|
Ảnh minh hoạ
|
Nông thôn mới vùng DTTS
Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc DTTS và miền núi luôn là một nhiệm vụ mang tính chiến lược. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc trên tất cả các lĩnh vực, nhất là các chính sách đặc thù giải quyết những khó khăn của đồng bào DTTS. Tạo sinh kế, việc làm, định canh, định cư vững chắc cho đồng bào DTTS, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Tập trung triển khai hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030". Đây được xem là kim chỉ nam để khai thông các chương trình trình mục tiêu quốc gia đi vào hiệu quả, thực chất đối với đặc thù của từng vùng đồng bào DTTS.
Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 bước đầu đã giảm tỉ lệ hộ nghèo bình quân 1-1,5%/năm; tỉ lệ hộ nghèo DTTS giảm trên 3%/năm (riêng các huyện nghèo, giảm tỉ lệ nghèo từ 4-5%/năm).
Với việc tập trung đầu tư cải thiện hệ thống hạ tầng, giao thông, điện, đường, trường, trạm, bộ mặt nông thôn vùng đồng bào DTTS, miền núi đã có sự chuyển biến rõ rệt. Đường bê tông đã được xây dựng về đến hầu hết trung tâm xã vùng cao; các công trình thủy lợi, điện lưới quốc gia, trường học, trạm y tế cũng được đầu tư xây mới, tu sửa; thông tin liên lạc, mạng in-tơ-nét, mạng viễn thông di động được phủ sóng rộng rãi đến từng thôn, bản vùng đồng bào DTTS. Tính đến năm 2023, 100% xã miền núi, vùng đồng bào DTTS có điện lưới quốc gia; trên 98% xã có điểm liên lạc điện thoại công cộng; hơn 3.000 điểm truy cập viễn thông công cộng cho người dân; mạng điện thoại di động đã phủ sóng khắp vùng đồng bào DTTS với tỉ lệ phủ sóng mạng di động băng rộng 4G đạt 99,8% tổng dân số.
Điển hình như tỉnh Sơn La, đến năm 2023, đã đầu tư xây dựng 158 công trình nước sinh hoạt tập trung; giải quyết nước sinh hoạt phân tán cho 6.162 hộ; 97,55% xã có đường ô tô đến trung tâm xã được rải nhựa hoặc bê tông; 78,49% bản có đường ô tô đến trung tâm được cứng hóa; 100% trường, lớp học, trạm y tế xây dựng kiên cố...
Y tế, giáo dục vùng đồng bào DTTS được quan tâm, đầu tư trên cả nước. Đến nay số xã có trạm y tế là 99,4%, trong đó có khoảng 60% trạm y tế xã đạt tiêu chí quốc gia về y tế; 96,12% người DTTS sử dụng thẻ bảo hiểm y tế. Toàn quốc hiện có 320 trường phổ thông dân tộc nội trú ở 49 tỉnh, thành phố với 105.818 học sinh; 1.134 trường phổ thông dân tộc bán trú ở 29 tỉnh, thành phố với 250.795 học sinh; tỉ lệ học sinh DTTS trong độ tuổi tới lớp tăng, số học sinh DTTS bỏ học giảm.
Tuy nhiên, đời sống của đồng bào còn nhiều khó khăn, vẫn còn khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền; tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của vùng đồng bào DTTS còn thấp, tỉ lệ đói nghèo ở một số vùng sâu, vùng xa còn cao… Cùng với đó, trình độ nguồn nhân lực còn hạn chế, lao động qua đào tạo thấp; vẫn còn tình trạng một bộ phận dân cư mù chữ hoặc tái mù chữ. Bản sắc văn hóa của một số dân tộc đứng trước nguy cơ mai một, bị đồng hóa. Các vấn đề xã hội mới nảy sinh như: lao động, việc làm và dịch chuyển lao động ra đô thị; lao động xuyên biên giới; hôn nhân qua biên giới, các tệ nạn xã hội, ma túy, mại dâm, mua bán người…diễn biến ngày càng phức tạp, đặt ra nhiều nhiệm vụ cần giải quyết về kinh tế - xã hội, văn hóa vùng đồng bào dân tộc.
Thực hiện đồng bộ các chương trình, chính sách đặc thù
Để tiếp tục phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào trong thời gian tới, nhất là xây dựng các chính sách đặc thù giải quyết những khó khăn của đồng bào DTTS, cần thực hiện thống nhất, đồng bộ, kịp thời và hiệu quả các giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện hiệu quả Quyết định số 1719/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi. Đây là giải pháp quan trọng, mang tính bao trùm với mục tiêu tổng quát nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế của các địa phương trong vùng đồng bào DTTS và miền núi. Đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội; giảm nghèo nhanh, bền vững, thu hẹp dần khoảng cách về mức sống, thu nhập bình quân của vùng so với bình quân chung của cả nước; giảm dần số xã, thôn đặc biệt khó khăn; quy hoạch, sắp xếp, bố trí ổn định dân cư, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, liên vùng, kết nối với các vùng phát triển; phát triển toàn diện giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa; cải thiện rõ rệt đời sống của Nhân dân.
