Trên cơ sở nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng thực trạng tình hình Đảng và công tác xây dựng đảng, nhất là những khuyết điểm, yếu kém, Nghị quyết của Trung ương đã xác định 3 vấn đề cấp bách nhất của công tác xây dựng đảng hiện nay là: (1). Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và nhân dân đối với Đảng. (2). Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp Trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. (3). Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Để thực hiện 3 vấn đề cấp bách nêu trên, Nghị quyết Trung ương đề ra 4 nhóm giải pháp đồng bộ để thực hiện, trong đó tập trung vào giải quyết những vấn đề bức xúc, trì trệ nhất.
Nhìn lại 3 năm thực hiện Nghị quyết, những kết quả đạt được tuy chưa đáp ứng được lòng mong đợi của cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhưng đa số ý kiến đều cho rằng: Việc triển khai, tổ chức thực hiện Nghị quyết lần này có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ và thể hiện quyết tâm chính trị cao của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Nội dung và các nhóm giải pháp nêu trong Nghị quyết đã được thể chế hoá, cụ thể hoá bằng các kế hoạch, quy định, hướng dẫn… tương đối nhanh, kịp thời và khá đồng bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai thực hiện ở các cấp. Công tác chỉ đạo thực hiện cũng như nội dung, quy trình và cách làm có một số điểm mới, có tác dụng và đem lại một số kết quả bước đầu. Cụ thể như sau:
1- Thông qua học tập, quán triệt Nghị quyết và các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương, các cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên đã nhận thức sâu sắc hơn ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng; thấy rõ hơn tính cấp bách và sự cần thiết phải tiếp tục đổi mới, chỉnh đốn Đảng. Từ đó, xác định ý thức trách nhiệm và đề cao tinh thần tự giác trong việc thực hiện Nghị quyết.
2- Qua chuẩn bị và tiến hành kiểm điểm tự phê bình và phê bình, lắng nghe và tiếp thu ý kiến góp ý của các cấp ủy, tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên và nhân dân, các cấp ủy, tổ chức đảng và từng cán bộ, đảng viên đã nhận diện rõ hơn những biểu hiện cụ thể của tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của cán bộ, đảng viên; tự nhìn nhận, soi xét lại bản thân, thấy rõ và sâu sắc hơn những ưu điểm, khuyết điểm của mình; đồng thời phân tích, làm rõ nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan của những khuyết điểm, yếu kém để đề ra phương hướng, kế hoạch, giải pháp khắc phục khuyết điểm.
3- Qua kiểm điểm tự phê bình và phê bình tập thể, cá nhân ở các cấp, kết hợp với công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, thanh tra, kiểm toán của Nhà nước và công tác điều tra, truy tố, xét xử công khai, nghiêm khắc đối với những cán bộ, đảng viên vi phạm nghiêm trọng Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước đã có tác dụng: cảnh báo, cảnh tỉnh, răn đe và phòng ngừa sai phạm; siết lại kỷ cương, kỷ luật và tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; đấu tranh, ngăn chặn một bước tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Trong 3 năm, toàn Đảng đã xử lý kỷ luật bằng các hình thức trên 54.000 đảng viên (năm 2012 kỷ luật 16.000; năm 2013 kỷ luật hơn 21.000; năm 2014 kỷ luật hơn 17.000) và xóa tên, cho ra khỏi Đảng hàng nghìn trường hợp khác, trong đó có nhiều đảng viên phải truy tố trước pháp luật, góp phần làm trong sạch nội bộ Đảng.
4- Sau kiểm điểm tự phê bình và phê bình, các cấp ủy, tổ chức đảng đã xây dựng chương trình, kế hoạch phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm; đề ra các giải pháp cụ thể để sửa chữa, khắc phục hạn chế, khuyết điểm và thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện. Quá trình xây dựng và thực hiện kế hoạch sửa chữa, khắc phục khuyết điểm được kết hợp chặt chẽ với việc thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; với thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu và tập trung xem xét, giải quyết những vụ việc nổi cộm, phức tạp, kéo dài ở các địa phương, cơ quan, đơn vị.
5- Qua thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp mà Nghị quyết Trung ương 4 đề ra, đã góp phần đấu tranh, ngăn chặn và đẩy lùi một bước tình trạng suy thoái về tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và vô cảm trong cán bộ, đảng viên; tạo được một số chuyển biến tích cực trong công tác xây dựng Đảng về trong công tác tổ chức, công tác quy hoạch cán bộ cấp chiến lược và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Các cấp ủy, tổ chức đảng đã tích lũy thêm kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình trong Đảng.
6- Trong bối cảnh đất nước có nhiều khó khăn, thách thức; tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến nhanh và phức tạp tác động, những chuyển biến và kết quả bước đầu thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Đảng, đã góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội; củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh; bảo đảm an sinh xã hội và thúc đẩy thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong những năm vừa qua.
Có được những kết quả trên là do: Việc ban hành Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Đảng là một chủ trương đúng đắn, kịp thời, đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn và phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân, được dư luận trong Đảng, trong xã hội đồng tình ủng hộ, tích cực tham gia. Việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 được Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo chặt chẽ, toàn diện, sâu sát, cụ thể, với quyết tâm chính trị cao và có một số đổi mới về nội dung, quy trình, cách làm đã có tác dụng tốt và đem lại hiệu quả thiết thực. Sự gương mẫu, nghiêm túc, tự giác trong kiểm điểm tự phê bình và phê bình của tập thể, cá nhân Bộ Chính trị, Ban Bí thư là tấm gương để cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng học tập, noi theo.
Bên cạnh những kết quả trên, việc thực hiện Nghị quyết cũng bộc lộ một số hạn chế, khuyết điểm sau:
Trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết, một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc về Nghị quyết Trung ương 4 và việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình; nhiều cấp ủy, tổ chức đảng và cơ quan, đơn vị góp ý kiến kiểm điểm cho cấp trên, nhất là góp ý cho cá nhân còn nể nang, e ngại nên chất lượng hạn chế. Tình trạng suy thoái về tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong cán bộ, đảng viên tuy đã được đấu tranh, ngăn chặn một bước, nhưng vẫn đang tồn tại, chưa được đẩy lùi, thậm chí có mặt còn phát triển với những hình thức tinh vi, phức tạp hơn.
Quá trình chuẩn bị và tiến hành kiểm điểm tự phê bình và phê bình tập thể, cá nhân, một số cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp chưa nhìn nhận đúng mức khuyết điểm và trách nhiệm của mình trước những hạn chế, khuyết điểm của tập thể. Qua kiểm điểm, một số vấn đề như chạy chức, chạy việc, chạy tội, lợi ích nhóm…, vẫn chưa làm rõ được thực chất và mức độ nghiêm trọng của tình hình, chưa chỉ ra được địa chỉ cụ thể và trách nhiệm của tập thể, cá nhân.
Sau kiểm điểm tự phê bình và phê bình, một số nơi chậm đề ra kế hoạch, biện pháp sửa chữa, khắc phục khuyết điểm hoặc xây dựng kế hoạch còn chung chung, thiếu cụ thể; việc chỉ đạo thực hiện kế hoạch khắc phục khuyết điểm ở một số nơi chưa đồng bộ, thiếu quyết liệt nên kết quả còn hạn chế. Việc kiểm điểm theo Nghị quyết Trung ương 4 khi đi vào thường xuyên, gắn với kiểm điểm cuối năm ở nhiều nơi có xu hướng lỏng lẻo; còn biểu hiện khá phổ biến tình trạng nể nang, né tránh và bệnh thành tích; chưa đi sâu phân tích, làm rõ nguyên nhân của những khuyết điểm và xác định trách nhiệm của tập thể, cá nhân liên quan.
Việc nghiên cứu, ban hành một số quy định, quy chế, hướng dẫn để cụ thể hoá, thể chế hoá thực hiện Nghị quyết còn chậm và chưa thật đồng bộ. Một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa coi trọng công tác kiểm tra, đôn đốc trong quá trình thực hiện Nghị quyết cũng như việc xây dựng, thực hiện kế hoạch sửa chữa, khắc phục khuyết điểm. Việc xem xét, xử lý một số trường hợp vi phạm khuyết điểm chưa kịp thời, nghiêm khắc; một số vụ việc nổi cộm, phức tạp, gây bức xúc trong Đảng và trong xã hội giải quyết còn chậm so với yêu cầu.
Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ở nhiều nơi còn hình thức, mang tính phong trào, chưa trở thành công việc thường xuyên hàng ngày của mỗi cán bộ, đảng viên. Công tác thông tin, tuyên truyền về thực hiện Nghị quyết còn hạn chế, chưa mạnh mẽ, sắc bén và có lúc thiếu kịp thời.
Nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm trên là do: Những vấn đề cấp bách nêu trong Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Đảng là những vấn đề lớn, khó và phức tạp, tác động đến nhiều mặt của công tác xây dựng Đảng, trong đó có những vấn đề đã tồn đọng kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ và liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, đòi hỏi phải có thời gian mới có thể khắc phục, giải quyết được.
Công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của một số cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu cơ quan, đơn vị chưa thường xuyên, chặt chẽ và thiếu kiên quyết; một số vụ việc phức tạp, nổi cộm còn để kéo dài, chưa được xử lý kịp thời, dứt điểm. Một bộ phận cán bộ, đảng viên tính chiến đấu yếu, còn tư tưởng nể nang, né tránh, “dĩ hòa vi quý”. Cá biệt, có một số còn nghi ngờ, không tự giác thực hiện và thiếu tin tưởng vào kết quả thực hiện Nghị quyết.
Trong thời gian tới, các cấp ủy đảng cần tiếp tục lãnh đạo đẩy mạnh thực hiện đồng bộ các giải pháp mà Nghị quyết đã đề ra, nhất là tập trung chỉ đạo khắc phục những khuyết điểm đã được chỉ ra qua tự phê bình và phê bình, giải quyết dứt điểm những vụ việc nổi cộm ở địa phương, đơn vị, đưa Nghị quyết vào cuộc sống.
Đức Hà