Tại phiên họp ngày 9-11, Quốc hội khóa XIII
đã thông qua Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012, Nghị
quyết về kế hoạch vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2011-2015 và Nghị quyết về
kế hoạch Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2011-2015. Quốc hội cũng thảo
luận tại hội trường về dự thảo Luật Tài nguyên nước.
Với tỷ lệ tán thành đạt 90,4%,
Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm
2012 với mục tiêu tổng quát, 13 chỉ tiêu chủ yếu và 9 nhiệm vụ, giải pháp định
hướng để Chính phủ điều hành và thực hiện.
Theo đó, mục tiêu tổng quát của kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2012 là
“Ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng ở mức
hợp lý gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao
chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; bảo đảm phúc lợi xã hội, an sinh xã hội
và cải thiện đời sống nhân dân; giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng,
bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, nâng cao hiệu quả hoạt động
đối ngoại và hội nhập quốc tế”.
Các chỉ tiêu chủ yếu gồm: 5 chỉ tiêu về kinh tế, 6 chỉ tiêu về xã hội và 2 chỉ
tiêu về môi trường. Trong đó, đáng chú ý là các chỉ tiêu: tổng sản phẩm trong
nước GDP tăng 6-6,5%; tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 13%, nhập siêu khoảng
11-12% trên tổng kim ngạch xuất khẩu; bội chi ngân sách dưới 4,8% GDP; chỉ số
giá tiêu dùng tăng dưới 10%; tạo việc làm cho 1,6 triệu lao động; tỷ lệ thất nghiệp
thành thị khoảng 4%; tỷ lệ hộ nghèo giảm 2%, riêng các huyện nghèo giảm 4%; tỷ
lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 79%.
Để thực hiện thành công kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bên cạnh 8 nhiệm
vụ, giải pháp định hướng khác, Quốc hội giao Chính phủ khẩn trương hoàn thành
đề án tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng
nâng cao chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh; thực hiện đồng bộ theo lộ
trình thích hợp trong tất cả các ngành, lĩnh vực trên phạm vi cả nước và báo
cáo Quốc hội tại kỳ họp thứ Ba.
Sau khi nghe Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) giải trình về khả năng của nền
kinh tế không thể đáp ứng nhu cầu vốn trái phiếu Chính phủ (TPCP) cho các công
trình, dự án đã được phê duyệt lên tới 500.000 tỷ đồng, với tỷ lệ tán thành đạt
89%, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về kế hoạch vốn TPCP giai đoạn 2011-2015
với tổng mức vốn trái phiếu Chính phủ không vượt quá 225.000 tỷ đồng.
Quốc hội giao Chính phủ xây dựng nguyên tắc, tiêu chí cụ thể để rà soát danh
mục các dự án, công trình trong Nghị quyết số 881/NQ-UBTVQH12 của UBTVQH, 40 dự
án đã được UBTVQH cho phép bổ sung năm 2011 và chương trình kiên cố hóa trường
lớp học, nhà công vụ cho giáo viên trình UBTVQH xem xét quyết định. Quốc hội đề
nghị Chính phủ không bổ sung mới danh mục dự án, công trình sử dụng vốn TPCP
giai đoạn 2011-2015; không chuyển chỉ tiêu kế hoạch vốn TPCP được Quốc hội
quyết định hằng năm sang năm sau cũng như không để tồn đọng vốn. Cùng với khẩn
trương quyết định các giải pháp đối với công trình, dự án thuộc diện chuyển đổi
hình thức, giãn, hoãn không được tiếp tục sử dụng từ nguồn vốn TPCP trong giai
đoạn 2001-2015, Chính phủ cần có giải pháp nâng cao chất lượng quản lý, thanh
tra, kiểm tra việc triển khai thực hiện và sử dụng vốn để đảm bảo tiến độ, chất
lượng và hiệu quả của các dự án, công trình được đầu tư từ nguồn vốn TPCP.
Với tỷ lệ tán thành đạt 82%, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về kế hoạch
chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG) giai đoạn 2011 – 2015 với tổng mức kinh
phí thực hiện cả giai đoạn không quá 276.372 tỷ đồng cho 16 chương trình như đề
xuất ban đầu của Chính phủ.
Theo đó, danh mục CTMTQG giai đoạn 2011-2015 gồm: Việc làm và dạy nghề; Giảm
nghèo bền vững; Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; Y tế; dân số và kế
hoạch hóa gia đình; Vệ sinh an toàn thực phẩm; Văn hóa; Giáo dục và đào tạo;
Phòng - chống ma túy; Phòng, chống tội phạm; Sử dụng năng lượng tiết kiệm và
hiệu quả; Ứng phó với biến đổi khí hậu; Xây dựng nông thôn mới; Phòng chống
HIV/AIDS; Đưa thông tin về cơ sở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải
đảo; Khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường.
Nguồn kinh phí thực hiện CTMTQG không quá 276.327 tỷ đồng được huy động từ ngân
sách Trung ương là 105.392 tỷ đồng (chưa bao gồm số đã phân bổ cho Chương trình
135 giai đoạn 3 và chương trình 30a năm 2011), ngân sách địa phương là 61.542,5
tỷ đồng; vốn nước ngoài là 19.987,5 tỷ đồng; vốn tín dụng là 39.815 tỷ đồng và
vốn huy động khác là 49.635 tỷ đồng.
