Đẩy mạnh cải cách thể chế, hướng tới một Việt Nam thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ
Nhìn lại quá trình đổi mới 30 năm, cũng như hơn 7 thập kỷ sau khi giành độc lập, thành tựu lớn nhất là đưa Việt Nam từ một trong những nước nghèo nhất thế giới trở thành một nước có thu nhập trung bình. Từ 1986 đến nay, thu nhập bình quân đầu người tăng 4 lần, tỉ lệ hộ nghèo giảm từ 95% xuống còn dưới 5%. Nhưng thực tế, hiện nay Việt Nam vẫn là một nước nghèo. So sánh là khập khiễng nhưng nếu không bằng lòng thỏa mãn thì nhìn vào tương quan nước bên cạnh có cùng điều kiện thấy Việt Nam đang đứng trước yêu cầu đổi mới cấp bách hơn bao giờ hết. 

Đầu thế kỷ 19, vào năm 1820, Việt Nam đã có vị thế rất đáng nể trong khu vực về dân số cũng như quy mô kinh tế, lớn hơn cả Phi-lip-pin và My-a-ma gộp lại, gấp hơn 1,5 Thái Lan, thu nhập bình quân đầu người khi đó xấp xỉ mức trung bình của thế giới. Hiện nay, theo số liệu 2014, thu nhập bình quân đầu người của nước ta chỉ bằng 1/5 mức trung bình của thế giới, nghĩa là 2052 USD/gần 12 nghìn USD bình quân thế giới, chỉ bằng hơn 1/3 thu nhập bình quân của Thái Lan. Trong khi cùng thời gian đổi mới của Việt Nam, Hàn Quốc đã từ nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu trở thành quốc gia có kinh tế phát triển.
                          

Việt Nam đang trong cơ hội ngắn ngủi còn lại của dân số vàng và theo tính toán đến năm 2020 là hết, dù cơ quan chức năng tính thêm thêm 5 năm là 2025. Bên cạnh đó, động lực từ công cuộc đổi mới trước đây mang lại đang dần ít phát huy tác dụng. Dư địa cho tăng trưởng dựa trên tăng vốn đầu tư, lao động giá rẻ, khai thác tài nguyên khoáng sản cũng không còn nhiều lợi thế. Trong khi, Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, chúng ta chấp nhận hội nhập tức là chấp nhận cạnh tranh. Do đó nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế là một đòi hỏi có ý nghĩa sống còn. Vì ba lý do nêu trên,
Việt Nam phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa, hiệu quả hơn nữa nếu không muốn tụt lại phía sau, nếu không muốn nền kinh tế trì trệ kéo dài rơi vào bẫy thu nhập trung bình thấp.                            


Thành tựu lớn nhất của 30 năm qua được nhận định là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang thị trường. Đây chính là động lực giúp thay đổi cuộc sống của người dân, đưa đất nước phát triển. Trong khi đó, một hệ thống chính trị phù hợp với nền kinh tế kế hoạch hoá trước đây, đặc biệt là trong hoàn cảnh chiến tranh nay đã không còn phù hợp với nền kinh tế thị trường, thậm chí còn là rào cản, trở ngại cho sự phát triển. Vì vậy, việc đổi mới hệ thống chính trị đồng bộ với nền kinh tế là một yêu cầu hết sức cấp bách. "Đảng là lãnh đạo cao nhất của đất nước, cần chủ động và nghiêm khắc nhìn lại mình, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết mà Đại hội đã xác định".  Về đổi mới thể chế kinh tế, cần thực hiện trên 3 trụ cột.

Thứ nhất, thịnh vượng kinh tế phải đi đôi với bền vững về thu nhập                      

Theo đó, Việt Nam phải tăng trưởng cao liên tục trong 20 năm tới với mức tăng thu nhập bình quân đầu người 7% hằng năm, có nghĩa tương đương với mức tăng trưởng kinh tế 8%/năm, để đến năm 2015 đạt mức thu nhập bình quân theo đầu người từ 15.000-18.000 USD. Nhà kinh tế học đoạt giải Nobel kinh tế Paul Robin Krugman đã tổng kết: “Năng suất không phải là tất cả, nhưng nó gần như là tất cả. Một quốc gia có khả năng nâng cao mức sống lâu dài hay không gần như hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng nâng cao sản lượng tính trên đầu người của quốc gia đó”. Thế nhưng, mức tăng năng suất lao động của Việt Nam đã liên tục tụt giảm từ cuối những năm 90 đến nay, khiến giờ ở mức rất thấp so với các quốc gia trong khu vực. Đặc biệt, năng suất lao động ngay trong khu vực tư nhân cũng liên tục tụt giảm, ở mức rất thấp. 

Ba nguyên nhân chính của tình trạng năng suất lao động thấp là: Cơ cấu kinh tế, lao động rất lạc hậu. Lao động trong khu vực phi chính thức cao hơn rất nhiều khu vực chính thức; có hơn 44% tổng số lao động của đất nước làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Nguyên nhân thứ hai, là nền tảng kinh tế thị trường chậm phát triển làm giảm sức cạnh tranh trên thị trường hàng hóa. Thứ 3, thị trường các yếu tố như vốn, đất đai, khoáng sản… chưa phân bố theo cơ chế thị trường mà chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính.