Thứ hai, cần có cơ chế đặc thù trong đầu tư, phân bổ ngân sách nhà nước hằng năm cho các địa phương miền núi, vùng đồng bào DTTS, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Trong những năm qua, các tỉnh miền núi, biên giới, vùng đồng bào DTTS đã có bước phát triển to lớn, toàn diện trên các lĩnh vực, tuy nhiên vẫn còn là khu vực nhiều khó khăn nhất. Để tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi, Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành cần tiếp tục quan tâm nghiên cứu có cơ chế đặc thù trong đầu tư, phân bổ ngân sách nhà nước hằng năm cho khu vực này; cần xem xét đến những đặc điểm khó khăn, đặc thù của miền núi DTTS, như: địa hình phức tạp, chia cắt, hạ tầng thấp kém… Đồng thời, Nhà nước cần đầu tư hạ tầng giao thông đường bộ kết nối giữa các khu vực miền núi, để tạo kết nối liên vùng, thúc đẩy vận chuyển hàng hóa, phát triển du lịch, kinh tế cửa khẩu, bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia. Đặc biệt, trong phân bổ vốn đầu tư công, cần ưu tiên hơn cho các địa phương khó khăn, khu vực đồng bào DTTS và miền núi.
Thứ ba, tập trung đẩy mạnh các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội vùng đồng bào DTTS. Chú trọng công tác văn hóa, khai thác và phát huy những điểm thuận lợi, tích cực trong phong tục, tập quán của đồng bào các dân tộc phục vụ cho mục đích phát triển. Đây là giải pháp trực tiếp góp phần phát triển kinh tế - xã hội khu vực đồng bào DTTS và miền núi.
Trong đó, tập trung nâng cao năng lực, hiệu quả sản xuất nông, lâm nghiệp, chuyển đổi lao động sang lĩnh vực phi nông nghiệp nhằm bảo đảm sinh kế và thu nhập cho người dân, góp phần giảm nghèo. Xây dựng chính sách ưu tiên bảo vệ và bảo đảm việc làm đối với nhóm lao động trong khu vực phi chính thức, nhất là đối với lao động là người DTTS ở nông thôn, lao động di cư tự do làm theo vụ việc, thời vụ tại các vùng đô thị, các vùng kinh tế phát triển nhằm tăng cường tính bền vững việc làm.
Sớm hoàn thành việc đo đạc, phân loại, xác định các ranh giới rừng, đất rừng, nhất là với các nơi còn chồng lấn, tranh chấp. Đẩy mạnh việc thực hiện giao khoán rừng, đất rừng cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng DTTS trên địa bàn theo nguyên tắc cùng chịu trách nhiệm quản lý, bảo vệ, phát triển rừng và cùng hưởng lợi.
Đẩy nhanh việc sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp gắn với giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiếu đất. Cùng với đó, kết hợp bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các DTTS với phát triển kinh tế, phát triển du lịch. Hình thành nên sức mạnh văn hóa trong nội tại các cộng đồng dân tộc để chống lại ảnh hưởng, tác động của văn hóa ngoại lai và luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Xử lý tốt các vấn đề trong đời sống văn hóa, tinh thần vùng đồng bào dân tộc như: xóa bỏ từng bước một số tập tục lạc hậu; ngăn ngừa quá trình biến đổi văn hóa gốc làm mất đi giá trị truyền thống; hạn chế quá trình thay đổi tín ngưỡng sang tôn giáo ở một số vùng.
Thứ tư, chú trọng xây dựng hệ thống chính trị cơ sở khu vực vùng đồng bào DTTS và miền núi vững mạnh, phát huy nguồn lực tại chỗ trong phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng. Cấp ủy, tổ chức đảng cùng với hệ thống chính trị cơ sở có vai trò quan trọng trong thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi. Chú trọng xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ người dân tộc, nhất là cán bộ tại chỗ. Tăng cường và đổi mới công tác dân vận, công tác thông tin, tuyên truyền; kết hợp công tác vận động quần chúng với công tác nghiệp vụ của lực lượng vũ trang, nâng cao hiệu quả phối hợp giữa lực lượng vũ trang với mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân ở vùng đồng bào DTTS, trong đó chú trọng xây dựng “thế trận lòng dân”, thực hiện phong trào toàn dân bảo vệ an ninh, trật tự.
Đối với khu vực biên giới, nơi có đông đồng bào có mối quan hệ đồng tộc, đồng tôn với đồng bào các nước bạn, chính quyền địa phương và lực lượng an ninh cần nắm chắc tình hình, quản lý tốt việc đi lại làm ăn, thăm thân, hôn nhân và quản lý lao động qua biên giới. Tăng cường công tác phát hiện, ngăn ngừa và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật, lao động trái phép qua biên giới; trấn áp các loại tội phạm như buôn bán ma túy, mua bán người, xâm phạm an ninh biên giới…
NGUYỄN THIỆN TÂN - VÕ VĂN THẮNG