Quốc hội giao Chính phủ rà soát
mục tiêu, nhiệm vụ, thời gian thực hiện và nguồn lực cụ thể của các dự án thành
phần trong từng CTMTQG, trình UBTVQH cho ý kiến trước khi thực hiện. Đồng thời,
Chính phủ đề ra các giải pháp để nâng cao chất lượng quản lý, thanh tra việc
triển khai thực hiện cũng như việc sử dụng các nguồn lực nhằm đảm bảo hiệu quả
của các CTMTQG. Bên cạnh đó, UBTVQH, Ủy ban Tài chính – Ngân sách, Hội đồng Dân
tộc và các ủy ban khác của Quốc hội cùng các đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu
Quốc hội, theo chức năng, nhiệm vụ, giám sát việc quản lý, sử dụng vốn CTMTQG
tại các bộ, ngành và địa phương.
Trong phiên thảo luận tại hội trường sáng 9-11 về dự thảo Luật Tài nguyên nước
sửa đổi, mặc dù tồn tại nhiều ý kiến khác nhau về một số nội dung cụ thể trong
dự Luật nhưng các đại biểu đều tán thành cần thiết phải ban hành Luật Tài
nguyên nước sửa đổi.
Đánh giá Dự thảo Luật Tài nguyên nước với 86 điều, trong đó có 39 điều mới và
45 điều đã được sửa đổi, bổ sung là bước tiến mới trong tiếp cận xây dựng Luật,
đáp ứng đúng định hướng phát triển bền vững nguồn tài nguyên nước. Có ý kiến đề
nghị gắn trách nhiệm và quyền lợi rõ ràng giữa các tổ chức cá nhân khai thác,
sử dụng với tổ chức bảo vệ, khai thác nguồn tài nguyên này, nhất là tại các địa
phương. Theo đó, nguyên tắc quản lý là bảo đảm hài hòa lợi ích, tiết kiệm, an
toàn, có hiệu quả, sử dụng tổng hợp đa mục tiêu, đảm bảo công bằng giữa quyền
và lợi ích của các tổ chức cá nhân tham gia hoạt động này.
Việc điều chuyển nước trong phạm vi lưu vực sông thuộc tỉnh cần xin ý kiến của
UBND các tỉnh có liên quan vì đó là lợi ích chung của cả luồng sông. Tương tự
như vậy, việc xây dựng các công trình khai thác, sử dụng tài nguyên nước trên
dòng sông cần tham luận giữa các tỉnh có sông chảy qua. Dự Luật cần có thêm quy
định về trách nhiệm chủ đầu tư để xảy ra sự cố khi vận hành nhà máy thủy điện
thì phải có trách nhiệm bồi thường những thiệt hại gây ra. Với tầm nhìn dài
hạn, quy hoạch tài nguyên nước nên giao UBND tỉnh, thành phố lập, phê duyệt
nhiệm vụ sau khi có ý kiến phê duyệt của Bộ Tài nguyên và Môi trường nhằm tạo
sự thống nhất trong phân cấp quản lý nhà nước trên toàn quốc. Luật cũng cần quy
định việc thu tiền sử dụng khai thác tài nguyên nước nhằm nâng cao ý thức,
trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân sử dụng; trong đó, nguồn thu từ khai thác
tài nguyên phải đưa vào ngân sách Nhà nước; các khoản chi phải được giám sát và
quyết toán chặt chẽ.
Không nên chia cắt tài nguyên nước thành nước trên đất liền, nước trên biển và
tài nguyên nước biển. Phạm vi điều chỉnh của dự Luật chỉ đề cập đến tài nguyên
nước trên vùng lãnh thổ bởi đã có Luật điều chỉnh về tài nguyên nước trên biển.
Tuy nhiên, đại biểu này vẫn băn khoăn và đề xuất đưa Tài nguyên nước vùng lãnh
hải vào Luật Tài nguyên nước trên biển vì lãnh hải cũng là lãnh thổ nước ta và
nguồn tài nguyên nước biển thậm chí này còn lớn hơn cả tài nguyên nước trong
lãnh thổ, cũng như có thể chuyển thành nước ngọt. Hơn nữa, việc quản lý tài
nguyên nước vùng lãnh hải rất cần thiết nhất là khi Việt Nam đang tập
trung đẩy mạnh phát triển kinh tế biển. Bên cạnh đó, dự Luật cần có quy định xử
nghiêm các hành vi cố ý đổ nước thải, chất thải gây ô nhiễm nguồn nước; hành vi
gây rò rỉ nước thải, chất thải do quản lý kém.
Những nội dung cụ thể trong dự Luật Tài nguyên nước sửa đổi mà các đại biểu
Quốc hội đóng góp sẽ được UBTVQH tiếp thu, chỉnh lý, sửa đổi và chỉ đạo Ủy ban
Kinh tế, các ủy ban, cơ quan liên quan của Chính phủ và Quốc hội nghiêm túc
tiếp thu, chỉnh lý để trình Quốc hội vào kỳ họp tới.
Nguồn: TTXVN