Cùng với tăng năng suất lao động, phải tập trung cao độ phát triển doanh nghiệp trong nước mà cụ thể là doanh nghiệp tư nhân, cả về chất lượng, số lượng. Trước mắt, phải nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua củng cố, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, cạnh tranh lành mạnh trong tiếp cận vốn, đất đai, thông tin… Đi kèm đó, phải thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần khởi nghiệp, Nhà nước cung cấp, hỗ trợ vốn, kiến thức, tạo ra làn sóng khởi nghiệp và tinh thần doanh nghiệp mạnh mẽ trong cả xã hội và phải coi vị thế doanh nghiệp là vị thế quốc gia.

Để duy trì tăng trưởng cao trong thời gian dài, cần tăng cường cải cách, tích cực học hỏi, đổi mới, sáng tạo trên cơ sở xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia để cải thiện tình hình, năng suất cho Việt Nam. 

Thứ hai, công bằng trong hội nhập xã hội, hay bình đẳng cho mọi người

Bên cạnh phát triển nhanh về kinh tế theo quy luật thị trường sẽ cạnh tranh gay gắt vào nới rộng khoảng cách giàu nghèo và cơ hội tiếp cận các phúc lợi xã hội cơ bản. Vì vậy, bên cạnh chính sách phát triển kinh tế nhanh, mạnh mẽ, ông Vinh cho rằng, phải xây dựng được chính sách đảm bảo công bằng cho phát triển, tạo cơ hội cho mọi người dân, nhất là những người yếu thế trong xã hội như dân tộc thiểu số, người nghèo, người khuyết tật…   

Thứ ba, nâng cao năng lực và trách nhiệm giải trình của Nhà nước

Năng suất trì trệ và môi trường yếu kém của khu vực tư nhân là do quản lý của Nhà nước còn thiếu hiệu quả. Để giải quyết vấn đề này, ông Vinh cho rằng, hiệu lực của Nhà nước phải được dựa trên 3 trụ cột: Chính phủ được tổ chức bởi đội ngũ công chức thực tài và có kỷ luật; Nguyên tắc thị trường cần được áp dụng đầy đủ hơn trong hoạch định kinh tế, trên cơ sở hoạch định rõ các lĩnh vực công, tư, hạn chế xung đột lợi ích, tăng quyền bảo vệ tài sản, đặc biệt về đất đai; Nâng cao năng lực giải trình của Nhà nước trong xây dựng cơ chế hữu hiệu kiểm soát và cân bằng giữa 3 nhánh quyền lực, tạo dựng khuôn khổ pháp lý thúc đẩy quyền công dân, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, tăng cường vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng.   

Để nhiệm vụ cải cách đảm bảo trở thành một trong 3 đột phá của Đảng ta, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ trì, phối hợp với một số tổ chức trong nước, quốc tế xây dựng Báo cáo kinh tế 2035, trong đó xác định kinh tế Việt Nam đang ở đâu trong khu vực và trên thế giới; mục tiêu khát vọng của Việt Nam đến 2035 là gì; điều gì cản trở và bằng cách nào để Việt Nam đạt mục tiêu của mình. 

Theo đó, báo cáo nêu các chuyển đổi lớn bao gồm: Nhà nước pháp quyền hiện đại, kinh tế thị trường đầy đủ và xã hội dân chủ cao; Thúc đẩy hiện đại hóa nền kinh tế song hành với nâng cao năng lực cạnh tranh khu vực tư nhân; Bảo đảm công bằng xã hội cho các nhóm yếu thế; Phát triển bền vững về môi trường; Gia tăng mật độ kinh tế trong đô thị hóa và tăng kết nối với các vùng lân cận. Hy vọng rằng, báo cáo này sẽ giúp ích cho các nhà lãnh đạo, nhà quản lý, nhất là các đồng chí trong Ban Chấp hành Trung ương khóa XII được trúng cử lần này nghiên cứu trong quá trình xây dựng, hoạch định chính sách của Việt Nam.

Nước ta đang đứng trước bước ngoặt cải cách và phát triển. Thời cơ, thuận lợi rất lớn, nhưng thách thức và khó khăn cũng không hề nhỏ. Để đạt được khát vọng hướng tới một Việt Nam thịnh vượng, công bằng và dân chủ, sáng tạo, công bằng, dân chủ, chúng ta buộc phải cải cách trên các vấn đề nêu trên. Nếu không chúng ta không thể khai thác cơ hội, cũng không thể vượt qua thách thức và nguy cơ tụt hậu xa hơn, rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Chúng tôi tin tưởng rằng, những thế hệ người Việt Nam hiện nay và tương lai chắc chắn có đủ ý chí, bản lĩnh để thực hiện thành công công cuộc đổi mới.  

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất