân; nguyên tắc thượng tôn hiến pháp, pháp luật; nguyên tắc “được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm”; nguyên tắc “chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép”; nguyên tắc công khai, minh bạch,...
Thứ tư, nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội phải đáp ứng yêu cầu xử lý nghiêm minh mọi hành vi lợi dụng quyền con người, tự do, dân chủ để vi phạm pháp luật, chống phá chế độ, xâm phạm lợi ích cá nhân, tổ chức.
Pháp chế và kỷ cương xã hội là điều kiện cần thiết để duy trì dân chủ trên cả hai bình diện: các giá trị, nguyên tắc dân chủ và các định chế dân chủ. Điều đó là tất yếu, bởi dân chủ không thể tồn tại nếu thiếu một môi trường pháp lý, khung pháp luật. Dân chủ chỉ có thể được bảo đảm và thực thi trên thực tế trong khuôn khổ của một chế độ pháp chế vững chắc.
Thượng tôn pháp luật là điều kiện tiên quyết để dân chủ được thực hành rộng rãi và thực chất. Theo đó, đòi hỏi mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội, từ cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội đến mọi công dân, đều phải tôn trọng và thực hiện các nghĩa vụ pháp lý và phải chịu trách nhiệm bắt buộc khi vi phạm pháp luật, lợi dụng quyền con người, tự do, dân chủ để vi phạm pháp luật, chống phá chế độ, xâm phạm lợi ích cá nhân và tổ chức.
Phương hướng nâng cao nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội là:
Bám sát Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, đặc biệt là phương châm, chủ đề của Đại hội, những bài học kinh nghiệm quý báu được Đảng tổng kết từ thực tiễn đổi mới, những quan điểm chỉ đạo của Đảng trong thực hiện các nhiệm vụ phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045; lấy đó làm cơ sở, định hướng đẩy mạnh thực hành dân chủ, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Đó là những phương hướng lớn, vừa thể hiện định hướng mục tiêu, vừa là những quan điểm chỉ đạo đổi mới, nhất là đổi mới hệ thống chính trị, để phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, thực hành dân chủ, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, phục vụ cuộc sống, hạnh phúc của người dân trên cơ sở phát huy tính chủ động, sáng tạo của người dân. Theo đó, thực hành dân chủ gắn với tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội là để củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện và phát huy vai trò chủ thể của nhân dân, tạo ra động lực mạnh mẽ từ nhân dân, trong các phong trào thi đua yêu nước của nhân dân, trong đổi mới, kiến tạo xã hội dân chủ, phát triển nhanh và bền vững đất nước, thực hiện khát vọng phát triển đất nước, làm cho đất nước cường thịnh, dân tộc trường tồn. Đó vừa là khát vọng, mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vừa là khát vọng, mong muốn của toàn Đảng, toàn dân.
Nhằm tiếp tục nâng cao nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, nâng cao nhận thức về mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.
Cơ sở quan trọng để có thể giải quyết đúng đắn, đầy đủ mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, đó chính là nhận thức đúng bản chất, ý nghĩa, tầm quan trọng của mối quan hệ cốt lõi này. Nhận thức đúng đắn mối quan hệ này được đặt ra đối với từng cá nhân, tổ chức và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, lãnh đạo các tổ chức đảng, đoàn thể nhân dân.
Cần có những giải pháp bền vững, trong đó có giải pháp xây dựng văn hóa thực hành dân chủ và pháp luật. Để người dân có thể thực hiện đúng, đầy đủ quyền và trách nhiệm của mình, cần nâng cao năng lực làm chủ cho người dân, tức là tạo cho người dân có kiến thức, kỹ năng và thái độ, thói quen trong thực hiện dân chủ. Năng lực làm chủ của người dân phụ thuộc trực tiếp vào hai yếu tố: quyền được tiếp cận thông tin và trình độ học vấn, sự hiểu biết về xã hội của người dân.
Cần chú trọng đầu tư công tác giáo dục dân chủ, pháp luật và đạo đức. Quan tâm nâng cao trình độ dân trí và bảo đảm quyền được tiếp cận thông tin của người dân. Đây là các giải pháp chủ yếu để nâng cao năng lực làm chủ, bảo đảm quyền và trách nhiệm của người dân trong thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa nói chung và dân chủ ở cơ sở nói riêng.
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong việc nâng cao nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa thực hành dân chủ, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.
Sự lãnh đạo của Đảng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, bảo đảm cho các nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được thực hiện trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội đều phải tuân thủ pháp luật và tôn trọng pháp luật.
Đảng lãnh đạo, cầm quyền phải thực sự trong sạch, vững mạnh, gương mẫu thực hành dân chủ trong Đảng và tuân thủ Hiến pháp, pháp luật. Đây là giải pháp then chốt và có tính quyết định; đồng thời, cũng là điều mong đợi, quyết tâm của Đảng và là điều mong muốn của toàn dân đối với Đảng.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước phải bảo đảm tính minh bạch, công khai, tuân thủ đúng pháp luật, không áp đặt, bao biện, làm thay công việc quản lý của Nhà nước. Các cấp ủy, chi bộ, đặc biệt là các chi bộ thôn, buôn, làng cần tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo việc phổ biến, học tập và thảo luận, đóng góp ý kiến đối với Quy chế Dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn để việc thực hiện dân chủ ở cơ sở đạt hiệu quả cao hơn nữa.
Chủ động đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Các cấp ủy cần làm tốt công tác nắm bắt diễn biến tư tưởng cũng như những biểu hiện về hành vi của cán bộ, đảng viên trong cơ quan, đơn vị để có giải pháp ngăn chặn, đẩy lùi phù hợp, kịp thời. Cần thường xuyên tổ chức diễn đàn trao đổi, đối thoại về những vấn đề còn có nhận thức, quan điểm khác nhau liên quan đến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Có biện pháp xử lý nghiêm minh đối với những hành vi lợi dụng dân chủ, nhân quyền để gây rối trật tự công cộng, chống phá đất nước.
Ba là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, góp phần đẩy mạnh thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.
Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật là điều kiện đặc biệt quan trọng để đẩy mạnh thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Đây là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài và vô cùng phức tạp.
Các nhóm giải pháp chủ yếu về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bao gồm: giải pháp về cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan có trách nhiệm xây dựng pháp luật; về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật; về chế độ kiểm soát, trách nhiệm, xử lý vi phạm trong xây dựng pháp luật; về góp ý, phản biện xã hội, đánh giá tác động của pháp luật; về kiểm soát chất lượng văn bản pháp luật;...
Thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa trên cả hai mặt - dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013. Vì vậy, cần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý rõ ràng và hiệu quả để thực hiện quy định này. Tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý đối với dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện cho phù hợp với tình hình mới.
Bốn là, củng cố nền tảng đạo đức của các thể chế công vụ và tư pháp.
Một yêu cầu quan trọng đối với việc thực hành dân chủ, tăng cường pháp chế và bảo đảm kỷ cương xã hội là củng cố nền tảng đạo đức của các thiết chế công vụ và tư pháp. Thực tiễn thực thi pháp luật ở Việt Nam, nhất là trong lĩnh vực công vụ và tư pháp đã cho thấy, pháp luật cần song hành với các yếu tố, giá trị khác trong xã hội như đạo đức, sự liêm chính, tài năng và sự tận tụy. Một hệ thống tư pháp liêm chính và có uy tín có ý nghĩa quan trọng trong việc đấu tranh chống tham nhũng và duy trì trật tự pháp luật(6).
Hoàn thiện thủ tục xét xử giám đốc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao theo hướng minh bạch, nâng cao chất lượng xét xử, đề cao trách nhiệm và năng lực kiểm tra giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để thiết chế đó thực sự là đỉnh cao của công lý, làm cho người dân thực sự tin tưởng vào thiết chế đó. Định hướng cải cách đó được đặt ra trên cơ sở nhận thức sâu sắc rằng, việc tòa án xét xử các vụ án hành chính, các khiếu kiện của công dân đối với các quyết định và hành vi của cơ quan công quyền có tác dụng làm giảm thiểu các hiện tượng tiêu cực, quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, trốn tránh trách nhiệm trong bộ máy hành chính nhà nước.
Năm là, nâng cao năng lực của công dân trong việc sử dụng, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng.
Tiếp tục nâng cao dân trí và ý thức pháp luật, sự hiểu biết pháp luật cho người dân. Đây là vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Tri thức, ý thức pháp luật, sự hiểu biết pháp luật, tình cảm, thái độ đối với pháp luật và hành vi của các cá nhân con người có ảnh hưởng quan trọng đến quá trình giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho họ, giúp họ biết sống và làm việc theo pháp luật, nhận thức được về quyền, biết tôn trọng quyền của người khác, biết bảo vệ quyền của mình khi bị xâm hại. Cần tạo thói quen tuân thủ pháp luật và đề cao trách nhiệm của công dân; củng cố niềm tin của công dân vào pháp luật và các cơ quan thực thi pháp luật.
Sáu là, tăng cường sự tham gia của người dân vào quản trị nhà nước, phòng, chống tham nhũng và tiêu cực.
Sự tham gia của người dân vào quản trị nhà nước, phòng, chống tham nhũng và tiêu cực có mối quan hệ với việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Điều đó đòi hỏi phải bổ sung vào Quy chế Dân chủ ở cơ sở các nguyên tắc, tiêu chí hiện đại về sự tham gia của người dân vào quản trị quốc gia, phòng, chống tham nhũng và tiêu cực. Người dân và các tổ chức cần được tạo đầy đủ cơ hội để tham gia vào hoạt động xây dựng chính sách, pháp luật. Đây là điều kiện bảo đảm dân chủ trong pháp luật ngay từ khâu xây dựng, ban hành, bảo đảm những tiêu chuẩn về tính công khai, minh bạch ngay từ khi mới hình thành ý tưởng chính sách. Sự tham gia phản biện chính sách, pháp luật của người dân cũng là điều kiện bảo đảm cân bằng các loại lợi ích giữa các thành viên trong xã hội, tránh “nhóm lợi ích” thao túng, tham nhũng chính sách.
Để góp phần tăng cường sự tham gia của người dân vào quản trị nhà nước, phòng, chống tham nhũng và tiêu cực, cần thực hiện tốt công tác hòa giải ở cơ sở, không để xảy ra tình trạng khiếu kiện, mất đoàn kết kéo dài trong nhân dân. Thường xuyên kiểm tra, lấy ý kiến góp ý của người dân về cán bộ, công chức tiếp nhận và giải quyết công việc. Xử lý nghiêm những cán bộ, công chức có hành vi sách nhiễu, hách dịch người dân, vô trách nhiệm trong công việc; kịp thời khen thưởng cán bộ, công chức hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Bố trí lịch tiếp dân, địa điểm tiếp dân thật chu đáo. Tiếp tục triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính. Chuẩn bị các điều kiện kỹ thuật, nhân lực để có thể xây dựng chính quyền điện tử tới cấp xã.
Một số điều kiện cơ bản bảo đảm sự tham gia của người dân vào quản trị nhà nước, phòng, chống tham nhũng và tiêu cực ở nước ta hiện nay theo hướng bền vững và hiệu quả là: điều kiện về khung khổ chính sách, pháp luật; điều kiện về bảo đảm cung cấp thông tin, pháp luật, kiến thức cần thiết; điều kiện về bảo đảm sự minh bạch, công khai.
Thực hiện nghiêm chỉnh chế độ trách nhiệm giải trình, đối thoại giữa các cơ quan nhà nước và xã hội, giữa đơn vị, tổ chức xã hội với các thành viên. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể nhân dân đối với việc bảo đảm sự tham gia của người dân vào quản trị nhà nước, phòng, chống tham nhũng và tiêu cực.
Đổi mới cách thức, nội dung phổ biến, giáo dục về sự tham gia của người dân vào quản trị nhà nước, phòng, chống tham nhũng và tiêu cực. Tạo lập, nuôi dưỡng niềm tin bền vững trên cơ sở cân bằng lợi ích, bảo đảm lợi ích trong việc tham gia của người dân vào quản trị nhà nước, phòng, chống tham nhũng và tiêu cực.
Bảy là, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về khiếu nại của công dân.
Bảo đảm quyền khiếu nại của công dân sẽ góp phần quan trọng vào việc phòng, chống tham nhũng, lãng phí và tiêu cực, trong sạch hóa bộ máy nhà nước. Việc tăng cường hoạt động bảo đảm quyền khiếu nại của công dân phải dựa trên nhận thức đúng về mối quan hệ giữa nhà nước và công dân, phải được tiến hành đồng thời với quá trình dân chủ hóa.
Cần xây dựng hệ thống pháp luật về khiếu nại đầy đủ, đồng bộ, thống nhất với hệ thống pháp luật nói chung, hệ thống quy phạm pháp luật về khiếu nại nói riêng. Hoàn thiện cơ chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả, trách nhiệm thanh tra, kiểm tra, giám sát của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước đối với việc bảo đảm quyền khiếu nại của công dân. Xây dựng, thực hiện chế độ trách nhiệm đối với việc bảo đảm quyền khiếu nại và xử lý nghiêm minh các vi phạm quyền khiếu nại của công dân. Đồng thời, nâng cao năng lực và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ, công chức, đặc biệt là các cán bộ, công chức thực hiện những nhiệm vụ liên quan đến việc bảo đảm quyền khiếu nại của công dân. Đây là giải pháp có tính chất quyết định.
Tám là, gắn chặt thực hành dân chủ với thực hành đại đoàn kết, xây dựng xã hội đồng thuận, đồng thời đẩy mạnh học tập và làm theo theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nhất là phong cách dân chủ, gần dân, tin dân, trọng dân, thương dân, vì dân của Người.
Theo đó, cần đề cao thực hành đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: chống chủ nghĩa cá nhân như chống “giặc nội xâm” nguy hiểm nhất. Chú trọng nêu gương, bởi “một tấm gương sống còn quý hơn hàng trăm bài diễn văn tuyên truyền”, thực hiện “lời nói đi đôi với việc làm”. Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tôn trọng pháp luật, gương mẫu thi hành pháp luật và Điều lệ Đảng, thực hiện đúng những điều đảng viên không được làm để bảo đảm sự nghiêm minh, chặt chẽ của pháp chế, kỷ luật và kỷ cương xã hội./.
------------------
(1), (3) Xem: Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (Đồng chủ biên): Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến nay (xuất bản lần thứ ba), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011, tr. 205.
(2) Xem: Hoàng Chí Bảo (Chủ biên): Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2003, tr. 158.
(4) Xem: Vũ Trọng Lâm: “Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng ta hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, số 957, tháng 1-2021, tr. 42.
(5) Ngày 16-9-2021, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 32-QĐ/TW, “Về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ làm việc, quan hệ công tác của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực” (thay thế Quy định số 211-QĐ/TW, ngày 25-12-2019, của Bộ Chính trị, “Về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ làm việc, quan hệ công tác của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng”). Việc đổi tên và bổ sung chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn chỉ đạo phòng, chống tiêu cực của Ban Chỉ đạo là bước tiến mới, mạnh mẽ hơn trong công cuộc xây dựng và chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn từ gốc những biểu hiện tiêu cực để ngăn ngừa từ xa các hành vi tham nhũng.
(6) Xem: Susan Rose - Ackerman: Corruption and Government - Causes, Consequences, and Reform, (Tạm dịch: “Tham nhũng và quản trị: Nguyên nhân, hệ lụy và cải cách”), Cambridge University Press, 1999, tr. 200-201.