Bài 1: Phát triển tính quy luật và quy luật chính trị với định vị chiến lược vị thế, nâng cao năng lực và trách nhiệm cầm quyền của Đảng hiện nay
Tháng 5-1969, trong Di chúc của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Đảng ta là một đảng cầm quyền”(1). Và, 42 năm sau đó, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội...”(2). Đảng cầm quyền, đối với chúng ta, vẫn luôn là vấn đề cực kỳ hệ trọng, hết sức phong phú và mới mẻ. Năm 2011, Đảng ta tiếp tục chỉ rõ: “Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”(3). Năm 2016, tại Đại hội XII, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn khẳng định: “Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền, xác định rõ mục đích cầm quyền, phương thức cầm quyền, nội dung cầm quyền, điều kiện cầm quyền; vấn đề phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền; các nguy cơ cần phải phòng ngừa đối với đảng cầm quyền”(4). Đó là những nội dung chủ yếu của hai trong sáu nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng trong tầm nhìn 2016 - 2021(5).
Rõ ràng, trước yêu cầu mới đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước, chưa khi nào như hiện nay, vấn đề đảng cầm quyền càng trở nên cấp bách. Đây là việc rất cơ bản, mệnh hệ, xuyên suốt và quán xuyến các quyết sách chính trị và thực tiễn cầm quyền của Đảng ta không chỉ hơn 70 năm qua và hiện nay đang đặt ra những vấn đề rất mới cần giải quyết vừa cấp bách, vừa có ý nghĩa chiến lược. Qua thực tiễn, một trong những kinh nghiệm lớn ngày càng chứng tỏ trên phương diện này là, chúng ta khó có thể giải quyết thành công một vấn đề sai lầm nào đó bằng cái tư duy đã “đẻ” ra nó. Vì, chính trị không được đặt trên nền tảng chân lý chỉ là chính trị mù quáng, khi đó vô hình nó đã sỉ nhục chân lý, và nhất định chính trị sẽ tự diệt vong.
Do vậy, trong rất nhiều vấn đề quan trọng chung quanh việc nâng cao vị thế, năng lực và trách nhiệm cầm quyền của Đảng hiện nay, tối thiểu về phương diện đổi mới tư duy và tổ chức thực tiễn, nổi bật 10 loại vấn đề mang tính quy luật và quy luật chính trị mang ý nghĩa phương pháp luận có ý nghĩa cơ bản và cấp bách, cần giải quyết:
Quy luật cầm quyền với tính chính danh và chính pháp của Đảng
Lịch sử Việt Nam hơn 86 năm qua, nhìn bao quát, có thể nói là lịch sử đất nước lựa chọn, khẳng định và thực thi mục tiêu phát triển đất nước gắn với sự lựa chọn đảng chính trị lãnh đạo đất nước vì mục tiêu đó. Đảng Cộng sản Việt Nam được lịch sử dân tộc, nhân dân Việt Nam lựa chọn là người duy nhất cầm quyền, là người duy nhất lãnh đạo đất nước, lãnh đạo xã hội, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trong “một rừng” đảng phái chính trị ở Việt Nam ngay từ lúc đương thời mới sinh ra và tới hiện nay, trải hơn 86 năm. Nói cụ thể, lịch sử đất nước những thập niên đầu tiên của thế kỷ XX là lịch sử dân tộc Việt Nam lựa chọn và khẳng định mục tiêu phát triển gắn với sự lựa chọn đảng chính trị lãnh đạo đất nước bị rên xiết trong vòng nô lệ bởi xiềng xích thực dân, vì mục tiêu đó. Từ lịch sử dân tộc cho thấy, lúc bấy giờ, sự ra đời của các đảng chính trị đủ màu sắc và quy mô, là cuộc đấu tranh giữa các đảng chính trị trong việc giành vị thế cầm quyền đất nước... Và, tất cả được thử thách qua sự lựa chọn và đào thải của lịch sử, ở nước ta.
Năm 1930, qua hơn nửa thế kỷ, kể từ năm 1858, lúc bấy giờ, đất nước rên xiết trong vòng nô lệ của chủ nghĩa thực dân Pháp và chế độ phong kiến, tương lai dân tộc độc lập, nhân dân được thực thi và hưởng thụ quyền dân chủ, dường như bế tắc, không có lối thoát. Độc lập tự do hay là chết? Hàng loạt cuộc khởi nghĩa do giai cấp nông dân, các sĩ phu yêu nước Việt Nam ngõ hầu trả lời câu hỏi lịch sử đó, nhưng đều lần lượt thất bại. Các đảng chính trị đại diện cho các giai cấp, tầng lớp xã hội ở nước ta lúc bấy giờ nhảy ra tranh đoạt vũ đài lịch sử dân tộc, đông đúc chưa từng thấy: Từ đảng của giai cấp nông dân như Nghĩa hưng (năm 1907); đảng của giai cấp tư sản, địa chủ, như Lập hiến (năm 1923)... tới đảng của tầng lớp thanh niên, sinh viên, trí thức tiểu tư sản, như Việt Nam nghĩa đoàn, Đảng Thanh niên, Đảng An Nam độc lập (năm 1927), Việt Nam quốc dân đảng (năm 1927)... rồi đảng của bọn tay sai của đế quốc Pháp và phát - xít Nhật, như Đại Việt quốc gia xã hội đảng, Đại Việt quốc dân đảng (những năm 40 tới khi Việt Nam giành được độc lập bằng cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945), các đảng phản động, như Việt Nam quốc dân đảng (Việt Quốc), Việt Nam cách mạng đồng minh hội (Việt Cách)... Trong số ấy, chỉ một số đảng mong chấn hưng đất nước nhưng “lực bất tòng tâm”, số còn lại những mưu toan tính biến đất nước thành nơi thử nghiệm những mưu đồ chính trị của giai cấp, tầng lớp họ. Nhưng rốt cuộc, tất cả những đảng đó đã lùi vào dĩ vãng của lịch sử và bị dân tộc chôn vùi rất lặng lẽ trái với sự huyên náo đến hỗn loạn lúc các đảng này xuất hiện trên chính trường Việt Nam lúc bấy giờ. Các đảng này hoặc tự phải diệt vong hoặc bị giải tán. Theo đó, các giai cấp, tầng lớp đại diện cho các đảng đó cũng cáo chung vai trò lãnh đạo dân tộc: Từ giai cấp nông dân, giai cấp tư sản, địa chủ tới tầng lớp học sinh, sinh viên, trí thức tiểu tư sản... Câu hỏi thách thức của lịch sử về vị trí, vai trò của đảng chính trị đối với vận mệnh cứu đất nước khỏi vòng nô lệ, nhân dân khỏi xiềng xích vong quốc nô, lầm than... vẫn đang bỏ ngỏ.
Đồng thời trong thời gian ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Trên phương diện chủ quan, không ồn ào như các đảng trên ra đời từ sớm, mà trái lại, do Đảng Cộng sản bị kẻ thù vây bủa, đàn áp đẫm máu, bị các đảng khác đương thời chèn ép, tranh đoạt, đã lặng lẽ hiện diện, thậm chí ở nước ngoài. Bởi, Đảng là “đứa con nòi” của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam (trong xích xiềng nô lệ thực dân), được hun đúc bởi truyền thống yêu nước thương nòi Việt Nam, dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nguyện chiến đấu và hy sinh vì mục tiêu độc lập dân tộc gắn chặt với chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, chủ nghĩa Mác - Lê-nin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước tự nhiên và tất yếu dẫn tới việc Đảng ra đời, làm nên bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Về khách quan, lúc bấy giờ, xã hội Việt Nam “giấu một cái gì đang sục sôi, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến”; bởi ở Việt Nam “sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi”, cấp bách đòi hỏi “bộ phận ưu tú có nhiệm vụ phải thúc đẩy cho thời cơ đó mau đến” và “chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi”(6). Đảng Cộng sản Việt Nam xuất hiện gánh vác trọng trách lịch sử sinh tử đó như một tất yếu không gì cưỡng và cản nổi. Và, ngày 3-2-1930, cuộc hội ngộ chín muồi giữa khát vọng độc lập tự do cháy bỏng của dân tộc với xu thế phát triển khách quan của thời đại toàn nhân loại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mà Đảng Cộng sản Việt Nam là người kết tinh, chung đúc những tố chất của một đảng vô sản kiểu mới và thực tế đủ bản lĩnh chính trị và năng lực trí tuệ lãnh nhiệm trọng trách ấy của đất nước đặt ra và được nhân dân tin theo Đảng, trong thời đại mới.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả sự vận động tất yếu của lịch sử dân tộc, của thời đại và phù hợp với nhu cầu của nhân dân, được nhân dân thừa nhận, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Điều đó làm nên địa vị lịch sử của Đảng một cách tất yếu. Sinh ra trong lòng dân tộc và đồng hành cùng dân tộc bẻ gãy gông xiềng nô lệ quàng lên cổ đất nước, giành lại độc lập cho Tổ quốc, lập nên chính quyền của nhân dân, và Đảng trở thành đảng cầm quyền. Vấn đề quan trọng hơn hết và quyết định tất thảy là, địa vị cầm quyền đó của Đảng đã được bảo đảm bởi thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam suốt hơn 86 năm qua; và, vị thế nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa hơn 70 năm qua, dưới ngọn cờ của Đảng, trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định và trọng thị. Vì, không có trọng trách gì nặng nề và vẻ vang hơn, dù trong hoàn cảnh nào, Đảng luôn là đội tiền phong chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam - giai cấp đại biểu cho yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất tiên tiến; Đảng không có lợi ích nào cao hơn rằng, Đảng là đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị” (7). Mục tiêu phấn đấu của Đảng không có gì khác ngoài “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong vị thế vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân. Cũng bởi vì, “quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một... cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”(8). Do đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành “Đảng của chúng ta”, “Đảng của dân tộc chúng ta”... Đảng là đạo lý Việt Nam.
Và đi trên con đường xã hội chủ nghĩa tới cái đích cao quý ấy được Đảng Cộng sản Việt Nam vạch ra ngay lúc mới ra đời. Qua hơn 70 năm cầm quyền, Đảng cùng toàn dân tộc xây dựng nên một nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã và đang giữ một vị thế mới trên trường quốc tế mà bất cứ ai cũng thấy. Qua 30 năm lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta càng trưởng thành toàn diện. Trước thềm Đại hội XII của Đảng (tháng 1-2016), dư luận quốc tế nhận định: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo là chính đảng duy nhất cầm quyền là một mô hình thành công đặc biệt và mô hình này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhất là đối với các nước đang phát triển vì rất nhiều mô hình đã được thử nghiệm, nhưng chưa thấy mô hình nào thành công”; “Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đang được hưởng một cuộc sống ấm no, hạnh phúc trong một đất nước hòa bình và ổn định, với nền kinh tế không ngừng tăng trưởng khởi sắc. Thành công của Việt Nam cũng là thành công của toàn thế giới. Mô hình của Việt Nam đã đạt đến mô hình của chủ nghĩa xã hội”(9). Đó là trí tuệ Việt Nam mà Đảng là sự kết tinh và thể hiện tập trung, sinh động nhất như một lẽ tự nhiên, đáp lại sự khát bỏng về giải đáp nhu cầu lịch sử tất yếu.
Trọng trách cầm quyền của Đảng, vinh dự được cầm quyền của Đảng trước nhân dân là do lịch sử dân tộc giao phó và được nhân dân Việt Nam thừa nhận, ủy thác và tin theo, chứ tuyệt đối không phải “từ trên trời rơi xuống” hay sự sắp xếp chủ quan của bất cứ ai, sự ngộ nhận của bất cứ giai cấp, tầng lớp nào. Nhân đây, trước một số ý kiến lưỡng lự hoặc công kích về chuyện một đảng hay đa đảng ở Việt Nam, cũng xin được nói thêm. Từ những năm 40 tới những năm 90 của thế kỷ XX, cùng với Đảng Cộng sản Việt Nam, ở nước ta, còn có hai đảng là Đảng Dân chủ Việt Nam (ra đời ngày 30-6-1944 và tự giải tán vào ngày 20-10-1988) và Đảng Xã hội Việt Nam (ra đời ngày 22-7-1946 và tự giải tán tròn 42 năm sau đó, ngày 22-7-1988) đều thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng dân tộc Việt Nam tranh đấu vì một nước Việt Nam độc lập, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nghĩa là, Việt Nam đã từng và có một thời kỳ lịch sử không ngắn, ngót nửa thế kỷ, sau khi dân tộc giành lại độc lập và toàn vẹn lãnh thổ, nhân dân được hưởng nền tự do, cùng với Đảng Cộng sản Việt Nam, đã từng có nhiều đảng chính trị khác hoạt động và tự giải tán, chứ đâu phải câu chuyện hão về “đảng toàn trị” hoặc đâu cần ai khuyến nghị “... muốn có dân chủ, phải đa đảng” (!).
Rõ ràng, từ năm 1930 tới nay, Đảng xuất hiện, “đứng mũi chịu sào” trước lịch sử và gánh vác trọng trách nhân dân giao phó là hợp quy luật, hợp lòng dân và hợp với xu thế phát triển của thời đại. Bởi, Đảng là “đứa con nòi” của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, được hun đúc bởi truyền thống yêu nước thương nòi Việt Nam, dưới ngọn cờ của Chủ nghĩa Mác - Lênin, quyết phấn đấu, hy sinh và trưởng thành trong lòng dân tộc, vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, Chủ nghĩa Mác- Lênin kết hợp với phong trào yêu nước Việt Nam và phong trào công nhân chung đúc nên tư chất mà Đảng là hiện thân. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, gánh vác trọng trách lịch sử là một tất yếu không gì cưỡng và cản nổi. Và, thực tế hoạt động hơn 86 năm qua, trong đó có 71 năm cầm quyền, càng khẳng định địa vị cầm quyền của Đảng một cách tất yếu, phù hợp với lịch sử dân tộc, khát vọng của nhân dân và xu thế thời đại.
Bước vào thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, quy mô, tốc độ và chiều sâu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, trong thế giới diễn biến phức tạp, khôn lường, hơn bao giờ hết, đòi hỏi chúng ta tiếp tục phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp, theo hướng hiện đại và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế đang đặt ra trước Đảng những trọng trách mới, với những thời cơ mới to lớn và những thách thức rất nặng nề.
Có thể nói gọn lại, lịch sử dân tộc Việt Nam sinh ra Đảng Cộng sản Việt Nam, đến lượt mình, Đảng đáp lại yêu cầu của lịch sử dân tộc, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về quy mô, tốc độ, chiều sâu của công cuộc phát triển đất nước và phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại. Đó là biện chứng phát triển tự nhiên và tất yếu của dân tộc Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là nhu cầu phát triển tất yếu của đất nước hiện nay, trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dưới ngọn cờ của Đảng.
