Hơn 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đã giành nhiều thắng lợi to lớn. Những thắng lợi đó do nhiều nhân tố tạo nên, trong đó phương pháp cách mạng khoa học, sáng tạo là nhân tố quan trọng. Thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám trước hết là nhờ Đảng ta có đường lối đúng, phương pháp cách mạng, khoa học, biết kết hợp toàn bộ sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong một thời cơ, thời điểm quyết định để làm nên chiến thắng oanh liệt, góp phần mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn coi trọng phương pháp cách mạng và sử dụng phương pháp cách mạng để thực hiện phương hướng, mục tiêu của cách mạng đặt ra trong mỗi thời kỳ.
Việc xác định đường lối của đảng trong mỗi giai đoạn cách mạng bao gồm nhiều nội dung, trong đó có hai nội dung quan trọng đó là: xác định mục tiêu, nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng; các phương pháp (giải pháp, hình thức đấu tranh, tổ chức lực lượng…) để thực hiện thắng lợi mục tiêu nhiệm vụ đó. Giữa hai nội dung trên có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ với nhau, quyết định lẫn nhau.
Việc xác định mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng là vấn đề cực kỳ quan trọng, song để thực hiện được các mục tiêu và nhiệm vụ đó đòi hỏi phải có phương pháp cách mạng bao gồm sự vận dụng đúng đắn các phương pháp vận động cách mạng, các hình thức tổ chức lực lượng và chỉ đạo đấu tranh một cách sáng tạo phù hợp với những điều kiện ở từng nơi, từng lúc trong từng thời kỳ cách mạng. Để có phương pháp cách mạng đúng trước hết phải có nghệ thuật trong tổ chức, xây dựng các lực lượng và sử dụng các hình thức đấu tranh cách mạng một cách khoa học, đúng thời cơ. Điều này đã được chứng minh bằng những thắng lợi to lớn của cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám và trong cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Thực tế lịch sử lãnh đạo cách mạng của Đảng ta cũng đã chứng minh, có những lúc phong trào cách mạng gặp nhiều khó khăn, thậm chí thoái trào, thất bại. Nguyên nhân không phải vì đường lối chưa đúng, việc xác định mục tiêu, nhiệm vụ chưa rõ ràng, mà là vì thiếu phương pháp cách mạng, thiếu sự sáng tạo trong tổ chức thực hiện. Một phương thức cách mạng có thể thích hợp với nơi này, lúc này, nhưng sang nơi khác, lúc khác thì có thể không còn thích hợp nữa. Vì vậy, đòi hỏi phải luôn luôn có sự tìm tòi, đổi mới, tránh rập khuôn, sao chép, tránh tuyệt đối hóa một hình thức, một phương pháp nhất định nào đó. Do vậy phương pháp cách mạng được xem là tốt nhất, đúng nhất khi nó giải quyết được những yêu cầu nhiệm vụ cách mạng đặt ra trong từng thời kỳ, huy động được cao nhất lực lượng cách mạng vào trận tuyến đấu tranh với quyết tâm giành thắng lợi cao nhất. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Vì vậy, phương pháp cách mạng phải bao gồm việc tuyên truyền, giáo dục, tổ chức quần chúng thành những lực lượng tự giác, động viên họ hăng hái tham gia các phong trào cách mạng. Lênin nói: “Phải biết cách đưa được đông đảo quần chúng tham gia vào những hoạt động cách mạng thực tiễn. Không những phải biết cách phân bổ những lực lượng giai cấp, những đạo quân đông đảo hàng triệu người vào đúng những vị trí xác định của nó, mà còn phải biết xem xét và sử dụng đúng những lực lượng còn có tác dụng lịch sử nhất định của tất cả các giai cấp và các tầng lớp để có được một hoạt động cách mạng thật sự có tính chất quần chúng sâu rộng”[1].
Phương pháp cách mạng là sản phẩm của tư duy lý luận khoa học và hoạt động thực tiễn sáng tạo. Để có phương pháp cách mạng đúng đắn trong từng thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn chăm lo nâng cao trình độ lý luận cách mạng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, nâng cao năng lực hiểu biết thực tiễn của đất nước và tổng kết kinh nghiệm tiến hành cách mạng ở nước ta, đồng thời biết tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của cách mạng các nước. Nhờ đó, Đảng ta đã lựa chọn và vận dụng thành công các phương pháp đấu tranh cách mạng trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ giai đoạn (1930-1945).
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng được thông qua ở Hội nghị thành lập Đảng (3-2-1930) đã xác định những mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược cơ bản của giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta là đấu tranh giành độc lập dân tộc, giải phóng nhân dân khỏi ách áp bức bóc lột của chủ nghĩa đế quốc và giai cấp địa chủ phong kiến bằng con đường đấu tranh cách mạng. Vào lúc đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghiêm khắc phê phán những tư tưởng và hành động có tính manh động, bột phát; đồng thời xác định rõ là phải hết sức chăm lo giáo dục quần chúng thành những lực lượng cách mạng tự giác, phải dựa vào phong trào cách mạng thực sự có tính chất quần chúng sâu rộng, lấy giai cấp công nhân và giai cấp nông dân làm nòng cốt để tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Nhờ có nhận thức đúng đắn những vấn đề có tính nguyên tắc trong việc xác lập phương pháp cách mạng, phong trào cách mạng trong nước đã phát triển mạnh về tổ chức, mở rộng địa bàn hoạt động, thu hút đông đảo quần chúng tham gia và huy động được sức mạnh to lớn của toàn dân tộc lập nên thắng lợi to lớn của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.
Từ thực tiễn lịch sử đó, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm to lớn trong việc sử dụng phương pháp cách mạng của Đảng ta thời kỳ 1930-1945 với những nội dung chính sau:
Một là, nhận định đúng về đặc điểm tình hình chính trị xã hội của đất nước để xây dựng phương pháp cách mạng.
Giai đoạn 1930-1945 là giai đoạn xã hội Việt Nam đã hoàn toàn thay đổi từ một xã hội phong kiến thuần túy trở thành một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Trong xã hội đó, đế quốc và phong kiến cấu kết chặt chẽ với nhau để áp bức, bóc lột nhân dân ta. Thực dân Pháp đã thiết lập ách thống trị bằng cách thi hành chế độ thống trị hết sức hà khắc, dã man, với bộ máy bạo lực phản động. Dưới chế độ đó, người dân không có một chút tự do, dân chủ, họ bị áp bức đến tận xương tủy, họ bị bắt, bị giết mà không cần xét xử, những quyền sống tối thiểu của nhân dân ta đều bị tước đoạt; chúng thẳng tay đàn áp các phong trào yêu nước và cách mạng. Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã sớm nhận thức được sự chuyển biến ấy và Đảng ta đã xác định phương pháp cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta là con đường cách mạng bạo lực. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng chỉ rõ: “Sự áp bức và bóc lột vô nhân đạo của đế quốc Pháp đã làm cho đồng bào ta hiểu rằng có cách mạng thì sống, không có cách mạng thì chết”[2]. Đồng thời, Đảng cũng xác định cần phải có sách lược đấu tranh cách mạng thích hợp để lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông về phía vô sản “bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng lập Hiến…) thì phải đánh đổ”[3] và “…không khi nào nhượng bộ một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào con đường thỏa hiệp”[4]. Mọi khuynh hướng cải lương, thỏa hiệp đều không thể đưa cách mạng đi đến thành công. Điều này đã được minh chứng trong thực tiễn qua các phong trào yêu nước trước khi Đảng ta ra đời, như phong trào Cần Vương, phong trào của cụ Hoàng Hoa Thám, Thủ Khoa Huân; phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản của cụ Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu…Tất cả những phong trào yêu nước này đều đi đến thất bại bởi vì chưa có đường lối đấu tranh đúng đắn, một phương pháp cách mạng thực sự phù hợp. Trải qua 3 cao trào cách mạng (1930-1931), cao trào cách mạng (1936-1939) và cao trào cách mạng (1939-1945), bằng phương pháp cách mạng bạo lực dựa trên sức mạnh của quần chúng, Đảng ta đã đưa cách mạng nước ta giành từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, đỉnh cao là thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đã mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc. Có thể nói, nhờ sớm xác định rõ tính chất, đặc điểm chính trị xã hội của nước ta là một nước thuộc địa nửa phong kiến, nên Đảng ta đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, phương pháp cách mạng phù hợp. Đây là nhân tố quyết định góp phần làm nên thắng lợi cho cách mạng nước nhà.
Hai là, xác định đúng đối tuợng để đề ra phương pháp đấu tranh cách mạng phù hợp.
Thực tiễn lịch sử trong giai đoạn 1930-1945 đã chứng minh sự nhạy bén của Đảng ta trong việc xác định đúng đối tượng của cách mạng. Ngay khi thực dân Pháp đặt chân lên xâm lược nước ta, Đảng ta đã chỉ rõ thực dân Pháp là kẻ thù chính của dân tộc và tập hợp lực lượng và hướng ngọn cờ đấu tranh của quần chúng nhân dân vào chủ nghĩa đế quốc. Nhờ xác định đúng đặc điểm của đối tượng cách mạng, Đảng ta đã đề ra cách thức, phương pháp đấu tranh phù hợp, xác định phương pháp tổ chức lực lượng, phát huy được tiềm năng to lớn của quần chúng và tập hợp được tối đa lực lượng để làm nên thắng lợi cuối cùng cho cách mạng.
Ba là, xác định đúng về lực lượng cách mạng để có phương pháp tổ chức và huy động hiệu quả. Nhận thức sâu sắc về Chủ nghĩa Mác-Lênin coi liên minh công-nông là lực lượng chủ yếu của chuyên chính vô sản trong đấu tranh giành chính quyền và xây dựng CNXH, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, tổ chức ra lực lượng cách mạng liên minh công-nông trong đó giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo. Hồ Chí Minh và Đảng ta nhận định, giai cấp công nhân Việt Nam tuy nhỏ nhưng cũng có đủ những đặc điểm của giai cấp công nhân quốc tế, giai cấp nông dân dù đông đảo nhưng vẫn không thể là lực lượng lãnh đạo cách mạng vì gắn liền với phương thức sản xuất lạc hậu, không có hệ tư tưởng độc lập. Giai cấp nông dân chỉ thực sự lớn mạnh khi liên minh với giai cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân mới giành được thắng lợi trong cách mạng. Với tư duy lý luận sáng tạo và bám sát thực tiễn ấy, Đảng ta đã tập trung triển khai xây dựng lực lượng và tổ chức quần chúng đấu tranh trên các địa bàn chiến lược, nơi có đông đảo giai cấp công nhân và nông dân sinh sống và tiếp đó là phát triển rộng trên địa bàn thành thị và nông thôn. Với cách thức tổ chức lực lượng sáng tạo ấy, chỉ một thời gian ngắn lực lượng cách mạng của Đảng đã phát triển mạnh mẽ và rộng khắp, được tổ chức chặt chẽ và hình thành sức mạnh đấu tranh cách mạng to lớn.
Bốn là, xác định cách thức tập hợp lực lượng quần chúng đúng làm cơ sở cho việc hình thành và phát triển đội quân chính trị của cách mạng.
Hồ Chí Minh và Đảng ta xác định rõ quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” và coi nhiệm vụ tập hợp và xây dựng lực lượng quần chúng là vấn đề cơ bản có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của cách mạng. Đây cũng được coi là nét độc đáo trong phương pháp cách mạng của Đảng ta qua các thời kỳ lịch sử của cách mạng. Để tập hợp được lực lượng quần chúng trước hết phải đề ra khẩu hiệu đấu tranh đúng, kịp thời, có sức động viên lôi cuốn quần chúng một cách mạnh mẽ và rộng rãi, đưa quần chúng vào cuộc đấu tranh từ hình thức thấp đến hình thức cao; phải thông qua đấu tranh mà giác ngộ chính trị của quần chúng. Xây dựng lực lượng quần chúng, tuyên truyền, tổ chức và đấu tranh là những vấn đề có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và là cơ sở để hình thành và phát triển đội quân chính trị rộng lớn của quần chúng, chuẩn bị cho bước phát triển nhảy vọt của cách mạng. Thực tiễn lịch sử đã khẳng định, thời kỳ 1930-1931 với đường lối chống đế quốc và phong kiến, Đảng ta đã giương cao khẩu hiệu “độc lập dân tộc” và “người cày có ruộng” để tập hợp lực lượng. Nhờ sự đúng đắn và đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân nên Đảng ta đã nhanh chóng thu hút và lôi cuốn giai cấp nông dân đi theo giai cấp công nhân bước lên vũ đài chính trị.
Thời kỳ 1936-1939, bằng nhiều hình thức tập hợp lực lượng với những hình thức đấu tranh phong phú của Đảng, Mặt trận dân chủ Đông Dương đã hình thành (năm 1939) để tạo ra đội quân chính trị rộng lớn, chuẩn bị lực lượng cho cách mạng tháng Tám năm 1945.
Thời kỳ 1939-1945, để kịp thời phục vụ cho việc chuyển hướng chiến lược, tập trung tối đa lực lượng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, Mặt trận Việt Minh (Việt Nam độc lập đồng minh) được thành lập với phương châm tập hợp tất cả những người Việt Nam yêu nước, cùng chung ý chí giành độc lập cho dân tộc đều có thể đứng vào hàng ngũ của Mặt trận Việt Minh. Mặt trận Việt Minh đã trở thành ngọn cờ đoàn kết dân tộc, thu hút hết thảy các giai cấp, tầng lớp, đảng phái yêu nước có tinh thần chống đế quốc và tay sai, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, dân tộc. Chính điều đó đã khơi dậy được sức mạnh của cả dân tộc đứng lên giành độc lập bằng cách đem sức ta mà giải phóng cho ta, đưa đến thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Năm là, sử dụng phương pháp cách mạng bạo lực đúng thời cơ phát huy tối đa sức mạnh của đông đảo quần chúng.
C. Mác cho rằng, bạo lực chỉ là bà đỡ cho một xã hội đã thai nghén trong lòng xã hội cũ. Do đó, bạo lực không phải là mục đích của giai cấp vô sản mà chỉ là phương tiện của giai cấp vô sản mà thôi. Nắm vững vấn đề có tính nguyên tắc đó, Đảng ta đã giải quyết thành công mối quan hệ giữa mục đích và phương tiện, mục tiêu và phương pháp cách mạng trong quá trình lịch sử khi phải sử dụng đến bạo lực cách mạng. Khi kẻ thù đã lún sâu vào thất bại, không thể thống trị như cũ được nữa, và nhân dân ta cũng không thể sống mãi như thế được nữa thì lúc đó nắm chắc thời cơ và tình thế cách mạng để lãnh đạo quần chúng nhân dân đấu tranh giành lấy chính quyền về tay nhân dân đó là con đường phát triển tất yếu của cách mạng nước ta. Trong sử dụng bạo lực cách mạng, Đảng ta đã kết hợp chặt chẽ hai lực lượng chính trị, quân sự và sử dụng kết hợp hai hình thức đấu tranh (đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự) để hình thành nên phương pháp cách mạng bạo lực hiệu quả. Trong đó, đấu tranh chính trị được xác định là hình thức đấu tranh cơ bản, có ý nghĩa quyết định trong mọi thời kỳ cách mạng, có sức tiến công và tạo ra thế uy hiếp địch rất to lớn về mặt chính trị tinh thần. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên coi trọng việc xây dựng các lực lượng chính trị. Các đoàn thể quần chúng cách mạng thật sự là những đội quân đấu tranh chính trị chống địch ở khắp nông thôn và thành thị. Khi thời cơ xuất hiện, khi kẻ địch bị thất bại và hoang mang cực độ, những lực lượng chính trị đông đảo của các tổ chức quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giữ vai trò quan trọng trong việc giành thắng lợi của cách mạng. Tuy nhiên, nếu chỉ có đấu tranh chính trị và sử dụng lực lượng chính trị thì sức mạnh đấu tranh của quần chúng không được phát huy đầy đủ, do đó tất yếu phải được kết hợp với đấu tranh vũ trang. Đấu tranh vũ trang là hình thức đấu tranh cơ bản có tác dụng trực tiếp tiêu hao sinh lực địch, đập tan những âm mưu và hành động chính trị, quân sự của chúng, thắng lợi của đấu tranh quân sự cũng là tiền đề để đấu tranh chính trị phát triển. và như vậy mới tạo ra được phương pháp cách mạng hoàn chỉnh để đánh bại mọi âm mưu của kẻ thù. Trải qua thực tiễn, Đảng ta đã giải quyết thành công trong kết hợp giữa các hình thức đấu tranh một cách linh hoạt, sáng tạo, biết kết hợp và chuyển đổi khéo léo các hình thức đấu tranh, khởi nghĩa phù hợp với quy luật và truyền thống “lấy nhỏ đánh lớn, lấy yếu địch mạnh” của ông cha ta.
Sáu là, nắm đúng thời cơ phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền.
Bên cạnh việc chuẩn bị lực lượng cho cách mạng thì vấn đề xác định thời cơ chín muồi để phát động quần chúng đấu tranh cách mạng cũng là nét độc đáo về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng ta trong giai đoạn 1930-1945. Sau khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, Trung ương Đảng đã ra lời hiệu triệu hưởng ứng các cuộc khởi nghĩa đó và đặt vấn đề phải đi tới vũ trang khởi nghĩa. Từ kinh nghiệm của các cuộc khởi nghĩa, của hoạt động của Cứu quốc quân, chiến tranh du kích ở Bắc Sơn - Vũ Nhai, Đảng ta đã quyết định đi đến khởi nghĩa vũ trang: Cuộc cách mạng Đông Dương phải được kết thúc bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang. Điều kiện để khởi nghĩa bằng vũ trang là: Mặt trận cứu quốc đã thống nhất được toàn quốc, nhân dân không thể sống được nữa dưới ách thống trị của Pháp - Nhật, mà đã sẵn sàng bước vào con đường khởi nghĩa; những điều kiện khách quan thuận lợi xuất hiện như quân Đồng minh thắng Nhật hay cách mạng nổ ra ở Pháp, ở Nhật.
Hội nghị Trung ương 8 đã dự liệu những điều kiện để chuẩn bị cho những điều kiện đó phát triển và khẳng định: Ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa. Trước khi tiến hành khởi nghĩa vũ trang, Đảng ta hết sức chú trọng phân tích tình thế cách mạng cả trong nước và quốc tế để chủ động chuẩn bị về mọi mặt thúc đẩy thời cơ cách mạng. Việc nhận định đúng tình hình đóng vai trò quan trọng trong xác định thời cơ. Tại Hội nghị Trung ương tháng 5-1941, Đảng ta đã dự báo chính xác tình hình quốc tế: Liên Xô thắng trận, quân Trung Quốc phản công, quân Nhật đang mắc sự phản công của Anh-Mỹ và tình hình thế giới sẽ biến chuyển ghê gớm làm cho tình hình Đông Dương thay đổi có lợi cho cách mạng. Ta phải luôn luôn chuẩn một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù. Hội nghị đã nhận định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể quốc gia dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai, cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”[5]. Với những phân tích, đánh giá đúng tình hình, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác định đúng thời cơ để tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, lập nên nhà nước độc lập đầu tiên của Đông Nam Á - Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ đầu những năm 40 của thế kỷ XX đã diễn ra theo đúng đường lối cách mạng giải phóng dân tộc mà Đảng và Hồ Chí Minh đã đề ra.
Trong quá trình lãnh đạo, Đảng đã giải quyết thành công nhiều vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn và đặc biệt là đã phân tích, đánh giá đúng tình trong nước và thế giới để quyết định thời cơ cách mạng. Đó vừa là khoa học vừa là nghệ thuật trong lãnh đạo cách mạng nói chung và trong khởi nghĩa giành chính quyền nói riêng.
Một thành công nổi bật của Đảng và Hồ Chí Minh trong giai đoạn này là đã huy động được sức mạnh của lực lượng toàn dân tộc, nêu cao tinh thân yêu nước, khát vọng độc lập tự do ý chí tự lực, tự cường, quyết tâm đem sức ta mà tự giải phóng cho ta; đã tập hợp được các tổ chức yêu nước và đông đảo quần chúng nhân dân thành một khối và phát triển lực lượng cách mạng rộng khắp trên tất cả địa bàn rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị; trong tất cả mọi giai cấp, tầng lớp xã hội kể cả các giai cấp bóc lột, tầng lớp trên có tinh thần yêu nước, các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, các tôn giáo, các cá nhân yêu nước, tiến bộ. Không có lực lượng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc như thế, không thể có thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Từ những thành công trong giai đoạn 1930-1945 cho thấy, phát huy sức mạnh tổng hợp bằng sự phối hợp với nhiều lực lượng, kết hợp với nhiều lực lượng, nhiều cách đánh khác nhau, nhiều hình thức đấu tranh khác nhau là nét đặc sắc về phương pháp tiến hành cách mạng, là quy luật phát triển thắng lợi của cách mạng nước ta. Đây là bài học kinh nghiệm có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc không những trong cách mạng dân tộc dân chủ mà còn có ý nghĩa to lớn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay.
..........................................................
[1] Lênin toàn tập, Sdd, t.41, tr.98-99. [2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H.2002, T.2, tr.15. [3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H.2002, T.2, tr.4. [4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H.2002, T.2, tr.4. [5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H.2000, T.3, tr.113.
Đào Xuân Kỳ
Học viện CT-HC khu vực III