1. Nhận lời mời của Tổng thống Đại Hàn Dân Quốc Li Miêng Pắc và Phu
nhân, Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Trương Tấn Sang và Phu
nhân tiến hành chuyến thăm cấp Nhà nước tới Đại Hàn Dân Quốc từ ngày 8 đến 10-11-2011.
Trong thời gian thăm Hàn Quốc, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang hội đàm với Tổng
thống Li Miêng Pắc, hội kiến với Chủ tịch Quốc hội Pắc Hi Thê và Thủ tướng Kim Hoang Sích.
2. Tại hội đàm, Chủ tịch nước Trương
Tấn Sang và Tổng thống Li Miêng Pắc đã trao đổi ý kiến sâu rộng và đạt nhận
thức chung về nhiều vấn đề liên quan đến phương hướng phát triển và tăng cường
hợp tác thực chất trong quan hệ Việt Nam-Hàn Quốc, cũng như hợp tác trên các
diễn đàn khu vực và quốc tế.
Lãnh đạo hai nước đánh giá cao sự phát triển nhanh chóng trên tất cả các lĩnh
vực của quan hệ hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam và Hàn Quốc kể từ khi thiết lập
quan hệ ngoại giao năm 1992 và nâng cấp thành “Đối tác hợp tác chiến lược” nhân
chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao hai nước năm 2009. Hai bên nhất trí tiếp tục
củng cố và phát triển mạnh mẽ hơn nữa quan hệ hai nước vì lợi ích của cả hai
bên, góp phần vào hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
3. Lãnh đạo hai nước nhất trí
thúc đẩy hơn nữa các chuyến thăm và tiếp xúc giữa lãnh đạo cấp cao hai nước
nhằm tăng cường sự tin cậy và hiểu biết lẫn nhau và trao đổi ý kiến về các vấn
đề quan trọng liên quan đến quan hệ song phương, tình hình khu vực và quốc tế.
Hai bên hoan nghênh kết quả của cuộc Đối thoại chiến lược về ngoại giao-an
ninh-quốc phòng lần thứ nhất cấp thứ trưởng Ngoại giao và việc thiết lập Đối
thoại chính sách quốc phòng cấp thứ trưởng; nhất trí tiếp tục tăng cường giao
lưu và hợp tác giữa các cơ quan ngoại giao, an ninh - quốc phòng hai nước như
đối thoại chiến lược cũng như tăng cường hợp tác thực chất trong các lĩnh vực
huấn luyện và đào tạo nguồn nhân lực, cứu hộ cứu nạn, chống khủng bố, phòng
chống tội phạm, công nghiệp quốc phòng và hậu cần.
4. Lãnh đạo hai nước nhất trí nâng
quan hệ tin cậy, hữu nghị và hợp tác cùng có lợi giữa nhân dân hai nước lên tầm
cao mới nhân kỷ niệm 20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước vào năm
2012. Theo đó, hai bên tuyên bố năm 2012 là “Năm hữu nghị Việt Nam-Hàn Quốc” và
quyết định trong dịp này sẽ tổ chức nhiều hoạt động giao lưu và kỷ niệm đa
dạng, xem xét thúc đẩy các dự án hợp tác mang tính biểu tượng cho 20 năm tới.
5. Hai bên nhất trí cùng tích cực nỗ
lực nhằm sớm hoàn thành mục tiêu đưa kim ngạch thương mại song phương lên mức
20 tỷ USD trước năm 2015 và hướng tới mục tiêu 30 tỷ USD vào thời gian tới,
đồng thời, nỗ lực và hợp tác vì sự cân bằng của quan hệ thương mại song phương.
Trên cơ sở đó, phía Hàn Quốc sẽ tích cực xem xét đề nghị của Việt Nam về việc tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam
xuất khẩu vào Hàn Quốc. Hai bên nhất trí về tầm quan trọng của việc hợp tác
toàn diện trong lĩnh vực công nghiệp, trong đó coi trọng hợp tác kỹ thuật công
nghiệp, các ngành công nghiệp phụ trợ.
Lãnh đạo hai nước hoan nghênh Nhóm công tác chung về Hiệp định thương mại tự do
song phương Việt Nam-Hàn Quốc, được thành lập theo Tuyên bố chung giữa Chủ tịch
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Tổng thống Đại Hàn Dân Quốc
nhân chuyến thăm chính thức Việt Nam của Tổng thống Đại Hàn Dân Quốc năm 2009,
đã hoàn thành báo cáo của Nhóm và nhất trí hai nước sẽ tiếp tục các nỗ lực nhằm
mở rộng và tăng cường quan hệ thương mại và đầu tư song phương, trong đó bao
gồm xem xét khả năng đàm phán Hiệp định thương mại tự do song phương.
6. Phía Việt Nam ghi nhận sự đóng góp của các doanh nghiệp
Hàn Quốc đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam và tái khẳng định sẽ tiếp tục nỗ lực cải
thiện môi trường đầu tư và kinh doanh tại Việt Nam. Phía Việt Nam hoan nghênh các
doanh nghiệp Hàn Quốc tăng cường đầu tư vào Việt Nam, đặc biệt là trong các
lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, khai thác và chế biến sâu khoáng
sản, sản xuất các mặt hàng xuất khẩu và thay thế nhập khẩu.
7. Hai bên nhất trí cần tiếp tục hợp
tác trong phát triển năng lượng hạt nhân để góp phần ứng phó với biến đổi khí
hậu, đạt mục tiêu tăng trưởng các-bon thấp, bền vững và thúc đẩy phát triển kinh
tế ở hai nước.
Hai bên mong muốn tăng cường hợp
tác song phương trong lĩnh vực sử dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa
bình, cùng ghi nhận sự cần thiết của các biện pháp đảm bảo không phổ biến, an
ninh, an toàn hạt nhân phù hợp với các quy định quốc tế.
Hai bên ghi nhận và hoan nghênh
những kết quả hợp tác đã đạt được trong đề xuất nguyên cứu chung tổng thể về
hợp tác phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam vì mục đích hòa bình (OJPP). Đề
xuất này sẽ được sử dụng làm cơ sở cho các bước hợp tác tiếp theo do hai nước
thống nhất. Hai bên ghi nhận việc Hàn Quốc mong muốn hợp tác trong việc phát
triển các nhà máy điện hạt nhân tại Việt Nam, trong hoạt động đào tạo nguồn
nhân lực, nghiên cứu chuyển giao công nghệ và các vấn đề liên quan khác.
8. Phía Việt Nam cho rằng hợp tác
phát triển với Hàn Quốc là chất xúc tác quan trọng đối với sự phát triển kinh
tế - xã hội của Việt Nam và đề nghị Hàn Quốc tiếp tục coi Việt Nam là đối tác
hợp tác trọng điểm trong thời gian tới. Phía Hàn Quốc sẽ tiếp tục hợp tác một
cách hệ thống trên cơ sở chiến lược trung và dài hạn giai đoạn 2011-2015 (Chiến
lược Đối tác quốc gia) phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
Việt Nam.
9. Lãnh đạo hai nước chia sẻ về tầm
quan trọng của việc đào tạo nhân tài vì sự phát triển bền vững và nhất trí xem
xét hỗ trợ dự án hiện đại hóa công tác đào tạo cán bộ tòa án và xây dựng Trường
chuyên cấp 3 về khoa học công nghệ ở Hà Nội, coi đây là một dự án mang tính
biểu tượng kỷ niệm 20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao. Phía Hàn Quốc sẽ xem
xét hỗ trợ dự án nâng cấp Trường Cao đẳng Công nghệ thông tin hữu nghị Việt-Hàn
tại Đà Nẵng trên cơ sở tính khả thi của dự án, đồng thời sẽ tích cực xem xét đề
nghị của phía Việt Nam về việc thúc đẩy dự án xây dựng tuyến đường Lộ Tẻ-Rạch
Sỏi và tuyến đường Tân Vạn-Nhân Trạch bằng vốn EDCF.
10. Lãnh đạo hai nước nhất trí cùng
nỗ lực tăng cường giao lưu nhân dân, bảo vệ và bảo đảm các quyền lợi chính đáng
cho công dân của mỗi nước hiện đang cư trú tại nước bên kia, tăng cường hợp tác
về tư pháp và lãnh sự trong đó có việc thúc đẩy sớm ký Hiệp định tương trợ tư
pháp trong lĩnh vực dân sự.
11. Lãnh đạo hai nước nhất trí mở
rộng hợp tác về thông tin truyền thông như phát triển và ứng dụng công nghệ
thông tin, chính phủ điện tử, hợp tác khoa học-kỹ thuật bao gồm nghiên cứu và
phát triển chung, chuyển giao công nghệ mũi nhọn, tăng cường đầu tư vào khu
công nghệ cao... Bên cạnh đó, hai bên nhất trí tăng cường hợp tác, chia sẻ
thông tin và kinh nghiệm trong lĩnh vực tiêu chuẩn hóa, kiểm dịch, y tế, môi
trường. Hai bên đánh giá cao sự hợp tác hiệu quả trong lĩnh vực lao động và dạy
nghề thời gian qua và thỏa thuận tiếp tục hợp tác chặt chẽ nhằm tăng cường hợp
tác trong các lĩnh vực này trong thời gian tới.
12. Lãnh đạo hai nước cho rằng, thời
gian qua hai nước đã hợp tác chặt chẽ trên các diễn đàn khu vực và quốc tế;
nhất trí tiếp tục tăng cường hợp tác trong các vấn đề quốc tế như phát triển
bền vững, đối phó với biến đổi khí hậu, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng
loạt, chống khủng bố quốc tế, duy trì hòa bình, ổn định, bảo đảm tự do hàng hải
ở các vùng biển trong khu vực theo luật pháp quốc tế. Hai bên hoan nghênh việc
thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược ASEAN-Hàn Quốc năm 2010 và nhất trí tăng
cường hợp tác xây dựng Cộng đồng chung ASEAN và thực hiện một cách hiệu quả Kế hoạch tổng thể ASEAN về kết nối.