Đó là tính tất yếu cầm quyền của Đảng, tính chính danh, chính pháp, chính tín bảo đảm tư cách pháp lý và đạo lý để Đảng cầm quyền; và, qua thực tiễn, Đảng nâng cao và phát triển tính chính năng, chính thực, chính uy để thực thi thành công trách nhiệm công việc cầm quyền của mình.
Vai trò lãnh đạo duy nhất, mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, trách nhiệm pháp lý và lịch sử cầm quyền của Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Đảng là người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Sự khẳng định đó có gì khác với luận đề: Đảng ta là một Đảng cầm quyền, như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định?
Không. Đó là sự thống nhất tự nhiên. Lãnh đạo là một khái niệm mang nội hàm rộng hơn khái niệm cầm quyền. Nó bao hàm khái niệm cầm quyền; đến lượt nó, khái niệm cầm quyền lại phong phú hơn, cụ thể hơn và thể hiện tập trung và sinh động khái niệm lãnh đạo. Diễn đạt cụ thể, đây là cặp khái niệm thể hiện cái chung và cái riêng. Nhưng trên thực tiễn từ khi giành được chính quyền, trong cầm quyền có sự lãnh đạo, nhưng trong lãnh đạo, chỉ thể hiện mức độ nào đó sự cầm quyền trên ý tưởng và tầm nhìn. Sở dĩ cần khu biệt tương đối như thế, để có thể thống nhất, hiểu đúng và tổ chức một cách hiệu quả những công việc cầm quyền của Đảng hết sức phức tạp, sinh động và cụ thể hiện nay. Diễn đạt cách khác, qua đó, để Đảng nhận chân những công việc cần làm một cách khoa học và tất yếu của một đảng cầm quyền, theo vị thế mà Đảng định vị do Hiến pháp hiến định, chức năng mà đảng nắm giữ theo vị thế xã hội và trách nhiệm mà đảng cần thực thi theo bổn phận một cách minh bạch và dân chủ, trong khuôn khổ của pháp luật. Đó là tính chính danh công việc cầm quyền của Đảng, với tư cách là duy nhất đảng cầm quyền, chứ tuyệt nhiên không phải là thứ “đảng toàn trị” như ai đó bôi nhọ hoặc xuyên tạc.
Nói khái quát, hiện nay, Đảng cầm quyền là sự tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong điều kiện có quyền lực nhà nước và Đảng lãnh đạo xã hội bằng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, đồng thời lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị - xã hội và dân tộc Việt Nam bằng phương thức và nghệ thuật phù hợp thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Như thế, Đảng cầm quyền chính là, không phải việc gì Đảng cũng trực tiếp tổ chức thực thi, nhưng cũng đồng thời có nghĩa rằng, bất cứ việc gì diễn ra trong xã hội cũng không nằm ngoài tầm quán xuyến và chi phối của Đảng. Đảng là hạt nhân, là trung tâm của hệ thống chính trị, nhưng theo nghĩa nào đó, Đảng không phải là toàn bộ hệ thống chính trị. Nói cụ thể, Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng Đảng tuyệt đối không “lấn quyền” Nhà nước, không phải là Nhà nước, càng không phải là “Đảng hóa Nhà nước”; đến lượt mình, Nhà nước không phải là “bản sao” của Đảng, “Nhà nước hóa Đảng”, làm những công việc của Đảng và “đóng dấu bản quyền” Nhà nước lên đó. Nghĩa là Đảng lãnh đạo Nhà nước nhằm bảo đảm sự thống nhất hành động, dưới sự dẫn dắt của Đảng, Nhà nước hoàn thành trọng trách theo vị thế và chức năng của mình thực hiện mục tiêu chung của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, tầm nhìn chính trị bao quát nhưng cụ thể của Đảng - người lãnh đạo trong vị thế là người cầm quyền - phải là năng lực chuyên biệt nổi bật trước hết về chính trị của một đảng chính trị. Đó là chính năng của Đảng.
Nguyên tắc cầm quyền và trọng tâm của việc cầm quyền trước hết và trực tiếp là, Đảng lãnh đạo Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân nói riêng, lãnh đạo hệ thống chính trị - xã hội và toàn xã hội nói chung. Tất cả vì nhân dân là chủ, để nhân dân làm chủ và bảo đảm phục vụ vô điều kiện cho nhân dân thực thi vị thế và trách nhiệm của mình một cách toàn diện, triệt để và sâu sắc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, trên con đường xã hội chủ nghĩa. Đảng lãnh đạo để nhân dân là chủ và làm chủ đất nước, làm chủ chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, đó là mục tiêu tối thượng của sự nghiệp cầm quyền của Đảng. Nói cách khác, đó là yêu cầu về sự cân bằng và hài hòa giữa địa vị, vai trò cầm quyền và mục tiêu cầm quyền của Đảng đối với sự phát triển của đất nước hiện nay.
Đảng không phải là cơ quan quyền lực nhà nước nhưng Đảng giữ quyền lực về chính trị, quyền lực về tư tưởng chính trị, quyền lực về tổ chức bộ máy và nhân sự, quyền lực về kiểm tra... chi phối và dẫn dắt đối với toàn bộ hệ thống chính trị và sự vận động của chế độ, của đất nước. Đó là vai trò tiên phong chính trị và trách nhiệm chính trị xã hội của Đảng. Đảng tự nguyện và tất yếu hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật do Nhà nước xây dựng theo ý chí của nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó là bổn phận của Đảng hoạt động trong xã hội Việt Nam lấy thượng tôn pháp luật làm tối cao. Vai trò, các quyền năng và bổn phận đó của Đảng được nhân dân trao cho, vì hạnh phúc của nhân dân, vì sự phát triển bền vững của đất nước, sự trường tồn của dân tộc. Điều đó cũng tự nhiên như nhân dân ủy thác cho Nhà nước quyền lực của mình, và khi Nhà nước phụ lòng và “làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”(10), nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nghĩa là, Đảng không phải, không thể, và trong thực tế phải giữ mình không được phép là cơ quan “siêu quyền lực”(!), “đứng trên quyền lực của Nhà nước và quyền lực của nhân dân”(!) “đứng ngoài, đứng trên Hiến pháp và pháp luật”... như có người ngộ nhận; và, khi dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân không được “đứng trên nhân dân”, “cai trị nhân dân”(!), như một số người vẫn lầm tưởng hoặc cố tình bôi nhọ. Những luận điệu vu cáo của một số người về điều ấy đã cho thấy, sự phủ nhận mà không thể phân biệt đúng sai thì chính lại là cái thiển lậu của những vị “thày bói xem voi”, cái thất bại của người kiêu ngạo tự cho mình nắm được chân lý, nhưng kỳ thực chỉ là thủ đoạn “đảo lộn khoa học”, như Ph.Ăng-ghen nói, hoặc như kiểu trò hề, như dân gian nói: “Mang thúng úp voi” mà thôi.
Theo đó, không thể “Đảng hóa Nhà nước” hay “Nhà nước hóa Đảng”...; càng không thể phạm vào quan liêu, mệnh lệnh, tham nhũng, lợi ích nhóm hay nhóm lợi ích..., dù là Đảng hay Nhà nước. Vì, Đảng cầm quyền chứ không phải Đảng là Nhà nước, Đảng làm thay việc hay tiếm quyền Nhà nước. Vì, Đảng cầm quyền nhưng dân là chủ và để dân làm chủ. Mọi “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(11). Trái nguyên tắc đó, Đảng sẽ biến chất, không xứng đáng là “đứa con nòi” của nhân dân. Nếu Đảng đứng trên, đứng ngoài pháp luật của Nhà nước thì nhất định Đảng không còn giữ vai trò là người lãnh đạo được nữa. Qua 71 năm cầm quyền, Đảng chưa bao giờ áp đặt với bất kỳ ai, bất cứ lực lượng nào “... phải thừa nhận quyền lãnh đạo của mình”, mà trái lại, Đảng không ngừng “phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”(12), như lãnh tụ Hồ Chí Minh khẳng định. Một lần nữa, đặc biệt nhấn mạnh, đó là phương châm cầm quyền của Đảng.
Đó cũng chính là sự thách thức từ thực tiễn, là yêu cầu đổi mới trước hết trong nhận thức về sự cầm quyền được định vị, phân định đúng chức năng và định rõ trách nhiệm của Đảng. Con đường dân tộc đi tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, do Đảng lãnh đạo, đã rõ ràng, không thể đảo ngược nhưng đang chất đầy những khó khăn, cản trở, chông gai và thậm chí cả cạm bẫy. Đó là công việc của toàn xã hội, của toàn hệ thống chính trị, dưới ngọn cờ của Đảng, phải giải quyết. Và cũng hợp lẽ tự nhiên, theo quy mô, tốc độ và chiều sâu của sự nghiệp đổi mới, vị thế, vai trò, năng lực cầm quyền và trách nhiệm lịch sử - pháp lý của Đảng, vì thế, càng phải được tiếp tục khẳng định và không ngừng phải được nâng cao, ngang tầm nhiệm vụ lịch sử mới ngày càng rộng lớn và sâu sắc.
Đó cũng chính là quy luật phát triển và trưởng thành của Đảng trong lòng dân tộc, cùng đất nước, nhịp bước với thế giới hiện nay.
Nguyên tắc cầm quyền toàn diện và duy nhất cầm quyền, phương châm cầm quyền của Đảng để nhân dân là chủ và làm chủ đất nước
Về nguyên tắc: Đảng không chia sẻ quyền lãnh đạo cho bất kỳ ai hoặc buông lỏng quyền đó - quyền mà lịch sử và nhân dân giao phó cho Đảng là người “đứng mũi chịu sào” trước lịch sử. Làm trái đi là Đảng tự tước bỏ vị trí, vai trò cầm quyền của mình; là đi ngược với lịch sử, đi ngược với nguyện vọng của nhân dân và dân tộc mà Đảng là đại biểu trung thành, trái với đạo lý Việt Nam mà Đảng là sự chung đúc với tư cách “là đứa con nòi”; là thoái thác trách nhiệm lịch sử mà dân tộc giao phó trong vị thế “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.
Về phương hướng: Đảng cầm quyền để đưa nước Việt Nam độc lập tự do lên chủ nghĩa xã hội. Đó là mục tiêu bất di bất dịch, là xu hướng, là quy luật phát triển tất yếu của Đảng, của đất nước đồng thời là nguyện vọng của nhân dân lao động, trong thời đại ngày nay.
Về phương châm: Đảng cầm quyền để nhân dân là chủ và nhân dân làm chủ, được thực thi và bảo đảm bởi Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, trong một xã hội Việt Nam dân chủ, công bằng, văn minh phát triển không ngừng, được bảo đảm bởi pháp luật giữ vị thế thượng tôn. Đó cũng chính là biểu hiện tập trung nhất, sinh động nhất toàn bộ mục tiêu cầm quyền của Đảng. Nói cách khác, mục tiêu đó phải chi phối và quán xuyến toàn bộ hoạt động của Đảng. Vì Đảng “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”, Đảng “là đứa con nòi của giai cấp lao động” và Đảng “của cả dân tộc Việt Nam”.
Về chiến lược và sách lược cầm quyền: Trên phương diện này, cần thấu triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dĩ bất biến ứng vạn biến”. Cái bất biến là mục tiêu cầm quyền chiến lược của Đảng, là lý tưởng phấn đấu cao cả của Đảng: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Theo đó, Đảng hoạch định cương lĩnh chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo từng thời kỳ, trên cơ sở đó hoạch định những quyết sách chính trị theo từng giai đoạn một cách phù hợp. Điều cần khắc sâu là, tính chiến lược, thống nhất, phù hợp và hiệu quả phải xuyên suốt toàn bộ công việc cầm quyền của Đảng.
Phát triển cơ sở cầm quyền căn bản, phong phú, bền vững và rộng rãi của Đảng
Sự cầm quyền của Đảng không phải từ “trên trời rơi xuống”, “tự nhiên mà có”, như ai đó tự huyễn hoặc, càng không phải sự mơ ước ảo tưởng của ai, sự cứu cánh của một lực lượng xã hội chung chung hay sự tất yếu kinh tế, chính trị, xã hội... mơ hồ nào đó. Như thế, Đảng ta không còn là một đảng chính trị nữa, càng không đủ khả năng làm nhiệm vụ của đảng cầm quyền. Trái lại, công việc cầm quyền của Đảng phải được bảo đảm bởi những cơ sở lý luận và cơ sở hiện thực.
Về cơ sở lý luận chính trị cầm quyền: Cái làm nền tảng để mọi hoạt động của Đảng diễn ra đúng quy luật và hợp lòng dân, hợp với thời đại là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Dù thế giới có đổi thay thế nào, cái bất biến về lý luận cầm quyền đó của Đảng không thể thay đổi. Điều đó không hề mâu thuẫn với việc Đảng chủ động không ngừng thâu thái những lý thuyết tinh hoa và tiến bộ khác trên thế giới một cách cầu thị lý luận và kinh nghiệm của các đảng cầm quyền trên thế giới; không kỳ thị và xa lánh những lý thuyết chính trị khác, thậm chí cả những lý thuyết chính trị không phù hợp với mình... để tự làm giàu một cách toàn diện lý thuyết và thực tiễn cầm quyền của Đảng. Đồng thời, tôn trọng và lắng nghe nhân dân, “học ở nơi dân chúng”, để tiếp thụ, thâu hóa thực tiễn, bổ sung và phát triển lý luận và kinh nghiệm cầm quyền của mình phục vụ nhân dân. Cần nhấn mạnh là, các tổ chức đảng hết sức xem trọng và nâng cao trình độ tổng kết thực tiễn gắn với nghiên cứu lý luận nhằm phát triển lý luận cầm quyền hiện nay. Chỉ có như thế, Đảng mới thực sự có cơ hội, điều kiện và tự mở ra nhiều cơ hội và khả năng trong việc trung thành và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh hợp với điều kiện cụ thể và xu thế phát triển của thời đại, không ngừng nâng cao tính cách mạng, khoa học của lý luận và thực tiễn cầm quyền.
Về cơ sở pháp lý cầm quyền: Bước lên vũ đài lịch sử với tư cách là Đảng lãnh đạo cách mạng trở thành Đảng cầm quyền, kể từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và cùng với dân tộc, qua rèn luyện và tranh đấu, được lịch sử giao phó, nhân dân tin theo, Đảng là người duy nhất cầm quyền, được hiến định. Đảng ta không ngộ nhận càng không tự vơ vào mình trọng trách lịch sử đó, như bất cứ ai đều thấy. Đó là sự trưởng thành vượt bậc của Đảng trong lòng dân tộc và phát triển cùng đất nước trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Qua đó, Đảng ngày càng vững mạnh và trưởng thành. Thực tiễn công cuộc cầm quyền của Đảng không chỉ được hiến định và pháp luật bảo vệ từ phương diện pháp lý trên vị thế “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân” mà bền chặt và sâu sắc hơn là, uy tín chính trị trong nhân dân và bạn bè quốc tế và thực lực chính trị trong vị thế cầm quyền đã tôn vinh chỗ đứng về đạo lý và lương tâm “vừa là trí tuệ, vừa là danh dự” của dân tộc Việt Nam, với tư cách là “đứa con nòi của giai cấp lao động” nước ta.
