Bảo đảm dân chủ trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
Kiểm soát quyền lực nhằm bảo đảm dân chủ

Phát huy dân chủ, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân là mục tiêu bao trùm trong hoạt động xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay. Ảnh minh họa.

Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các hình thức, cơ chế kiểm tra, giám sát đã được coi trọng và hoàn thiện ở mức cao nhất, bảo đảm cho quyền lực Nhà nước luôn nằm trong quỹ đạo thực thi tốt nhất quyền dân chủ của nhân dân, phục vụ lợi ích chung của xã hội, trên cơ sở thượng tôn pháp luật. 

Là thước đo, tiêu chí đánh giá Nhà nước

Kiểm soát quyền lực trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam có thể được hiểu là hệ thống các hoạt động kiểm tra, giám sát, đánh giá, phát hiện các hành vi vượt quá thẩm quyền cho phép thực hiện của các chủ thể được trao quyền thực hiện các nhiệm vụ được phân công trong bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN.

Vấn đề kiểm soát quyền lực được Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định lần đầu tiên tại Đại hội XI, trong nội dung các quan điểm chỉ đạo quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, có nêu rõ: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”.

Đến Đại hội XIII của Đảng, vấn đề kiểm soát quyền lực được khẳng định là một trong những định hướng quan trọng trong phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, trong đó nhấn mạnh: “Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức”, “Tăng cường kiểm tra, giám sát công tác cán bộ, gắn với kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền”. Bên cạnh những định hướng, các quan điểm kể trên còn có các nhiệm vụ trong xây dựng, chỉnh đốn Ðảng trong sạch, vững mạnh và “tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước”.

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước “của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân”, “tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”, mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng trong xây dựng Nhà nước đều vì “lợi ích chính đáng của Nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”.

Bên cạnh đó, phát huy dân chủ và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân còn thể hiện bản chất ưu việt của chế độ XHCN ở Việt Nam, là thước đo, là tiêu chí đánh giá tính chất của dân, do dân, vì dân trong tổ chức hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN.

Vì vậy, phát huy dân chủ, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân là phương hướng, đồng thời là mục tiêu bao trùm trong hoạt động xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay.

Bên cạnh đó, trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam, mọi người được bảo đảm các quyền theo Hiến pháp và pháp luật; tất cả các thành viên xã hội được bình đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm. Quyền con người được thực thi một cách toàn diện và thực tế. Quyền con người là phẩm giá, nhu cầu, lợi ích và năng lực vốn có ở con người được pháp luật công nhận, nhằm thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm thực hiện và thúc đẩy.

Phát huy dân chủ trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam

Việt Nam đã xây dựng được các thể chế và thiết chế bảo đảm quyền con người, nhất là bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền chính trị, dân sự, các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; quyền của nhóm thiểu số hoặc yếu thế, như người cao tuổi, phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, người có tín ngưỡng, tôn giáo.

Công tác tuyên truyền, giáo dục, nghiên cứu về quyền con người có bước phát triển tích cực. Nhận thức về quyền con người được nâng cao hơn. Hợp tác quốc tế trên lĩnh vực quyền con người được đẩy mạnh. Đấu tranh, phản bác kịp thời và hiệu quả các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam.

Thực tiễn trong thời gian qua, vấn đề kiểm soát quyền lực trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - trung tâm của quyền lực chính trị trong hệ thống chính trị Việt Nam được thực hiện một cách chặt chẽ, nghiêm túc. Nhà nước được tổ chức quyền lực theo nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”.

Trên lĩnh vực lập pháp, Khoản 2 Điều 96 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: Chính phủ “đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định; trình dự án luật, dự án ngân sách nhà nước và các dự án khác trước Quốc hội; trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội”. Trong quy trình xây dựng luật, Chính phủ đóng vai trò trình bày, tiếp nhận các ý kiến phản hồi và thảo luận để hoàn thiện dự án luật. Quốc hội có quyền đề xuất và quyết định sửa đổi các dự án luật do Chính phủ trình. Chính phủ có quyền thảo luận các đề xuất, ý kiến của Quốc hội để giải trình dự án luật. Mặt khác, Hiến pháp cũng quy định các cơ quan nhà nước có quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhưng không được trái với Hiến pháp và các đạo luật.

Trên lĩnh vực hành pháp, Điều 94 Hiến pháp năm 2013 quy định, Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, được phân công cụ thể, rành mạch, có đầy đủ quyền lực và công cụ hiến định để thực hiện quyền hành pháp.

Tuy nhiên, bên cạnh quy định Chính phủ là cơ quan hành pháp, theo Hiến pháp năm 2013, các cơ quan nhà nước như Chủ tịch nước, Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án Nhân dân, các cơ quan đảng cũng tham gia thực hiện quyền hành pháp.

Hơn nữa, các kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội lớn của đất nước đều được Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thảo luận và quyết định thông qua để làm định hướng cho hoạt động xây dựng pháp luật của Nhà nước, qua đó bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.

Trên lĩnh vực tư pháp, Điều 102 Hiến pháp 2013 quy định Tòa án Nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, đồng thời khẳng định “Tòa án Nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam”. Chính điều này đã tạo cơ sở cho việc hình thành hệ thống tòa án theo cấp xét xử, qua đó nâng cao tính độc lập của các tòa án với các cơ quan nhà nước ở địa phương, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác xét xử, bảo vệ pháp luật của tòa án.