Cả về bình diện pháp lý và phương diện đạo lý đã bảo đảm cho Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền một cách chính danh, quang minh chính đại chứ không “tự vơ lấy” quyền đó, không ảo tưởng về mình thực thi quyền đó, và càng không ai có thể bác bỏ được, tranh đoạt được quyền lực chính trị đó.
Về cơ sở kinh tế - xã hội cầm quyền: Tiếp tục xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo hướng hiện đại, phát triển mạnh mẽ và bền vững, với xung lực là kinh tế tri thức; một xã hội có nền chính trị ổn định, văn minh và tiến bộ. Nói cách khác, không có sức mạnh của quyền năng kinh tế thật khó có sức mạnh bền vững của quyền lực lãnh đạo chính trị. Vì, hơn lúc nào hết, hiện nay, chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, sức mạnh của nền kinh tế đất nước.
Do đó, ở góc độ khác, trên phương diện này, phải không ngừng tạo dựng cho được văn hóa của sự phát triển bền vững, trước hết là văn hóa chính trị của Đảng, dựa trên nền tảng một nền kinh tế vững mạnh theo định hướng xã hội chủ nghĩa; và tới lượt nó, tiếp tục chỉ đạo, dẫn dắt, thấm sâu vào toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của đất nước, không ngừng chủ động hội nhập quốc tế đúng hướng và hiệu quả nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, trong bất cứ tình huống nào.
Về cơ sở xã hội - chính trị cầm quyền: Nhân dân muốn bảo đảm được quyền lực của mình, phải có sự lãnh đạo của Đảng; đến lượt Đảng, muốn giữ vững vị thế và vai trò cầm quyền của mình, cần củng cố cái nền nhân dân, phải coi trọng “dân là gốc”, “dân làm gốc”... Vì, Đảng ta là “đứa con nòi xuất thân từ giai cấp lao động”, bởi “Gốc có vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”, như Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ dẫn. Không vì nhân dân, sự tồn tại của Đảng là vô nghĩa đối với lịch sử và đối với ngay cả cương lĩnh chính trị của Đảng. Trong điều kiện nước ta, việc xác định phải có Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng của cách mạng, tập hợp dưới ngọn cờ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, là một sáng tạo lớn của Đảng cầm quyền. Đó cũng chính là tư tưởng “dân vi bản” (dân làm gốc), “phúc chu thủy tín dân do thủy” (làm lật thuyền mới biết sức dân mạnh như nước) của ông cha ta hàng ngàn năm nay, từ thuở dựng nước, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là người chung đúc và phát triển trong xây dựng Đảng, mà Đảng ta - “đứa con nòi của giai cấp lao động” và dân tộc Việt Nam tiếp thụ, kết tinh và thể hiện, trong thời đại mới.
Nội dung cầm quyền toàn diện nhưng nắm chắc khâu cơ bản và then chốt
Nhận sứ mệnh lịch sử dân tộc giao phó, là người duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng chịu trách nhiệm trước lịch sử dân tộc, trước nhân dân Việt Nam về vận mệnh và sự phát triển của nước Việt Nam. Theo đó, nội dung cầm quyền của Đảng phải bao quát và chi phối một cách toàn diện, triệt để và sâu sắc toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Ở đây, cần nhấn mạnh mấy vấn đề có ý nghĩa chiến lược quan thiết nhất:
Trên bình diện chính trị: Việc hoạch định đường lối chính trị là trọng trách căn bản của Đảng. Nếu toàn bộ chiến lược phát triển của đất nước thuộc quyền hoạch định của Đảng trên cơ sở góp ý xây dựng của toàn dân; và Đảng chịu trách nhiệm trước toàn dân về việc tổ chức thực tiễn đường lối chiến lược đó thì chất lượng và hiệu quả thực hiện đường lối chính trị đó, đến lượt nó, quyết định vị thế chính trị, sự tồn tại và vai trò cầm quyền của Đảng. Do đó, nâng cao trình độ hoạch định đường lối chính trị, với tầm nhìn chiến lược nhưng cụ thể và hiệu quả, là trọng trách trước hết, quyết định sự sống còn của công việc cầm quyền.
Mặt khác, Đảng có trọng trách xác lập thể chế chính trị xã hội đất nước trên cơ sở đường lối chính trị của Đảng trên ba bình diện: cơ cấu tổ chức chính trị xã hội, cơ chế vận hành xã hội và những điều kiện cần và đủ bảo đảm cho hai vấn đề trên. Theo đó, việc lãnh đạo trực tiếp hệ thống chính trị là công việc mang tính tất yếu và được bảo đảm bằng pháp luật. Lãnh đạo xây dựng và phát triển Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân theo hướng một nhà nước kiến tạo và phát triển, trên nền móng thượng tôn pháp luật.
Trên bình diện kinh tế: Xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Vấn đề mấu chốt là, phải tăng nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất bằng con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn chặt với việc không ngừng hoàn thiện quan hệ sản xuất tiên tiến, phù hợp và hiện đại, nâng cao năng lực tích cực, chủ động hội nhập quốc tế.
Việc phát triển kinh tế phải đồng thời với phát triển chính trị và văn hóa, thậm chí trong nhiều trường hợp tính chính trị và văn hóa của sự phát triển kinh tế phải được xem là quá trình đi trước sự phát triển kinh tế đơn thuần để tránh các quy luật “cá lớn nuốt cá bé”, “kinh tế vị kinh tế”, “tiền vì tiền”, “tăng trưởng bằng mọi giá”, bất chấp sự hủy hoại môi trường sinh thái... như đã từng diễn ra ở các nước khác cùng tiến hành kinh tế thị trường và đã, đang chỉ ra cho chúng ta nhiều bài học nhãn tiền nguy hại. Đó là lợi thế so sánh tuyệt đối của sự phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại, với xung lực là kinh tế tri thức, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Và điều quán xuyến đó phải được thể hiện cụ thể từ việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội tới việc xây dựng hệ chính sách công cụ quản lý vĩ mô và hệ chính sách đòn bẩy nhằm quản lý và phát triển nền kinh tế - xã hội hài hòa và bền vững.
Trên phương diện văn hóa - xã hội: Đây là một trong những lĩnh vực cầm quyền chủ yếu của Đảng. Trên nền tảng xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, dân tộc và hiện đại, việc trực tiếp và trọng tâm của Đảng tiếp tục là xây dựng văn hóa chính trị nói chung, trực tiếp là văn hóa cầm quyền của Đảng nói riêng. Nói cách khác, là xây dựng một nền văn hóa trong Đảng hiện đại, dân chủ và tiến bộ. Đó phải là một nhân tố rường cột, một bộ phận hữu cơ trong tổng thể chiến lược xây dựng một nền văn hóa của sự phát triển đất nước mạnh mẽ và bền vững, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế một cách hài hòa và hiệu quả.
Trên lĩnh vực đối ngoại, an ninh, quốc phòng: Chủ động hội nhập quốc tế, với phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”, luôn cầu thị, không kỳ thị, không xa lánh, không biệt phái, “không gây thù oán với một ai”, dù các đảng cầm quyền hoặc chưa cầm quyền trên thế giới, như Chủ tịch
Hồ Chí Minh mong muốn. Lấy độc lập dân tộc làm căn bản, gìn giữ hòa bình, hữu nghị làm trọng sự, coi hợp tác làm động lực, tôn trọng mọi đối tác, mọi đối trọng,... trên nền tảng bang giao hòa hiếu của dân tộc, phù hợp với thông lệ và luật pháp quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại...
Có thể hình dung, nội dung cầm quyền xoay chung quanh việc xử lý hiệu quả các mối quan hệ lớn, mang tính cơ bản, mệnh hệ tới con đường xã hội chủ nghĩa Việt Nam: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ;... theo tám phương hướng cơ bản do Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và 15 phương diện, 6 nhiệm vụ trọng tâm do Đại hội XII của Đảng quyết sách. Cần khắc sâu, trong 6 nhiệm vụ trọng tâm, Đảng thực hiện 2 nhiệm vụ về xây dựng Đảng, đủ thấy tầm vóc và sự cần thiết về vấn đề cốt tử này.
Và, chủ động xử lý tốt hàng loạt những quan hệ chủ yếu, phát sinh khác xuất hiện trên lộ trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc nói chung và xây dựng Đảng vững mạnh, trong sạch nói riêng.
Phương thức cầm quyền dân chủ, linh hoạt nhưng tập trung, thống nhất và hiệu quả của Đảng
Nếu trước đây, khi Đảng ta chưa giành được chính quyền, phương thức lãnh đạo của Đảng là lãnh đạo nhân dân lao động giành lấy quyền lực nhà nước, lập nên Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và Đảng trực tiếp lãnh đạo bộ máy nhà nước thì hiện nay, Đảng tiếp tục tìm tòi và phát triển các phương thức lãnh đạo dân chủ theo hướng ngày càng phát huy năng lực và hiệu lực quản lý xã hội, tổ chức, huy động lực lượng và sức mạnh nhân dân bằng tổng thể các biện pháp kinh tế, chính trị, xã hội, pháp lý thông qua bộ máy của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và hệ thống chính trị - xã hội để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nói khái quát, mọi phương thức cầm quyền của Đảng phải bảo đảm Đảng thực thi mục tiêu để đất nước độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, để nhân dân thực sự là chủ và làm chủ, để dân tộc đại đoàn kết và hòa mục quốc tế bốn phương; qua đó, nâng vao vị thế, sức mạnh và uy tín cầm quyền của Đảng.
Mối quan hệ giữa mục tiêu cầm quyền và phương thức cầm quyền của Đảng là mối quan hệ giữa cái bất biến và cái khả biến, giữa mục tiêu và phương tiện. Phương thức cầm quyền cơ bản của Đảng hiện nay là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, sử dụng và giám sát Nhà nước trong vị thế công cụ quyền lực pháp lý, một phương tiện có hiệu lực pháp lý để tổ chức và quản lý xã hội mới, phát triển mọi tiềm lực và sức mạnh của toàn dân tộc theo đường lối chính trị của Đảng, một cách dân chủ, pháp quyền và đạo đức. Theo đó, Đảng tập trung vào ba bình diện chủ yếu của việc cầm quyền theo pháp luật: một là, lãnh đạo lập pháp; hai là, đi đầu, nêu gương tuân thủ pháp luật; ba là, kiểm tra, giám sát, kỷ luật bảo đảm việc hành pháp thật sự hiệu lực và hiệu quả, công việc tư pháp công minh, công bằng, dân chủ và nghiêm nhặt.
Về nguyên tắc, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước phải trực tiếp, toàn diện nhưng có trọng điểm, trên cơ sở phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước theo hướng chuyển mạnh từ Nhà nước quản lý bằng mệnh lệnh hành chính, bằng sắc lệnh sang Nhà nước kiến tạo phát triển và thượng tôn pháp quyền. Do đó, các cấp ủy nắm chắc tối thiểu 5 phương diện sau đây, gọi là 5 “cầm”, trong việc tăng cường vai trò cầm quyền đối với Nhà nước (và rộng lớn là các thành viên của hệ thống chính trị): Một là, cầm đạo; hai là, cầm cương; ba là, cầm tướng; bốn là, cầm tâm; năm là, cầm thời. Đảng cầm quyền một cách dân chủ trên nền tảng pháp quyền xã hội chủ nghĩa tự do và đạo đức, phù hợp với luật pháp quốc tế.
Về phương châm thực hiện, có thể trước hết là, nhất thể hóa chức danh lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, trước mắt là thực thi người đứng đầu các cấp, tức là Đảng “hóa thân” sự lãnh đạo của mình trong sự quản lý của Nhà nước, trên từng phương diện của đời sống kinh tế xã hội một cách phù hợp và thận trọng. Theo đó, Nhà nước đổi mới chức năng, nhiệm vụ của mình theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với tinh thần thượng tôn pháp luật, làm tốt công việc kiến tạo và quản trị quốc gia, do Đảng lãnh đạo, trên nền tảng xây dựng một xã hội thật sự gắn dân chủ với pháp quyền; từng bước nhất nguyên chế về bộ máy, khi đủ điều kiện, bảo đảm công việc cầm quyền tập trung thống nhất và dân chủ .
Theo hướng đó, tất yếu không ngừng “phi hành chính hóa” các đoàn thể chính trị - xã hội, trên cơ sở đổi mới chức năng, nhiệm vụ, vị thế, vai trò và tổ chức bộ máy - cán bộ của các tổ chức này trong chỉnh thể hữu cơ hệ thống chính trị, theo hướng rõ ràng, tinh gọn, liên thông và thành thạo. Nói cụ thể, tiếp tục đổi mới và cấu trúc lại hệ thống chính trị nước ta theo lộ trình đổi mới sự cầm quyền của Đảng đối với toàn bộ đời sống đất nước phù hợp với sự vận động của đất nước trên lộ trình dân chủ hóa, được bảo đảm bằng pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Nghĩa là, đã đến lúc phải gắn chặt việc nhất thể hóa chức danh với nhất nguyên chế các bộ máy chồng lấn, trùng lắp hoặc song trùng trong hệ thống chính trị, trước hết là Đảng với Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị. Không như thế, chúng ta không thể hy vọng đạt được việc kiến tạo một hệ thống chính trị tương dung với công cuộc đổi mới hiện nay; không thể gỡ bỏ tình trạng không rõ chức năng, nhiệm vụ của mỗi thành viên, hậu quả “lắm sãi không ai đóng cửa chùa” đang tồn tích; không thể tháo gỡ cấp bách gánh nặng về bộ máy cồng kềnh, cán bộ “đông mà không mạnh”, “vừa thừa, vừa thiếu” tồn tại suốt mấy thập niên qua. Ở đây, nổi bật một bài học về phương pháp luận, rằng nếu có cái gì đó đáng phải mất đi theo quy luật dù đang hiện tồn có vẻ như hợp lý, thì chúng ta nhất định phải đẩy nhanh cho nó mất đi; cái gì sẽ nảy sinh theo quy luật, dù manh nha, mới mẻ và thậm chí còn yếu ớt thì không thể không nuôi dưỡng nó, dù rất khó khăn. Đó chính là quan điểm đúng đắn về sự phát triển, trên phương diện này. Chúng ta nhất định phải thực thi.
Trong tiến trình đổi mới phương thức cầm quyền, các tổ chức đảng đi đầu trong thực thi dân chủ, trước hết tăng cường đối thoại rộng rãi trong Đảng, dựa hẳn vào nhân dân để xây dựng Đảng một cách toàn diện; cầu thị lắng nghe sự góp ý phê bình, phản biện từ các thành viên của hệ thống chính trị và nhân dân một cách công khai, minh bạch từ xây dựng đường lối, tổ chức thực tiễn và bố trí cán bộ, nhất là ở tầm chiến lược; mọi đảng viên phải sống trong lòng nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân.
Cơ chế cầm quyền minh bạch, dân chủ và thống nhất của Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam là hiện thân của sự kết hợp biện chứng giữa chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phong trào yêu nước và phong trào công nhân, là “đứa con nòi xuất thân từ giai cấp lao động”. Do đó, toàn bộ sự cầm quyền là để nhân dân là chủ và làm chủ đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, bằng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Bởi vậy, một cách tự nhiên mối quan hệ giữa Đảng - Nhà nước - Nhân dân là mối quan hệ máu thịt không thể gì cắt chia, không thể gì phá vỡ. Và một cách hợp lô-gíc và hợp điều kiện lịch sử, cốt lõi và bản chất của cơ chế cầm quyền của Đảng chính là sự vận hành và phát triển không ngừng mối quan hệ đó vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và phát huy mạnh mẽ, bảo đảm thực chất quyền và nghĩa vụ làm chủ của nhân dân theo pháp luật.
Nhưng bắt đầu từ đâu và như thế nào? Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, nếu luật pháp không theo sự tất yếu mà sửa đổi thì quốc gia tất sẽ nguy hiểm. Vì thế, trước yêu cầu mới rất cao và phức tạp của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế, cần kíp phải phân định và làm rõ sự thống nhất và khác biệt giữa quyền lực chính trị của Đảng, sự lãnh đạo của Đảng với quyền lực và quyền uy pháp luật, sự quản lý của Nhà nước là việc cấp bách. Tất nhiên sự phân định này không phải là sự tách rời, biệt lập hay đối lập, mà đây là sự khác biệt trong thống nhất về mục tiêu chung, hệ giá trị xác định của Đảng và Nhà nước là phụng sự Tổ quốc, phục vụ quyền làm chủ của nhân dân. Đây là cơ sở để tiếp tục đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước nhằm phục vụ nhân dân. Việc thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng trong hoạt động của Nhà nước phải nhằm đạt tới Nhà nước thực sự là cơ quan quyền lực thể hiện ý chí của nhân dân và cũng là ý chí của Đảng. Thực tế đã và đang cho thấy, tình trạng Đảng “lấn sân”, bao biện Nhà nước... cần được khắc phục; nhưng đồng thời lại phải cảnh giác với khuynh hướng một số cơ quan nhà nước thoát ly sự lãnh đạo của tổ chức đảng đối với họ. Cả hai đều nguy hiểm như nhau!
Để thực hiện cơ chế đó, Đảng phải vững mạnh và trong sạch, thực sự xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là “đứa con nòi”, vừa là “người đày tớ thật trung thành của nhân dân” và chịu trách nhiệm trước nhân dân về vị thế và vai trò cầm quyền của mình trong thực hiện quyền lực chính trị của mình. Nhà nước thực sự là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo, cán bộ các cấp của Nhà nước phải xứng đáng là công bộc của nhân dân; quyền lực của Nhà nước là thống nhất và sự thống nhất ở đây là, mọi quyền hành, mọi lực lượng là ở nhân dân, của nhân dân, nhân dân có quyền hạn và trách nhiệm tham gia xây dựng Đảng, tham gia quản lý Nhà nước và quản lý xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đều nhằm tới xác lập, bảo đảm, hoàn thiện và nâng cao địa vị là chủ và năng lực làm chủ thực tế của nhân dân. Nhân dân làm chủ trực tiếp và các hình thức làm chủ khác, làm chủ thông qua Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội của mình, do Đảng lãnh đạo, theo pháp luật. Đảng lãnh đạo chuyển từ một Nhà nước quản lý bằng mệnh lệnh, hành chính sang kiến tạo phát triển một cách dân chủ, công khai và minh bạch theo pháp luật. Nhưng, Đảng lãnh đạo để nhân dân là chủ và làm chủ là gì và như thế nào? Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Dân chủ là thế nào? Là dân làm chủ. Dân làm chủ thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này khác là làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng. Trên phương diện này, càng nghiêm khắc đòi hỏi Đảng “không thiên tư, thiên vị”, như Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn. Do đó, cùng với việc bảo đảm vô điều kiện việc thực thi quyền làm chủ trực tiếp (các hình thức tự quản, bằng quy ước cộng đồng, hương ước...), tiếp tục đổi mới cơ chế làm chủ gián tiếp của nhân dân (bằng và thông qua Nhà nước, các đoàn thể nhân dân...). Ở đây, các đoàn thể chính trị phải xứng đáng là người đại diện và bảo vệ quyền làm chủ của đoàn viên, hội viên của tổ chức mình; là môi trường dân chủ thực sự để nhân dân thực thi quyền dân chủ chính đáng theo điều lệ và pháp luật.
Một cách tự nhiên, cần phải xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực thật sự dân chủ và minh bạch, thẩm xét tín nhiệm và định chế về từ chức, bãi miễn các thành viên của Chính phủ, đại biểu Quốc hội một cách dân chủ, công bằng, đúng pháp luật; đồng thời xác lập cơ chế xử lý hữu hiệu trong các trường hợp Quốc hội vượt quyền kiểm soát của quốc dân (chẳng hạn trưng cầu dân ý, thông qua Hiến pháp mới..., nếu cần). Vì, quyền lực tuyệt đối có nguy cơ sẽ sinh ra độc quyền tuyệt đối, đến lượt nó sẽ tham nhũng quyền lực tuyệt đối và các tệ nạn chung quanh vấn đề quyền lực tuyệt đối. Trên phương diện này, ở chừng mực nào đó, vẫn đang là mắt khâu còn yếu của chúng ta.
Nói khái quát, Đảng cầm quyền theo cơ chế: Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân làm chủ - phục vụ nhân dân là chủ, tất cả nhằm bảo vệ và nâng cao vị thế, quyền lực và trách nhiệm làm chủ của nhân dân. Và, dù thế nào, Đảng chịu trách nhiệm lịch sử về sự cầm quyền của mình trước nhân dân và dân tộc.
Phát triển nguồn lực đa dạng và nắm chắc khâu quyết định công việc cầm quyền
Đây là một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết định sự thành bại vị thế cầm quyền, năng lực và hiệu quả cầm quyền của Đảng. Trong số các nguồn lực, nổi bật ba nguồn lực chính yếu bảo đảm cho sự cầm quyền.
Nguồn lực con người: Đây là nhân tố căn bản, trung tâm trong các nguồn lực cầm quyền của Đảng. Đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự bao gồm những phần tử ưu tú nhất của dân tộc, tiêu biểu cho sức mạnh toàn dân tộc. Cấp ủy các cấp thực sự là những cơ quan tinh hoa nhất của Đảng. Đặc biệt là, những người đứng đầu cấp ủy các cấp phải là tấm gương chính trị thực sự toàn diện nhất. Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước mang tầm chiến lược ngang tầm nhiệm vụ; mặt khác, đẩy nhanh việc trí thức hóa, trẻ hóa đội ngũ cán bộ, đảng viên - nhu cầu, nhân tố quyết định trực tiếp chất lượng và uy tín cầm quyền của Đảng. Người xưa dặn: “Cầu trị lấy nhân tài làm gấp”. Tiếp tục chỉnh đốn, xây dựng đội ngũ cán bộ chiến lược xứng đáng bao gồm các nhà chính trị có tầm nhìn xa rộng, tấm gương về nhân cách chính trị, văn hóa và liêm chính; đội ngũ tham mưu tinh nhuệ và trung thành; đặc biệt là đội ngũ cán bộ đứng đầu bộ máy các cấp của Đảng thật sự là những người ưu tú, tinh hoa. Mở rộng mọi con đường để thu hút nguồn nhân lực tinh hoa thực thi công tác đảng một cách dân chủ, minh bạch: Thi tuyển, tranh tuyển, tiến tuyển, bầu tuyển, cử tuyển,... Đồng thời, kiên quyết thanh lọc đội ngũ cán bộ, nhất là người đứng đầu một cách thường xuyên, theo phương châm định kỳ khảo hạch, bỏ phiếu tín nhiệm và bãi miễn, huyền chức khi không đạt yêu cầu cần thiết...
Tất cả nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trước hết từ trong Đảng, một cách đồng bộ, thật sự tinh hoa và chuyên nghiệp. Về kiến tạo, rèn luyện, giáo dục và tự giáo dục liêm sỉ và đức hạnh của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, đội ngũ những người đứng đầu, xin nhắc lại ý tưởng của người xưa, cách đây dù gần 2.400 năm, về đạo đức và liêm sỉ: Trên mà không chính thì dưới có chính cũng thành ngụy, người hiền lành cũng biến thành kẻ gian tà. Và, cách đây hơn 200 năm, lời chiêm nghiệm và khuyên răn của tiền nhân vẫn mang ý nghĩa thời sự đối với chúng ta: Dân chủ là chế độ chính trị khó nhất, vì nó đòi phải có dân trí thật cao, nhưng người ta thường quên nâng cao dân trí của chính mình, khi nắm được chủ quyền; và, một cách tự nhiên, nếu người ta chà đạp công lý thì đó chính là sự sỉ nhục đức hạnh hàng đầu của kẻ cầm quyền. Điều đó cảnh tỉnh những biểu hiện của thói “kiêu ngạo cộng sản”, “đầu óc ông tướng, bà tướng”, “vua con”... đang là “nhược điểm chí tử” hiện nay ở không ít cán bộ, đảng viên.
Tổ chức bộ máy: Ở đây, vấn đề chính của chúng ta về phương pháp là, tiếp tục thẩm định cái quá khứ có thể chấp nhận được trong hiện tại và cái hiện tại mà chúng ta tiếp tục để cho nó tồn tại ở tương lai trong đổi mới và kiến tạo lại bộ máy theo phương châm bảo đảm sự phát triển liên tục để tiến tới sự ổn định mới ở đẳng cấp cao hơn. Do đó, theo tốc độ phát triển của quy mô, tính chất, mức độ của nội dung cầm quyền của Đảng đối với công cuộc đổi mới, tiếp tục cấu trúc lại nhằm tạo dựng một bộ máy cầm quyền của các cấp ủy thật thống nhất, đồng bộ, tinh gọn và hiệu quả. Đó là một nghệ thuật.
Giải thể các bộ phận trùng lắp về chức năng với các bộ phận khác, sáp nhập các bộ phận chồng lấn về chức năng, nhiệm vụ của nhau nhằm xây dựng một bộ máy lãnh đạo theo hướng quyền hạn và trách nhiệm rõ ràng trên cơ sở một thể chế dân chủ nội bộ rộng rãi, sâu sắc nhưng cụ thể nhất và hiệu quả nhất trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật nhằm để kiểm soát, giám sát một cách minh bạch. Theo đó, chỉnh đốn và cấu tạo lại bộ máy tham mưu của Đảng và bộ máy của các thành viên hệ thống chính trị theo chức năng, nhiệm vụ của mỗi bộ phận, từng thành viên theo hướng tương dung và phù hợp với tổ chức bộ máy các cấp ủy, chính quyền. Tất cả phải thật tinh gọn, tinh hoa, thành thục, liên thông, dễ kiểm tra, giám sát và dễ xử lý... khi cần thiết.
Nhân tố vật chất - kỹ thuật: Nỗ lực bảo đảm các phương tiện cầm quyền một cách hiện đại nhằm tạo sự thống nhất, thông suốt giữa các cơ quan của Đảng với nhau, giữa cơ quan của Đảng với các thành viên của hệ thống chính trị... Trước mắt, tin học nhằm điện tử hóa các mắt khâu xung yếu, cần kíp của các bộ máy lãnh đạo và tham mưu của các cấp ủy, trong điều kiện cho phép và khả năng có thể nhằm phục vụ kịp thời và hiệu quả công việc cầm quyền trên tất cả các phương diện, địa bàn trong tầm nhìn và chịu trách nhiệm của Đảng.
Phát triển và bảo đảm môi trường cầm quyền chính pháp, chính tín trong nước và sự hòa mục quốc tế bền vững chiến lược của Đảng
Toàn bộ sự cầm quyền của Đảng phải nhằm bảo đảm sự ổn định chính trị - xã hội để phát triển đất nước; đến lượt nó, mọi sự phát triển đều phải nhằm tới bảo đảm sự ổn định cao hơn về chính trị - xã hội làm tiền đề, nền tảng vững chắc tiếp tục nâng cao chất lượng cầm quyền của Đảng ngang tầm quy mô, tốc độ và chiều sâu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế. Hiện nay, trước yêu cầu mới, kế thừa kinh nghiệm hơn 70 năm cầm quyền, phát triển phải trở thành mục tiêu của ổn định, là đẳng cấp của ổn định, vì không phát triển không thể nói tới bất kỳ một sự ổn định bền vững nào. Đó là sứ mệnh cầm quyền của Đảng trong công việc xử lý 8 mối quan hệ lớn theo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng; đồng thời, là tiền đề và môi trường để Đảng rèn luyện, không ngừng nâng mình lên một cách toàn diện ngang tầm sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay; nâng cao vị thế, sức mạnh và uy tín của đất nước trên trường quốc tế.
Đến lượt mình, không có sự phát triển của Đảng thì không thể nói tới bất cứ một sự phát triển nào của đất nước nói chung, và sự ổn định và phát triển của chính bản thân Đảng nói riêng. Đảng tiếp tục là tấm gương mẫu mực về gìn giữ, phát huy dân chủ và pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trở thành tiền đề, rường cột và sự mẫu mực cho các tổ chức chính trị - xã hội trong công việc phát triển, phát huy dân chủ, bảo đảm pháp luật thượng tôn. Không phát huy dân chủ ở trong Đảng không có dân chủ đầy đủ trong xã hội; không giữ kỷ luật nghiêm từ trong Đảng không thể phát triển nền pháp trị đất nước. Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tiếp tục chuyển mạnh từ quản lý hành chính sang quản trị và kiến tạo, bảo đảm về mặt pháp lý để các tổ chức đảng, trước hết là đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp của Đảng và đội ngũ đảng viên tiên phong gương mẫu thực thi Hiến pháp, pháp luật và chính sách của Nhà nước, vừa trong tư cách là những người lãnh đạo hoạch định chính sách và pháp luật, giám sát, kiểm tra hoạt động của Nhà nước vừa trong tư cách là những người thực thi một cách mẫu mực, những người phản biện minh bạch và dân chủ. Đồng thời, Nhà nước kiểm soát chính những tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên của Đảng theo khuôn khổ pháp luật với phương châm thật sự “quốc pháp vô thân”, không có đặc quyền đặc lợi trong thực thi và chấp hành pháp luật. Các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội và nhân dân giám sát toàn thể đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng ở bất cứ đâu: từ nơi công tác tới nơi cư trú, góp ý phê bình đảng viên.
Không ngừng phát triển và bảo vệ môi trường pháp lý hiện đại, dân chủ và minh bạch, trước hết tiếp tục sửa đổi và bổ sung các vấn đề về Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm bảo đảm trên phương diện pháp lý vị thế và trách nhiệm cầm quyền của Đảng. Và đến lượt mình, Đảng tự chỉnh đốn, tự đổi mới mình, ngày càng trở thành dân tộc, cầm quyền theo Hiến pháp, pháp luật một cách khoa học và chính danh, chính thực, nâng cao chính năng, chính tín của công việc cầm quyền.
Đảng không ngừng xây dựng và phát triển dân chủ trong Đảng, trước hết là sự đoàn kết thống nhất nội bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình. Mỗi cán bộ, đảng viên, từng tổ chức đảng phải bảo vệ nó như “giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Đó cũng là nguyên tắc và phương sách để không ngừng chỉnh đốn bộ máy thật tinh gọn, thạo việc và trong sạch hóa đội ngũ cán bộ, đảng viên. Vì vậy, mỗi tổ chức đảng phải là một tấm gương, một môi trường mẫu mực và trong sáng về thực hành dân chủ đối với các tổ chức trong hệ thống chính trị. Mỗi người đứng đầu cấp ủy, bộ máy của Đảng xứng đáng là người mẫu mực về tư tưởng, nhân cách và phong cách làm việc dân chủ, tôn trọng tổ chức, lắng nghe và cầu thị đối với cấp dưới và đảng viên, tôn trọng và thực thi ý nguyện chính đáng của nhân dân. Xây dựng và giữ vững lòng tin sâu rộng của nhân dân đối với Đảng là nhân tố quyết định sự thành công của công việc cầm quyền của Đảng. Đó là môi trường căn bản, là tiền đề, là tấm gương để thực thi dân chủ toàn xã hội, rèn luyện chính năng của cấp ủy, nâng cao chính tín của tổ chức và từng cán bộ, đảng viên... nhằm bảo đảm và tôn vinh sự chính danh của tổ chức đảng - nền móng của vị thế, của năng lực, của uy tín và trách nhiệm cầm quyền một cách thành công của Đảng.
Đồng thời, Đảng tiếp tục xây dựng và phát triển niềm tin chính trị chiến lược của bạn bè, đồng chí quốc tế đối với Đảng, với đất nước, nhận được sự ủng hộ rộng rãi và sâu sắc của các đảng cộng sản, đảng công nhân, các đảng cầm quyền và các đảng chính trị... trên thế giới là một trong những mấu chốt thành công. Đó chính là hiện thân phát triển môi trường cầm quyền bảo đảm tính chính danh và chính tín của Đảng trong chủ động, tích cực hội nhập quốc tế hiện nay và tương lai, với tư cách là đảng chính trị duy nhất chính pháp lãnh đạo đất nước.
Đề phòng, đẩy lùi và hóa giải nguy cơ đối với sự cầm quyền của Đảng
Như bất cứ một thực thể chính trị nào khác, Đảng phải luôn đối mặt và chủ động hóa giải các nguy cơ đối với sự phát sinh và đe dọa trong quá trình phát triển trên vị thế và trong thực hiện trọng trách cầm quyền của mình. Hiện nay, vấn đề đó đặt ra trước sự nghiệp cầm quyền của Đảng càng đặt ra cấp bách. Đó là lẽ tự nhiên nhi nhiên và cũng rất quan trọng trong bối cảnh thời đại và đất nước biến động ngày càng phức tạp và sứ mệnh cầm quyền của Đảng, vì thế, ngày càng to lớn và nặng nề hơn.
1- Nguy cơ chệch hướng trong hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối chính trị
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn, nhắc nhở và Đảng ta luôn đề phòng sự xuất hiện và diễn biến của nguy cơ, thách thức này đối với mình. Vì, sự chệch hướng trong hoạch định đường lối và sự đổ vỡ về thực thi đường lối đồng nghĩa với sự cáo chung về vị trí, vai trò cầm quyền của Đảng. Bài học xương máu của một số đảng cộng sản cầm quyền ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu cách đây hơn hai mươi lăm năm trước đã cảnh báo hết sức nghiêm khắc điều đó.
Sự lường trước một lần nữa về vấn đề này vào tháng 1- 1994, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng, có ý nghĩa cảnh báo cực kỳ nghiêm khắc. Đó là sự tiên liệu đúng đắn trong tiến trình tổng kết nghiêm khắc về thực tiễn cầm quyền, sự phát triển sáng tạo với tinh thần tự phê bình trong xây dựng, phát triển lý luận cầm quyền và sự dũng cảm chính trị về trọng trách cầm quyền ngày càng phức tạp, khó khăn mà Đảng được lịch sử và nhân dân trao cho trọng trách lãnh đạo xã hội và đất nước.
Trước hết là, ngăn chặn tình trạng cơ hội chính trị, a dua chính trị, thực dụng chính trị... trong một bộ phận cán bộ, đảng viên giữ trọng trách trong bộ máy của Đảng và Nhà nước ở các cấp, của hệ thống chính trị..., nhất là một số người tham gia trên phương diện hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối chính trị, đang tồn tại rất tinh vi, trên không ít lĩnh vực... Triệt tiêu tệ “địa phương hóa”, “cục bộ hóa”, “cát cứ hóa” đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước dưới đủ thủ đoạn: lợi dụng cái gọi là “sự đặc thù” để ban hành cái gọi là “chính sách riêng”, “đặc thù” nhằm mưu đồ phục vụ “lợi ích nhóm” và tụ lại thành những “sứ quân”, “lợi ích nhóm”, “nhóm lợi ích”... đi ngược lại đường lối chung. Dỡ bỏ tình trạng vừa vô tổ chức, vô kỷ luật, vừa cát cứ, khép kín, cục bộ... ở một số tổ chức đảng có nguy cơ phá vỡ sự thống nhất của Đảng.
Thứ hai là, ngăn chăn tình trạng vừa bảo thủ, trì trệ, vừa đổi mới vô nguyên tắc về lý luận chính trị, trong hoạch định đường lối chính trị đã và đang tồn tại trong không ít người, ở không ít nơi. Sự “đóng cửa”, “khép kín” trong tư duy, ngại đổi mới, không chịu thâm nhập vào thực tiễn; tự cho mình “đúng đắn”, tự bằng lòng và tự ràng buộc mình vào những định đề có sẵn nhưng đã lạc hậu, đã bị cuộc sống vượt qua, vô hình biến thành trở lực đối với công cuộc đổi mới. Đồng thời, ngăn chặn một bộ phận nhân danh đổi mới, xa rời các nguyên tắc, kỷ luật của Đảng, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đòi xét lại đường lối chính trị của Đảng.
Thứ ba là, ngăn chặn tình trạng cố tình làm biến dạng đường lối chính trị, dưới mọi hình thức trong việc thực hiện; nhân danh đổi mới, sáng tạo một cách vô nguyên tắc, cố tình làm sai lạc việc hoạch định và thực hiện đường lối chính trị đang xuất hiện ở không ít nơi. Đẩy lùi tình trạng coi nhẹ những vấn đề có tính nguyên tắc, bất chấp nguyên tắc, kỷ luật, luồn lách tìm và lợi dụng những sơ hở của đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; nhất là một số tổ chức cố tình làm trái ở quy mô tập thể những quy định chung đó để mưu lợi cho họ, cho phe nhóm của họ, phá rối tình hình...
2- Nguy cơ buông lỏng, làm trái những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng
Ở không ít nơi, nguyên tắc tập trung dân chủ bị không ít người, tổ chức đảng lợi dụng, cắt xén hoặc trương lên thành tấm bình phong để che đậy mưu đồ cá nhân và hành động phá rối tổ chức hoặc vô hiệu hóa tổ chức, thành “con dao hai lưỡi” để mưu đoạt lấy lợi ích cho bản thân, rắp tâm “chui sâu, leo cao” vào các cơ quan lãnh đạo, quản lý. Nguy hại hơn, mượn hoặc nhân danh nguyên tắc này để đối phó với cấp trên, cô lập và vô hiệu hóa cấp dưới, biến tổ chức đảng nơi họ phụ trách thành “bầu trời riêng”, với “tôn ti riêng”... để thực thi mưu đồ cá nhân, phe nhóm,... Mặt khác, không ít người biến việc thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình thành cái gọi là “vũ khí” rất màu nhiệm để tâng bốc, tán dương nhau nhưng lại nhân danh “thanh bảo kiếm chữa lành mọi vết thương”(V.I. Lê-nin) thực thi mưu đồ vu vạ, hãm hại đồng chí, hạ nhục và loại bỏ những người không cùng cánh với họ, để thao túng nội bộ Đảng nhằm “vinh thân phì gia”, phù phép cho lợi ích nhóm...
Kỷ luật của Đảng, Điều lệ của Đảng là pháp luật của Đảng bị không ít người ở một số tổ chức đảng biến thành “thanh kiếm phường chèo” với phe cánh họ, nhưng lại là “lưỡi gươm oan nghiệt” đối với đồng chí, nhất là những người trung thực, dũng cảm đấu tranh với các tệ nạn trong Đảng, mà họ là thủ phạm. Núp dưới chiêu bài “giữ nghiêm kỷ luật”, họ “thanh lọc đội ngũ” một cách có lợi cho họ. Thực chất, họ đã vô hiệu hóa sức mạnh của kỷ luật đảng, của Điều lệ Đảng, biến tổ chức đảng thành “vương quốc” riêng nhằm thực thi những mưu đồ cá nhân, vô hình tạo nên nạn bè phái, cát cứ ngay trong tổ chức đảng, trong cơ quan lãnh đạo của Đảng.
Có thể nói, với sự hành xử như vậy, hai nguyên tắc đó của Đảng đã bị bóp méo, cắt xén; và cách họ đã tự biến mình thành những người tha hóa, những “ông vua con”, làm công cụ phá hỏng đoàn thể và phá hoại tổ chức; biến những tổ chức đảng nơi họ phụ trách và sinh hoạt thành hoặc là “bầu trời riêng”, biến tổ chức thành “hữu danh vô thực” hoặc bị tê liệt, mất sức chiến đấu. Vô hình họ hạ thấp và tước bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng.
3- Nguy cơ một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó đáng lo ngại là người đứng đầu suy thoái, biến chất về tư tưởng chính trị, băng hoại về phẩm hạnh và lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
Đây là một thực trạng báo động, đang gây những hậu quả khôn lường. Nhưng điều đáng lo ngại là, tình trạng đó đang lan rộng, tỏa sâu trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên của Đảng và leo cao, chui vào cả trong một số bộ phận của bộ máy lãnh đạo các cấp của Đảng. Tệ cơ hội chính trị, thực dụng chính trị, thói vô chính trị, sự băng hoại về phẩm hạnh đạo đức chính trị, về phong cách, lối sống... của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả một số cán bộ cao cấp, đang gây nhức nhối đối với toàn Đảng, gây bất bình, oán thán trong nhân dân.
Điều đáng lo ngại là, họ nhân danh Đảng, nhân danh tổ chức để làm những việc hủ bại, táng tận lương tâm: tham nhũng, ăn cắp của công, bòn rút của cải của Nhà nước, của nhân dân, chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy tội... Tham nhũng, nhất là tham nhũng quyền lực, là “giặc nội xâm”. Tình trạng “phai Đảng”, “nhạt Đảng”, “nhân danh Đảng” vì tư túng, tư lợi... đang lan nhiễm trong không ít cán bộ, đảng viên, có nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” rất nguy hiểm trong cả tư tưởng và hành động.
Chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa bè phái, nhất là tệ tham nhũng - “giặc nội xâm” - đang làm một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có không ít người giữ trọng trách “thoái Đảng”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, làm không ít tổ chức đảng mất sự thống nhất, mất khả năng lãnh đạo và mất sức chiến đấu. Nếu chậm trễ, không kiên quyết chủ động ngăn chặn một cách kịp thời, căn cơ và hiệu quả, cái hiểm họa “tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ” sẽ cận kề và lan rộng, như từng xảy ra đối với một số đảng cộng sản cầm quyền trên thế giới. Quốc nạn tham nhũng: về vật chất, về chính sách, về quyền lực... không chỉ cá nhân mà còn có tính “tập thể”... ở không ít người, bộ phận đang làm xói mòn địa vị cầm quyền và phá vỡ năng lực cầm quyền của Đảng; làm xói mòn lòng tin chính trị của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, chế độ ta.
4- Nguy cơ xa rời cơ sở xã hội - chính trị của Đảng
Đảng là “đứa con nòi xuất thân từ giai cấp lao động”, “một lòng một dạ tận tụy phụng sự nhân dân”, vì “Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam”, “không thiên tư thiên vị” nên sinh thành, sống trong lòng và trưởng thành từ trong lòng nhân dân là sự sống còn của Đảng, là trí tuệ và là văn hóa của Đảng suốt hơn 86 năm lịch sử của mình. Nói khái quát, một trong những nguồn gốc làm nên sức mạnh vô địch là Đảng sống và trưởng thành trong lòng nhân dân và dân tộc đại đoàn kết. Đó là bản chất tự nhiên của Đảng ta.
Nhưng hiện nay, không ít tổ chức đảng, đảng viên đi ngược lẽ tự nhiên ấy. Họ sống và làm việc theo kiểu “bề trên” quan liêu, cách bức với cơ sở, xa lạ với nhân dân. Họ là những “ông quan cách mạng”, “ông tướng, bà tướng” “công thần cách mạng”, “hạng người nói suông”... trong Đảng, như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói. Một số người hành xử vô liêm sỉ, thậm chí đi ngược tâm tư, quyền lợi của nhân dân, gây bao nỗi ưu phiền, bức xúc, oán thán, thậm chí bất bình, phẫn nộ trong nhân dân, làm tổn hại thanh danh và uy tín của Đảng. Một số tổ chức đảng, dưới sự chi phối hoặc cầm đầu của một số người hoặc bị vô hiệu hóa hoặc đã đánh mất vai trò lãnh đạo của mình, không còn xứng đáng với sự tin cậy của tập thể, của nhân dân. Sự tự đánh mất vị thế, vai trò cầm quyền và tự sụp đổ của một số đảng cộng sản cầm quyền ở một số nước có nguyên nhân bắt đầu từ sự vi phạm lẽ tự nhiên xương máu này.
Nếu không còn chỗ đứng trên nền nhân dân, không sống trong lòng nhân dân và dân tộc, tức là không còn xứng đáng là “đứa con nòi của giai cấp lao động”, khi ấy nhất định thất bại và đổ vỡ tất yếu.
5- Nguy cơ vừa cát cứ, cục bộ, vừa phân ly, phá vỡ thống nhất, mà một số người đứng đầu là sự “kết tụ” dưới đủ hình thức và cấp độ, tẩy trừ “lợi ích nhóm” và những “nhóm lợi ích” làm phân rã Đảng
Đó là con đường ngắn nhất tự thủ tiêu mình và làm tê liệt sức mạnh tập trung của toàn Đảng. Rất tiếc, không ít người, không ít tổ chức ở không ít nơi mắc phải điều tệ hại và hết sức nguy hiểm đó. Đây là hậu quả trực tiếp của các thách thức trên. Tệ “anh hùng nhất khoảnh”, “trên có chính sách, dưới có đối sách”, thói tự cho mình đồng nhất tổ chức đảng với người đứng đầu bộ máy đảng... không còn là sự hiếm hoi. Một số người sử dụng chức vụ mà Đảng trao cho họ thành vật sở hữu (!) để ban ơn, để kéo bè kéo cánh, tham nhũng tập thể, kể cả thủ đoạn tham nhũng quyền lực, thực dụng chính trị... Vô hình điều đó thổi phồng và làm trầm trọng hơn tệ cục bộ, bè phái, gia trưởng, “quan cách mạng”... trong không ít tổ chức đảng, biến tổ chức đảng thành “của riêng”, thậm chí có nơi kéo bè “cha truyền con nối”, kết cánh anh em dòng họ..., thủ tiêu bản chất, nhất là sự thống nhất trong Đảng; làm xuất hiện những “nhóm lợi ích”, rơi vào hội chứng “những củ khoai tây”, làm phân rã Đảng về mặt tư tưởng và tổ chức một cách ngấm ngầm, tinh vi và nguy hiểm.
Nắm chắc và chủ động ngăn chặn điều đáng lo ngại là, sự phân ly về tư tưởng, lỏng lẻo, rệu rã về tổ chức, coi thường các nguyên tắc hoạt động của Đảng diễn ra trong một bộ phận đáng kể cán bộ, đảng viên và ngay trong lòng một số tổ chức đảng, ở một số nơi tới mức không thể xem thường. Thứ “đạo đức ba mặt” (trước cấp trên, với công luận, trước cấp dưới), thói hành xử “lá mặt lá trái” (trong cuộc họp đối lập với ngoài hành lang), tệ “bằng mặt nhưng không bằng lòng”; cấp dưới không phục tùng cấp trên; sự chia rẽ, thậm chí “đối trọng” giữa các khuynh hướng về tư tưởng và lợi ích làm nảy sinh các “nhóm lợi ích” và “lợi ích nhóm” hết sức nguy hiểm... đang tồn tại trong không ít cán bộ, đảng viên, kể cả đảng viên giữ trọng trách của cấp ủy; bộ phận không phục tùng toàn thể, thậm chí đi ngược lại tập thể... diễn ra ở một số tổ chức đảng, đang phá vỡ khối đoàn kết thống nhất trong một bộ phận tổ chức đảng, vô hình thủ tiêu vai trò, sức mạnh chiến đấu của tổ chức đảng; đến lượt nó, các tổ chức đảng ấy bị vô hiệu hóa, bị tước bỏ, bị thủ tiêu sức mạnh của một tổ chức lãnh đạo và chiến đấu. Đó là “cục nghẽn mạch” chết người.
Để chủ động hóa giải hữu hiệu những nguy cơ ấy, phương châm bao trùm là, chúng ta không hoang mang, dao động nhưng cũng không nóng vội, nửa vời; phải kiên quyết, kiên trì giải quyết dứt điểm với lộ trình phù hợp, cụ thể; bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ giữa xây và chống; đồng thời chọn đúng khâu đột phá và giải quyết trên tầm tổng thể; phát huy dân chủ rộng rãi và bảo đảm tập trung cao độ, giữ nghiêm kỷ luật đủ mạnh ở mức cao nhất... kiên quyết giữ vững vị thế, nâng cao năng lực, hoàn thành trọng trách cầm quyền của Đảng.
Trước hết, đột phá đổi mới tư duy về Đảng Cộng sản cầm quyền làm mở đầu và làm nền tảng căn cơ nhưng cấp bách. Lúc này, hơn lúc nào hết, phải coi việc tiếp tục đổi mới tư duy về đảng cầm quyền làm khâu đột phá về lý luận làm cơ sở, nền tảng, tiêu chí và động lực cho các khâu đột phá khác. Không bắt đầu giải quyết những vấn đề chung, nhất định vấp ngã trên những vấn đề cụ thể. Nói cách khác, toàn bộ công việc cầm quyền trước hết của Đảng phải được tập trung ở việc hoạch định và tổ chức thực thi đường lối chính trị thật sự cách mạng, khoa học, đúng đắn và hiệu quả.
Thứ hai, xây dựng và đổi mới đội ngũ cốt cán, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, đơn vị, cơ quan, tổ chức ngang tầm nhiệm vụ. Đột phá xây dựng cho kỳ được đội ngũ người đứng đầu các cấp ủy, cơ quan, đơn vị đồng thời là đội ngũ thủ lĩnh ở các nơi này gánh vác trách nhiệm cầm quyền của Đảng là khâu đột phá then chốt. Cán bộ là gốc của công việc. Vì, đường lối chính trị phải được thực hiện trực tiếp và trước hết bởi đội ngũ người đứng đầu đồng thời là thủ lĩnh một cách xứng đáng và ngang tầm, với tư duy mới về đảng cầm quyền. Đến lượt khâu đột phá xây dựng đội ngũ người đứng đầu, phải nhằm tạo dựng kỳ được đội ngũ cốt cán chung quanh người đứng đầu - thủ lĩnh, và tổ chức bộ máy chuyên môn, chức năng... nhằm tạo nên sức mạnh tổng thể của đội ngũ lãnh đạo, quản lý nói riêng và đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị nói chung tương dung, ngang tầm với đường lối chính trị, thực tế đất nước và thời đại.
Khi đã có đường lối chính trị đúng, việc cơ bản tiếp theo là, chọn đúng người “có gan phụ trách”, vì “chọn người và thay người cũng là một vấn đề quan trọng trong việc lãnh đạo”(13) (và những người cộng sự và bộ máy chuyên môn, chức năng của họ), nếu không nói là quyết định thành công của công việc cầm quyền.
Thứ ba, đột phá đổi mới về thể chế, cơ chế vận hành thể chế; siết chặt kiểm tra, mở rộng giám sát, giữ nghiêm kỷ luật trong Đảng và giám sát xã hội đối với Đảng phù hợp với pháp luật giữ vị thế thượng tôn, trên nền móng truyền thống quản lý xã hội dân tộc và tinh hoa chính trị quốc tế.
Về thể chế, trong rất nhiều việc, cấp bách hoàn thiện hệ thống quy chế, lấy đó làm quy phạm chỉ đạo và điều chỉnh hoạt động của bộ máy đảng (cố nhiên bao hàm tất cả đảng viên dù giữ chức vụ hay không giữ chức vụ trong Đảng) trên cơ sở Điều lệ Đảng, quy chế hoạt động trong Đảng bảo đảm phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành, bao quát trên tất cả mọi phương diện, mọi lĩnh vực và toàn bộ công việc của một đảng cầm quyền. Tổ chức bộ máy đảng các cấp gọn nhẹ, thông suốt: trong lãnh đạo, chỉ đạo, trong kiểm tra, giám sát công việc và con người, gắn bó với nhân dân... một cách tự nhiên và dân chủ. Phải nhấn mạnh: Không dựa và sống trong lòng nhân dân, cầm chắc sẽ thất bại.
Đổi mới cơ chế vận hành thể chế theo hướng: đề cao quyền hạn cá nhân, bảo vệ trách nhiệm cá nhân và kiểm soát quyền hạn gắn với trách nhiệm cá nhân; mở rộng tranh tuyển một cách dân chủ và bình đẳng gắn chặt với trách nhiệm giải trình minh bạch và kịp thời về quyền hạn gắn với trách nhiệm. Xây dựng và thực thi văn hóa trong chính trị một cách chuẩn mực của một đảng cầm quyền, nhất là giữ nghiêm đức hạnh, liêm sỉ, liêm chính... phải có của cán bộ, đảng viên của một đảng cầm quyền.
Về kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng, không một cá nhân nào, tổ chức nào của Đảng được phép đặt ra ngoài mọi sự kiểm tra, giám sát của Đảng, pháp luật của Nhà nước và của nhân dân. Nắm lấy nguyên tắc tập trung dân chủ, bảo đảm thống nhất và bình đẳng trong thực thi Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước đối với mọi cán bộ, đảng viên của hệ thống chính trị, không có “vùng cấm”, không có “đặc quyền” hay bất cứ một ngoại lệ nào. Cần kíp xác lập quy chế về từ chức, huyền chức, cách chức... một cách thống nhất, đồng bộ và kịp thời.
Về tham khảo, thâu hóa và tiếp biến kinh nghiệm chính trị của các đảng cầm quyền, các đảng chính trị trên thế giới, tinh hoa chính trị nhân loại, với thái độ cầu thị, nâng niu tất thảy sự tương đồng, tôn trọng mọi sự khác biệt... chúng ta gạn lọc, thâu hóa tinh hoa chính trị của các đảng chính trị để phục vụ thật tốt cho công việc cầm quyền của Đảng ta, nhất là bản lĩnh chính trị, khoa học và nghệ thuật cầm quyền... Làm trái đi, là tự bó mình và tự cô lập mình.
Trong tình hình mới, tối thiểu thực thi đồng bộ những vấn đề có tính quy luật và quy luật đó, cơ hội lớn phát triển quốc gia sẽ mở ra, thực lực mới đất nước sẽ mạnh mẽ, Đảng tiếp tục tôi luyện, khẳng định và bảo đảm vị thế cầm quyền tất yếu, năng lực cầm quyền khoa học với bản lĩnh cầm quyền cách mạng, gánh vác và chịu trách nhiệm lịch sử - pháp lý cầm quyền xứng đáng trước nhân dân và dân tộc, vươn lên ngang tầm yêu cầu phát triển mới vẻ vang của đất nước, phù hợp với sự vận động của thời đại. Đó là thời cơ lớn nhưng cũng là thử thách khắc nghiệt về vai trò, năng lực và trọng trách cầm quyền của Đảng hiện nay.
Nhị Lê
Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản
----------------------------------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr. 611.
(2), (3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 88, 172 - 173.
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, 2016, tr. 217.
(5) Xem Nhị Lê: Nhận diện và đột phá các nguy cơ trong Đảng hiện nay, Tạp chí Cộng sản, số 877 (11-2015), tr. 29-38.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.40.
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.275.
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.9.
(9) Báo điện tử Quốc phòng: Dư luận quốc tế đánh giá cao về Đại hội lần thứ XII của Đảng, số ra ngày 31-01-2016
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.75
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.232
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.168
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 5, tr. 326 ----
Bài 2: Sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống trong Đảng: Bình tĩnh phòng ngừa, chủ động ngăn chặn và kiên quyết tẩy trừ
Kinh nghiệm lịch sử của Đảng cho thấy, khi có một đường lối đúng, một đội ngũ cán bộ, đảng viên ngang tầm trọng trách và được nhân dân ủng hộ, không có lực lượng nào cản được thành công. Trước yêu cầu, nhiệm vụ mới hiện nay, trong điều kiện hội nhập quốc tế, một trong ba việc đó khiếm khuyết hoặc yếu kém, nhất định Đảng không đảm đương được nhiệm vụ, khó có thể đứng vững và chế độ bị đe dọa. Vì vậy, việc phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp... là việc rất cấp bách và rất quan trọng, liên quan tới sự tồn vong của Đảng, của Nhà nước, của chế độ ta và vị thế đất nước ta trên trường quốc tế.
Công việc trọng tâm và hết sức khó khăn
Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, không chỉ là mục tiêu lý tưởng chính trị mà còn là nhu cầu phát triển của dân tộc và đất nước ta, là nguyện vọng của nhân dân ta. Nói cụ thể, độc lập dân tộc gắn chặt với chủ nghĩa xã hội là lý tưởng chính trị, là nguyên tắc chính trị, là cương lĩnh hành động chính trị và là đạo lý sống của Đảng ta, nhân dân ta, dân tộc ta và đất nước ta. Đó cũng là con đường chính trị, là đạo lý sống để phát triển mạnh mẽ và bền vững duy nhất đúng để đất nước ta tiến lên ngang tầm thời đại. Đó là một trong những vấn đề sinh tử quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách mạng, sự tồn vong của Đảng, của Nhà nước và chế độ ta. Bị lôi kéo hay cố ý, trực tiếp hay gián tiếp, nếu suy nghĩ và hành động chệch, xa rời, trái hoặc cản trở những điều đó, dù xét dưới bất cứ góc độ nào, có thể nói đều gây tổn hại tới sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Đó chính là những biểu hiện chính yếu của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống.
Thực tế đã và đang cho thấy, sự suy thoái về chính trị, tư tưởng đạo đức và lối sống không chỉ tiềm tàng ở một nơi nào đó mà nó hiện diện tại không ít nơi, không chỉ ở một vài người hay nhóm người nào đó mà đáng lo ngại là, hiện diện khá rộng, sâu và phức tạp trong một bộ phận đáng kể đội ngũ cán bộ, đảng viên. Ngay từ năm 1999, Đảng ta chỉ rõ: “...Trước yêu cầu mới ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, trong Đảng đang bộc lộ một số yếu kém: sự suy thoái về tư tưởng chính trị (tôi nhấn mạnh - NL)... của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm trọng hơn”(1). Tại Đại hội IX (2001), Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh: “Trong công tác xây dựng Đảng... chưa ngăn chặn và đẩy lùi được sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống”(2); và Đại hội X (2006) chỉ rõ: “Thoái hóa, biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng, kéo dài chưa được ngăn chặn, đẩy lùi... Đó là một nguy cơ lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ”(3). Tới Đại hội XI (2011), Đảng ta tiếp tục cảnh báo: “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp... làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước”(4). Năm năm sau, tại Đại hội XII, Đảng ta vẫn cảnh báo và đặt ra trọng trách: “Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”(5). Đây là một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm của Đảng, ít nhất trong tầm nhìn tới năm 2021.
Tối thiểu như thế, hiện nay vấn đề này quan trọng và cấp bách, mang ý nghĩa thành bại, sinh tử đối với chúng ta tới mức nào.
Góp phần nhận diện và dự báo sự suy thoái mới và phức tạp về chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống trong cán bộ, đảng viên
Những biểu hiện suy thoái chính trị trong Đảng hết sức phức tạp, tinh vi, dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Song, có thể nói gọn lại, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức là sự tha hóa và thoái hóa về nhận thức chính trị và hành động chính trị của cán bộ, đảng viên trực tiếp gây tổn hại đến vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu và uy tín chính trị của Đảng, chức năng, vai trò và trọng trách quản lý, điều hành của Nhà nước và sức mạnh của hệ thống chính trị đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc ở nước ta.
Trước hết, đó là sự thờ ơ chính trị, thờ ơ lương tri hay lãnh đạm chính trị, lãnh đạm lương tri. Sự bàng quan với thời cuộc và tình hình đất nước; sự “thúc thủ”, “rũ áo xuôi tay”, “lạnh tanh máu cá, nhiệt tình độ âm” trước vận mệnh của Đảng, của dân tộc, sự lẩn tránh trách nhiệm của chính mình... đã và đang trở thành phương châm hành xử của không ít người. Đó chính là hành động “trùm chăn”, “án binh bất động”; là thái độ “sống chết mặc bay”, “cháy nhà hàng xóm bình chân như vại”... Nói chính xác, sự thờ ơ chính trị là đồng nghĩa với sự tê liệt về ý chí cách mạng chiến đấu, thụ động, tự hạ vũ khí chiến đấu, tự tước bỏ vị thế của người chiến sĩ tiên phong, tự làm mờ nhạt, “tan rữa” mình và vô hình cổ vũ cho cái xấu, cái ác ngóc đầu dậy và hoành hành. Đó là một điều nguy hiểm. Ngạn ngữ từng có câu và thực tiễn lịch sử cũng chứng minh: Không làm một điều gì có nghĩa là đã làm một điều xấu xa; và không có gì đáng hổ thẹn hơn về mặt đạo đức là sự thờ ơ với vận mệnh của Tổ quốc mình.
Ở góc độ khác, suy thoái tư tưởng chính trị là sự dao động chính trị, tha hóa đạo đức. Đó là sự mất thế ổn định vững chắc về tư tưởng, tinh thần và sự nao núng, ngả nghiêng trong hành động trước sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Đó là sự giảm sút niềm tin xã hội chủ nghĩa, là sự “nhạt Đảng”, “nhạt lý tưởng xã hội chủ nghĩa”; nhận thức mơ hồ, lệch lạc về chủ nghĩa Mác - Lê-nin và chủ nghĩa xã hội, về đường lối, chủ trương của Đảng... Đặc biệt, trước những bước ngoặt của cách mạng, họ hồ nghi sự đúng đắn của mục tiêu chính trị và thậm chí ngả theo luận điệu cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã lỗi thời (!), họ “giữ thân”, “sống chết mặc bay”... không dám hoặc không dám công khai đấu tranh với các quan điểm, hành vi trái với quan điểm của Đảng, thậm chí a dua, cổ súy cho những tư tưởng đó, v.v.. rồi mất phương hướng tư tưởng, mất khả năng chủ động kiểm soát và điều chỉnh hành động của mình, từ đó rơi vào tình trạng hoặc “tả” khuynh hoặc hữu khuynh hoặc chiết trung chủ nghĩa, hoặc tự phát manh động, hoặc phiêu lưu chính trị... Đó là những con lắc đơn về tư tưởng chính trị, là tập hợp hỗn mang của thứ “đạo đức tùy thời”, “đạo đức con buôn”...
Sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức cũng được biểu hiện thành thói thực dụng chính trị, thực dụng đạo đức. Đó là tình trạng phân liệt cực tả về tư tưởng, hành động và lối sống. Nghĩa là, họ chỉ nhằm vào những gì mang lại lợi ích cho mình (và phe nhóm mình) một cách nhất thời, trước mắt mà không quan tâm tới lợi ích chung của cách mạng, của nhân dân, thậm chí chà đạp lên chúng, cốt mưu chiếm đoạt cho lợi ích riêng của mình, của phe nhóm mình. Từ đó tạo nên tình trạng cát cứ, phe nhóm, phường hội theo kiểu “trên có chính sách, dưới có đối sách”, hành xử theo lối “đạo đức cho người và đạo đức cho ta”... vô hình phá vỡ tính thống nhất và chỉnh thể của đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, “băm nhỏ” và “chia phần”, xâm hại lợi ích chung bằng “nhát dao của tên đao phủ”, như cách nói của H.Ban-dắc, hình thành và lũng đoạn xã hội bằng lợi ích nhóm và những nhóm lợi ích... làm phân liệt ý chí và rã rời sức mạnh của tổ chức, làm suy nhược sức mạnh đất nước. Và, V.I. Lê-nin gọi đó là một sự “man rợ”.
Ở mức độ trầm trọng và nguy hiểm là, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức được hiện diện bằng tình trạng cơ hội chính trị, cơ hội về đạo đức. Đó là thói tùy thời thỏa hiệp vô nguyên tắc, là hành động lợi dụng cơ hội nhằm chiếm đoạt lợi ích trước mắt và cục bộ, bất kể việc làm đó đúng hay sai, như kiểu “mượn gió bẻ măng”, “đục nước béo cò”, ngả nghiêng, xoay xở, “gió chiều nào che chiều ấy”, sống dua, tìm kiếm “ô, dù” trong các chuyến “buôn quyền lực”, kèn cựa, gây bè kéo cánh, thậm chí vu cáo, bôi nhọ đồng chí, gây rối nội bộ... V.I. Lê-nin chỉ rõ: Họ xác định thái độ của mình tùy theo hoàn cảnh, thích ứng với những sự biến trước mắt, với những biến đổi của những sự kiện chính trị nhỏ nhặt, quên mất lợi ích sống còn của giai cấp vô sản..., hy sinh những lợi ích sống còn ấy vì những lợi ích thực tế hay những lợi ích giả định tạm thời - đó là chính sách của bọn xét lại. Và từ chính thực chất của chính sách ấy nảy sự thật hiển nhiên là: chính sách ấy có thể mang những hình thức hết sức muôn hình muôn vẻ và mỗi vấn đề hơi “mới” một chút, mỗi sự thay đổi hơi bất ngờ và đột ngột một chút của những sự biến - dù sự thay đổi ấy chỉ làm thay đổi đường lối căn bản của sự phát triển trong một mức độ rất nhỏ và trong một thời gian ngắn nhất chăng nữa - nhất định bao giờ cũng đẻ ra biến tướng này hay biến tướng khác của chủ nghĩa xét lại. Đây là một căn bệnh cực kỳ nguy hiểm trong Đảng, đặc biệt là tình trạng “cơ hội giấu mặt”. Bằng “vỏ bọc cộng sản”, dưới danh nghĩa tiếp tục “đổi mới”, họ đòi xét lại cơ sở, nền tảng lý luận và tư tưởng của Đảng, đường lối chính trị của Đảng trên những phương diện cốt tử nhất; cổ súy cho tư tưởng và quan niệm đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập; gắn kết chủ nghĩa cơ hội với chủ nghĩa bè phái và cục bộ địa phương, hình thành các “ô, dù”, cánh hẩu trong Đảng, phân hóa một bộ phận đội ngũ đảng viên của Đảng, làm biến chất, phân rã và tê liệt không ít tổ chức đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức,v.v.. Ở họ chứa đựng thứ “đạo đức ba mặt”: cao đạo trong cuộc họp, trí trá ngoài hành lang và nịnh bợ trước cấp trên - hành xử cốt sao có lợi cho họ, dù hại đồng chí mình và tổ chức. Họ sợ sự thật và tìm cách bóp nghẹt, thậm chí chà đạp những người trung trinh. Đó là những con “kỳ nhông chính trị”, “con trùng biến hình đạo đức” trong Đảng. Một lần nữa, cần khắc sâu và cảnh báo: Sự suy thoái về đạo đức là con đường ngắn nhất dẫn tới sự băng hoại về chính trị; đến lượt nó, sự băng hoại về chính trị dẫn tới “cái chết về đạo đức”.
Biểu hiện tập trung nhất, cao nhất và nguy hiểm nhất của suy thoái tư tưởng chính trị là tham nhũng chính trị, phản bội chính trị, thối rữa tư tưởng và băng hoại đạo đức... tạo nên những “kẻ thù giấu mặt”, những “liên minh tội phạm”. Họ cho mình cái quyền sở hữu quyền lực chính trị mà nhân dân ủy thác cho họ thành “của riêng” để đổi chác, ban phát cho “nhóm”, thành hàng hóa mưu toan định giá bán mua... Tất cả “gieo” mầm họa trong cán bộ: tệ “chạy” (chức quyền, tuổi tác, luân chuyển, bằng cấp...); tệ gian dối (trước cấp trên, cấp dưới và nhân dân); tệ “đạo vị”, nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh, tức là “ăn trộm chức quyền”; v.v.. Đó cũng là sự quay quắt về tư tưởng chính trị và giả trá về đạo đức, sự ngả hẳn hành động về phía kẻ thù chống lại cách mạng, phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc của Đảng và nhân dân ta, mà trước hết là, phá vỡ Đảng một cách toàn diện công cuộc đổi mới, chống lại dân tộc và nhân dân. Có người kêu gào đòi lập đảng đối lập với Đảng ta... Nếu sự phản bội chính trị, sự tan rã đạo đức nằm trong những cán bộ cốt cán của Đảng, ở những phương diện và bộ phận quan trọng của Đảng thì hậu quả càng và khôn lường. Bài học về sự tan vỡ của một số đảng cộng sản gần đây đã cảnh báo điều đó. Đây là những giặc nội xâm nguy hiểm nhất, những “cục bướu ác tính” tích tụ và phát tác trong nội bộ làm Đảng rã rời, có nguy cơ đột quỵ, đội ngũ rối loạn, chế độ tan vỡ, hậu họa đối với dân tộc khôn lường.
Hậu họa cần lường trước và ngăn chặn; những nguyên nhân cần nắm bắt và chủ trị
Tất nhiên, những biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức trên không diễn ra một cách độc lập, khép kín; mà trái lại, chúng vận động hết sức uyển chuyển, xuyên thấm vào nhau rất tinh vi và chuyển hóa rất phức tạp. Cái này là điều kiện, là tiền đề, là môi trường dung dưỡng của và cho cái kia; và ngược lại. Tất cả tích tụ, và cóp thể biến thành một thế lực có sức phá hoại ghê gớm và khôn lường.
Kinh nghiệm lịch sử chỉ rõ, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức của đảng viên, nhất là đảng viên giữ chức vụ cao cấp trong bộ máy của Đảng và Nhà nước là con đường ngắn nhất và trực tiếp hạ thấp, thậm chí thủ tiêu vai trò chính trị, thực lực chính trị và uy tín chính trị của Đảng và Nhà nước ở mức độ trầm trọng. Nghĩa là, từ sự suy thoái về đạo đức, về tư tưởng chính trị trong Đảng, tới mức nào đó, dẫn tới nguy cơ chệch hướng về chính trị và đẻ ra một nền chính trị suy thoái, một nền móng đạo đức chính trị suy đồi... chỉ là một bước chuyển ngắn. Và từ đó có thể dẫn tới nguy cơ về một nền chính trị, đạo đức suy thoái, dẫn tới chệch hướng xã hội chủ nghĩa, tới mức không thể kiểm soát.
Sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống đó trực tiếp làm cho Đảng đánh mất bản chất giai cấp công nhân, đánh mất vị trí và vai trò tiên phong của người lãnh đạo công cuộc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa; và tất nhiên sẽ không còn là đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam. Đảng ta chỉ rõ: “... Khi nào xa rời bản chất giai cấp công nhân, bản chất cách mạng và niềm tin cộng sản thì khi đó mắc sai lầm, khuyết điểm, thậm chí dẫn đến sai lầm về đường lối”(6). Và nếu không kịp thời sửa chữa, tới một mức nào đó, Đảng sẽ bị biến chất, chế độ xã hội chủ nghĩa bị thay đổi, Nhà nước không còn là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân nữa.
Các biểu hiện trên là con đẻ của chủ nghĩa cá nhân (dưới mọi hình thức), chủ nghĩa thực dụng và chủ nghĩa cơ hội với nhiều biến thể, nhất là trong điều kiện hiện nay. Đặc biệt, trước sự thoái trào tạm thời của phong trào xã hội chủ nghĩa, với âm mưu “diễn biến hòa bình” của kẻ thù, thậm chí “tự diễn biến” trong nội bộ càng làm cho tình hình càng phức tạp, nặng nề hơn. Nhưng điều cần nhấn mạnh là, các biểu hiện đó được dung dưỡng bởi cơ sở kinh tế - xã hội của nền sản xuất nhỏ, tâm lý tiểu tư sản, di họa tư tưởng đạo đức phong kiến và tư sản còn khá dai dẳng và thịnh hành ở một số nơi, một số người giữ trọng trách. Điều cảnh báo là, những biến tướng mới về chủ nghĩa thực dụng, tham nhũng quyền lực, chủ nghĩa con buôn... đang lây lan. Toàn bộ bối cảnh này diễn ra trong điều kiện nước ta từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế với muôn mặt phức tạp của nó, nên sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống càng có cơ hội lan rộng.
Nhưng, có thể nói thực trạng trên cơ bản và trước hết bắt nguồn từ chỗ, các cán bộ, đảng viên này kém rèn luyện, tu dưỡng bản thân; thiếu bản lĩnh chính trị, bản lĩnh sống lại bị chi phối bởi những tác động tiêu cực bởi mặt trái nền kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập... nên họ trượt dài vào con đường suy thoái, biến chất. Trực tiếp nhất là, công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức ở nhiều lúc, nhiều nơi bị coi nhẹ, thậm chí bị thả nổi; kỷ cương, kỷ luật trong Đảng chưa nghiêm; chưa có một cơ chế kiểm tra, giám sát minh bạch, nghiêm ngặt và triệt để đảng viên; công tác phát triển Đảng ở nhiều nơi bị “khúc xạ” đã mở lối cho các phần tử cơ hội, thậm chí cả những kẻ phản động chui vào Đảng; các nguyên tắc sinh hoạt đảng bị buông lỏng; chưa có cơ chế kiểm tra, giám sát hữu hiệu nhất đối với cán bộ, đảng viên. Thực tiễn chứng minh, tất cả những hoạt động không có nguyên tắc đều dẫn tới sự đổ vỡ. Hơn nữa, trước sự tác động mặt trái của cơ chế thị trường, trở thành miếng đất dung dưỡng tư tưởng thực dụng, cơ hội giấu mặt, dối trên lừa dưới, lợi dụng chức quyền để mưu lợi cá nhân (và phường hội), “đầu cơ chính trị”, kéo bè kết cánh, sa đọa đạo đức... đã làm cho một bộ phận đảng viên sống “phân thân”, xa rời lý tưởng xã hội chủ nghĩa, sa sút đạo đức cách mạng. Điều cần cảnh báo là, sự suy thoái về đạo đức, nhân cách chắc chắn dẫn đến sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, thậm chí phản bội mục tiêu phấn đấu và trách nhiệm của người cộng sản.
Mặt khác, về phía Nhà nước, không ít trường hợp đã buông lỏng pháp luật, có trường hợp dung túng cho những việc làm sai trái của cán bộ, đảng viên, vô hình trung tiếp tay cho sự lộng hành cá nhân ngay trong bộ máy nhà nước, biến một số cơ quan nhà nước của nhân dân thành “của riêng”, thành “công cụ” của số ít người nào đó. Thực tiễn từ các nước xã hội chủ nghĩa bị tan vỡ cho thấy, bất cứ sự đặc quyền đặc lợi nào trong Đảng và Nhà nước cũng xâm phạm và chà đạp lên sự tự do, dân chủ của nhân dân; và thất bại là tất yếu. Kinh nghiệm lịch sử chết người ở đây là, ở đâu không có sự thống nhất về lợi ích chung thì ở đó không có sự thống nhất về mục đích và càng không thể có sự thống nhất về hành động. Đây là nguyên nhân của tệ tha hóa quyền lực, suy thoái quyền lực chính trị khi quyền lực nằm trong tay các đảng viên bắt đầu thoái hóa về lối sống, đồi bại về phẩm hạnh đạo đức... Và cố nhiên, ở những nơi đó vai trò lãnh đạo có tính nguyên tắc của Đảng đối với Nhà nước hoặc bị “khúc xạ” hoặc bị vô hiệu hóa, hoặc vai trò của Nhà nước bị biến thành “vật tượng trưng” phục vụ cho mưu toan biến quyền lực mà nhân dân giao cho thành vật “sở hữu” của riêng họ, của riêng phe nhóm, thậm chí gia tộc họ.
Từ suy thoái dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước chuyển ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm tới mức khôn lường.
Tiếp tục phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống gắn với phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên
Việc cấp bách phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là vấn đề mang tính quy luật xây dựng Đảng, Nhà nước nói riêng, toàn bộ hệ thống chính trị nói chung; là nhu cầu của sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc vừa là nguyện vọng của nhân dân.
Nguyên tắc chỉ đạo hiện nay là, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mà then chốt là xây dựng, chỉnh đốn Đảng một cách toàn diện là phương sách tối ưu nhằm đề kháng, triệt tiêu cơ sở tồn tại của sự suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống; đồng thời, đấu tranh liên tục, hiệu quả và triệt để với sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là một bộ phận hợp thành toàn bộ công tác xây dựng Đảng, chính quyền Nhà nước và làm lành mạnh các quan hệ xã hội.
Phương châm quán xuyến lúc này là: Chủ động và liên tục; dân chủ và bình đẳng; phá bỏ mọi vùng cấm; cấp trên làm gương; công khai và minh bạch; quyết liệt và nghiêm khắc; trên dưới phối hợp, trong ngoài đồng bộ, lấy sức mạnh tổng thể làm căn bản.
Tinh thần chỉ đạo hiện nay: Chọn đúng đột phá, chuẩn bị đầy đủ thực lực, giải quyết triệt để; không “bắt cóc bỏ đĩa”; không “đánh trống bỏ dùi”, không né tránh, đùn đẩy, nửa vời.
Trước mắt, tập trung thực thi tối thiểu bốn nhiệm vụ sau:
Trước hết, mỗi cán bộ, đảng viên gương mẫu tự giáo dục, tự chỉnh đốn mình. Đặc biệt là những người giữ trọng trách và đứng đầu bộ máy đảng, nhà nước và các thành viên hệ thống chính trị khác, không ngừng tự rèn luyện, tự khép mình vào kỷ luật một cách toàn diện và triệt để, tự biết xấu hổ khi không chấp hành kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, không hoàn thành nhiệm vụ, khi sống trái đạo lý làm người. Vì, người xưa cũng nói: Con người không biết xấu hổ thì không thành người được! Đó là liêm sỉ, và cũng là lẽ tối thiểu. Không như vậy, không thể trở thành một cán bộ, đảng viên tốt và nhất định không lãnh đạo được ai; và, thượng sách là nên từ nhiệm, từ chức.
Nhưng trên thực tế, không ít người do cơ hội, chạy chọt, luồn lọt, nịnh bợ... đã “kiếm” được một chức vụ nào đó và lấy đó làm cái để huyênh hoang, hợm hĩnh, dọa nạt cấp dưới và nhân dân, gây nên bao nỗi oán thán, bất bình, làm tổn thương mối quan hệ máu thịt giữa Đảng - “đứa con nòi của giai cấp lao động”. Thậm chí biến nó thành “vật sở hữu” để kéo bè cánh, phe nhóm, mặc sức trục lợi, gây sự phân liệt, rã rời... trong bộ máy đảng và nhà nước. Phải cắt bỏ ngay những “cục bướu ác tính
ấy”, những “liên minh ma quỷ”... trong cơ thể Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị. V. I. Lê-nin từng cảnh báo: Không một kẻ thù nào, cho dù nó nham hiểm và hung hãn nhất, có thể tiêu diệt được Đảng Cộng sản, ngoại trừ chính những người cộng sản tự tiêu diệt chính họ.
Mỗi cán bộ, đảng viên luôn thật xứng đáng với vị thế chính trị, nêu gương phát huy đạo lý dân tộc: Nhân nghĩa, trung thành, dũng cảm, trí tuệ, liêm sỉ, thân dân!
Thứ hai, Đảng đi tiên phong trong hành động thật kiên quyết, triệt để. Thực tiễn xử lý những bệnh tật tiêu cực ở một số người và một số tổ chức mới đây và giải quyết những vấn đề cấp bách đặt ra trong công tác xây dựng Đảng, và kinh nghiệm càng chỉ rõ, hơn lúc nào hết, lúc này một bước tiến trong hành động có giá trị hơn cả một tá lời hô hào sáo rỗng. Tiếp tục thực thi nghiêm các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, trước hết thực hành dân chủ rộng rãi, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong Đảng gắn chặt với siết chặt kỷ luật tự giác của Đảng. Xây dựng và phát triển bầu không khí đạo đức chính trị lành mạnh trong Đảng, Nhà nước và xã hội.
Đội ngũ cán bộ, trước hết là những người đứng đầu phải thực sự là tấm gương về chính trị, về đạo đức và về hành động, theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI và Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Sự thành bại của Đảng một phần cơ bản nằm ở phương diện này. Kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những đảng viên thoái hóa biến chất, nhất là về đạo đức, những phần tử cơ hội, bất mãn, những người gây mất đoàn kết nội bộ Đảng, cố ý bội nhọ, phủ nhận (dưới mọi hình thức) Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, vi phạm các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng. Đặc biệt, thực hiện hiệu quả tự phê bình và phê bình, trước hết nhằm uốn nắn những lệch lạc về tư tưởng chính trị, nhất là những biểu hiện dao động dễ bị những phần tử xấu kích động, lôi kéo; phê phán, kỷ luật nghiêm khắc những đảng viên coi thường nghị quyết của Đảng, nói một đường làm một nẻo, coi thường nhân dân; những người vi phạm về đạo đức, lối sống, tham nhũng, mất đoàn kết, cục bộ bản vị, cá nhân chủ nghĩa... Sự suy thoái về đạo đức có nguy cơ dẫn tới sự thoái hóa về chính trị. Hơn lúc nào hết, chúng ta phải xây dựng Đảng ngang tầm về mặt đạo đức. Đó chính là sự kết tinh phát triển trên bình diện chính trị. Vì Đảng ta “là đạo đức, là văn minh”. Xử lý kịp thời, nghiêm khắc những người giữ chức vụ trong Đảng vi phạm kỷ luật, pháp luật, theo phương châm “quốc pháp vô thân” để làm răn đối với các cán bộ, đảng viên.
Điều cần tiếp tục làm là, tiếp tục đổi mới xây dựng và hoàn thiện cơ chế hoạt động trong Đảng và hệ thống chính trị là gốc. Đổi mới các nguyên tắc tổ chức, nguyên tắc hoạt động của Đảng, của Nhà nước; đổi mới cơ chế vận hành của mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và các thành viên của hệ thống chính trị theo mô hình vòng tròn đồng tâm, mà Đảng là trung tâm, một cách tập trung dân chủ, minh bạch hóa, theo vị thế, chức năng và nhiệm vụ của mỗi thành viên; trọng tâm là đổi mới phương thức cầm quyền dân chủ, tổ chức bộ máy nhất thể hóa liên thông, gọn và đội ngũ cán bộ tinh nhuệ. Đổi mới cơ chế phát triển quyền lực và giám sát quyền lực một cách dân chủ và minh bạch đối với tất cả các tổ chức, các chức danh trong hệ thống chính trị.
Ở đây, trực tiếp là đổi mới cơ chế giám sát, kiểm tra nghiêm ngặt định kỳ và bất thường trong toàn hệ thống chính trị nhằm quản lý chặt chẽ từng cán bộ, mọi đảng viên ở nơi công tác, ở khu vực cư trú và nơi đảng viên đi công tác, nhất là đi công tác ngoài nước (thu nhập, tài khoản ngân hàng...). Chấn chỉnh, trao thêm trọng trách và trong sạch hóa các cơ quan và đội ngũ làm công tác kiểm tra, thanh tra. Không thể lấy tiêu cực để chống tiêu cực. Đổi mới cơ chế kiểm tra, kiểm soát: Không ai, không một tổ chức nào được nằm ngoài sự kiểm tra, giám sát, kỷ luật và pháp luật. Kỷ luật phải là tối thượng, pháp luật phải được thượng tôn; cả hai phải được toàn dụng một cách công minh, bình đẳng, kịp thời và đúng đắn. Công tác phát triển Đảng tiếp tục được chỉnh đốn, nhằm thu hút tinh hoa xã hội, thải loại nghiêm khắc những phần tử thoái hóa, thanh lọc “cặn bã” trong bộ máy Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị. Siết chặt công tác bảo vệ chính trị nội bộ của Đảng. Không “đầu voi đuôi chuột”, không “mang thúng úp voi” hay “mùa vụ tùy hứng”, “gặp chăng hay chớ”... làm nhờn kỷ luật, “giỡn mặt pháp luật”.
Cố nhiên, chỉ có một thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng mới tạo nền tảng tư tưởng chính trị vững chắc cho cán bộ, đảng viên kiên định lý tưởng xã hội chủ nghĩa, tự giác phấn đấu vì mục tiêu chủ nghĩa xã hội theo đường lối cách mạng của Đảng. Do vậy, bằng mọi hình thức nâng cao trình độ lý luận tư tưởng, tu dưỡng và tự tu dưỡng phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên nâng cao đạo đức cách mạng, năng lực hành động độc lập và tự giác trên những cương vị mà họ được giao phó theo Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị, Về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Trước hết, mỗi cán bộ, đảng viên phải tự mình nêu gương là một công dân gương mẫu, sống trong nhân dân, thu phục uy tín của nhân dân... Mất niềm tin của nhân dân là có nguy cơ tan rã và mất hết.
Thứ ba, phát huy vai trò của Nhà nước và sức mạnh của các đoàn thể chính trị - xã hội. Đảng ta là Đảng cầm quyền. Đảng viên chiếm một bộ phận lớn và quan trọng trong bộ máy nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội. Sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức của đội ngũ đảng viên là nguyên nhân căn bản và trực tiếp làm cho Nhà nước suy thoái, các đoàn thể chính trị suy giảm sức mạnh.
Bởi vậy, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa cấp ủy, ban cán sự đảng (hoặc đảng đoàn) với ban lãnh đạo cơ quan chức năng trong việc phát huy dân chủ và công khai các vấn đề liên quan tới bộ máy, cán bộ và đảng viên, trong phạm vi cho phép và khả năng có thể; trước mắt, trên từng phương diện, đối với từng loại cán bộ, từng bước tổng kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc bổ nhiệm và hoạt động của cán bộ, đảng viên gắn chặt với hoạt động của bộ máy. Vừa qua, chúng ta đối mặt không ít hậu họa trên phương diện này. Những đảng viên là cán bộ lãnh đạo hư hỏng, thoái hóa, biến chất thì một mặt, phải bị khai trừ ra khỏi Đảng; mặt khác, nhất định phải bị sa thải ra khỏi bộ máy của Đảng, Nhà nước và đoàn thể chính trị - xã hội, trừng trị nghiêm khắc theo kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đạo lý chưa đủ thức tỉnh thì pháp lý phải được toàn dụng. Phối hợp thống nhất và đồng bộ chống “diễn biến hòa bình” - giặc ngoại xâm với cô lập và tẩy trừ giặc nội xâm hoặc đồng lõa với giặc nội xâm - “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Các cơ quan nhà nước và đoàn thể chính trị - xã hội có quyền chất vấn và khi cần thiết bảo lưu ý kiến và đề nghị lên cấp trên về các cán bộ, đảng viên khi được Đảng giới thiệu để ứng cử hoặc bổ nhiệm vào các cơ quan này. Định kỳ bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh do nhân dân bầu cử. Các đảng viên vi phạm pháp luật phải bị xử lý nặng hơn những viên chức không phải là đảng viên vi phạm pháp luật cùng mức độ. Trừng trị thật nghiêm khắc những phần tử chống đối và kêu gọi lật đổ chế độ, phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, các tổ chức chống đối Đảng, Nhà nước và chế độ. Các tổ chức đảng trong các cơ quan bộ máy nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội phải thực sự xứng đáng là người lãnh đạo thật trong sạch và gương mẫu, ngang tầm nhiệm vụ tại các cơ quan đó.
Thứ tư, bảo đảm sức mạnh của nhân dân và công luận. Kinh nghiệm vừa qua càng cho thấy: Không có sự giám sát công khai và minh bạch của nhân dân, sự ủng hộ và phản biện của công luận trên nền tảng sự giúp đỡ của nhân dân sẽ không có dân chủ đầy đủ và càng không có sức mạnh tổng thể trong công việc mệnh hệ này. Đặc biệt, những năm gần đây, vai trò của công luận được thể hiện mạnh mẽ trong phát hiện cái xấu, vun đắp cái tốt... được nhân dân ủng hộ... càng chứng tỏ điều đó. Các cấp ủy, chính quyền các cấp, các đoàn thể chính trị dựa vào nhân dân, sống trong nhân dân để thực thi trọng trách của mình. Đồng thời, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để nhân dân và báo chí tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và đoàn thể mình, trước hết trong việc giám sát đảng viên, cán bộ ở mọi lúc, mọi nơi. Xây dựng bầu không khí đạo đức xã hội, cộng đồng dân chủ, kỷ cương và nhân văn... để kiểm soát, cô lập những thói xấu, đẩy lùi tiêu cực; bảo vệ và nâng cao vai trò, sức mạnh của nhân dân và công luận theo pháp luật.
Đổi mới cơ chế bảo vệ chặt chẽ những ý kiến của nhân dân phát hiện, tố cáo cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật, đạo đức, lối sống trên tất cả các mặt khác, ở tất cả các nơi liên quan tới cán bộ, đảng viên. Cổ vũ và bảo vệ đội ngũ báo chí tham gia kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên, nhằm xây dựng và bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền và đoàn thể trong hệ thống chính trị. Buông lơi điều này, công việc rất khó thành công, nếu không nói là cầm chắc thất bại. Nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng của toàn dân trước âm mưu chống phá của những phần tử suy thoái, của các thế lực phản động và thù địch từ bên ngoài.
Một lần nữa, cần nhắc lại lời cảnh báo của V. I. Lê-nin, trong quá trình giải quyết công việc cấp bách này: “Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta. Toàn bộ vấn đề là ở chữ “nếu” này. Nếu chúng ta do sai lầm mà gây ra sự chia rẽ thì tất cả sẽ sụp đổ”(7) z
Nhị Lê
Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản
----------------------------------------------
(1) Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr. 24
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 52
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 263 - 264
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 173
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 201
(6) Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) khóa VIII, Sđd, tr. 52
(7) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 42, tr. 311.