Bên cạnh những mặt đã đạt được trong kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm thực thi dân chủ trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, vẫn còn một số tồn tại, cụ thể như: hiện tượng lộng quyền trong ban hành văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền; lộng quyền trong chỉ đạo - điều hành, tổ chức, thực hiện các hoạt động thi hành pháp luật, tổ chức sản xuất - kinh doanh, thực hiện kế hoạch, chương trình, tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ; lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao trong thực hiện công vụ để trục lợi với việc ra các ý kiến chỉ đạo hoặc mệnh lệnh trái pháp luật; đặt ra các thủ tục hành chính, giấy phép, tiêu chuẩn, quy chuẩn, quy trình trái pháp luật gây khó khăn, nhũng nhiễu để trục lợi; vòi vĩnh tiền bạc hoặc cưỡng bức đối tượng bị thanh tra, kiểm tra, kiểm toán phải thực hiện hoặc không thực hiện vì lợi ích của cá nhân, đơn vị mình; tiếp tay cho thế lực thù địch, phản động làm tổn hại cho Đảng, cho đất nước để trục lợi,...

Để khắc phục được những hạn chế và tăng cường hơn nữa công tác kiểm soát quyền lực nhằm phát huy dân chủ trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, cần quán triệt sâu sắc các nội dung chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong kiểm soát quyền lực, điển hình như:

Một là, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, khoa học, hiệu quả. Đồng chí Tổng Bí thư cho rằng, để kiểm soát tốt quyền lực trong Đảng và Nhà nước, thì trước hết phải xây dựng được thể chế đầy đủ, chặt chẽ, làm căn cứ để thực hiện phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Người có chức, có quyền không thể tham nhũng được nếu có các quy định pháp lý chặt chẽ, đầy đủ, công khai, minh bạch và được kiểm tra, giám sát thường xuyên.

Vì vậy, đồng chí Tổng Bí thư yêu cầu phải “tiếp tục xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, quản lý kinh tế - xã hội và phòng, chống tham nhũng; kịp thời khắc phục những bất cập, bịt kín những “khoảng trống”, “kẽ hở” để “không thể tham nhũng”[1].

Hai là, kiên quyết, kiên trì, bài bản trong kiểm tra, giám sát thực thi quyền lực Nhà nước của cán bộ, công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo. Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, cần phải “tích cực, chủ động, tham mưu có hiệu quả cho Đảng lãnh đạo, chỉ đạo, đồng thời là lực lượng chủ công trong công tác phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực, bảo đảm kịp thời, nghiêm minh, góp phần hiện thực hóa và khẳng định quyết tâm chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước, “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”.

Ba là, cần phải xử lý nghiêm minh, có tình, có lý đối với cá nhân, tổ chức lợi dụng thực thi quyền lực Nhà nước, xâm phạm quyền dân chủ, lợi ích hợp pháp của nhân dân. Đồng chí Tổng Bí thư luôn khẳng định: “Nói đi đôi với làm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai, không chịu sức ép của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào”; “Việc xử lý nghiêm nhiều cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao sai phạm là điều không ai mong muốn, thậm chí rất đau xót, rất đau lòng, nhưng vì sự nghiệp chung, vì sự nghiêm minh kỷ luật của Đảng, thượng tôn pháp luật của Nhà nước, sự trong sạch, vững mạnh và uy tín của Đảng, Nhà nước và ý nguyện của nhân dân, chúng ta phải làm và kiên quyết làm. Kỷ luật một vài người để cứu muôn người và sẽ còn phải tiếp tục làm quyết liệt, mạnh mẽ hơn nữa trong thời gian tới”[2].

Bốn là, phát huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong giám sát, phản biện xã hội, bảo vệ quyền dân chủ của công dân; là lực lượng nòng cốt trong xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc cần phải thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ XHCN, quyền làm chủ của Nhân dân. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Mặt trận Tổ quốc phải tiếp tục làm tốt vai trò chủ trì hiệp thương, phối hợp giữa các tổ chức thành viên trong việc thực hiện giám sát và phản biện xã hội; phát huy tối đa trí tuệ của các nhà khoa học, những chuyên gia giàu kinh nghiệm tham gia xây dựng pháp luật, phản biện, đóng góp ý kiến hoàn thiện khâu đột phá về thể chế phát triển đất nước, thể chế phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của Nhân dân, các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và của cấp uỷ, chính quyền các địa phương, nhất là những vấn đề quốc kế dân sinh, liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của quần chúng nhân dân”[3].

Với mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân và vì dân, tất cả mọi quyền hành đều là của Nhân dân, nhiệm vụ kiểm soát cần phải được tiến hành nghiêm túc, triệt để thực sự. Chỉ có như vậy, mới khiến cho đội ngũ cán bộ nhà nước thực sự liêm chính, vì Nhân dân phục vụ, không có điều kiện và không dám lạm quyền, vi phạm tính dân chủ trong thực thi công vụ.


 

[1][2] Nguyễn Phú Trọng (2022), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.409; tr.396. 

[3] Nguyễn Phú Trọng (2022), Bài phát biểu chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc triển khai Chương trình hành động của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII ngày 16-8-2022.

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất